NGHIỆN RƯỢU MẠN TÍNH
I/ KHÁI NIỆM
Lạm dụng rượu lâu ngày thường đưa đến chứng nghiện rượu, khi đó rượu trở
thành tác nhân gây hại cho con người và để lại những hậu quả cho cá nhân và xã
hội. - Về mặt cơ thể rượu gây ra các bệnh tim mạch, viêm loét dạ dày, viêm các
dây thần kinh - Về mặt tâm thần rượu gây ra tình trạng phụ thuộc rượu, biến đổi
nhân cách do rượu, loạn thần do rượu, mất trí do rượu Nghiện rượu đã được
nghiên cứu từ giữa thế kỷ thứ 19 và cho tới nay vẫn còn là vấn đề thời sự, vì số
người nghiện rượu ngày càng gia tăng: ở Pháp các bệnh lý tâm thần do rượu chiếm
22% số bệnh nhân nội trú tại bệnh viện tâm thần (J. Ades 1990). Tại Bungaria các
bệnh nhân loạn thần do rượu chiếm 20% số giường bệnh tâm thần (T.S Tancuchev
1988). Tại Nam Tư 23,1% số bệnh nhân nằm viện tâm thần do rượu (D. Koretic
1991).
Ở nước ta trước đây các bệnh lý tâm thần do rượu rất hiếm, các công trình nghiên
cứu về lạm dụng rượu, nghiện rượu cũng còn ít. Trong những năm gần đây ngày
càng xuất hiện nhiều trường hợp loạn thần do rượu phải vào điều trị tại các cơ sở
bệnh viện tâm thần ở các tỉnh, thành phố và Viện Sức khỏe Tâm thần. Bệnh lý do
rượu đã chiếm một tỷ lệ đáng kể. Trước đây chỉ chiếm 0,31% số bệnh nhân nằm
viện 1990; thì 1994 các bệnh lý tâm thần do rượu đã lên tới 6,99%, tăng gấp hơn
22 lần (Võ Văn Bản, Trần Viết Nghị 1994). Nghiện rượu trong nhân dân từ 1,16 -
3,96 theo điều tra cơ bản tại một số địa phương 1994.
II/ RỢU ĐỐI VỚI CƠ THỂ
1. Sự hấp thu và bài tiết rợu Mức độ hấp thụ của rượu tùy thuộc vào loại rượu,
lượng uống rượu nhiều hay ít, lượng thức ăn đi kèm khi uống, thể trạng của người
uống, tâm trạng khi uống Rượu được hấp thu nhanh khoảng 20% số lượng rượu
được vào cơ thể ngay qua dạ dày, số còn lại được hấp thu qua ruột. Cơ thể thường
có phản ứng tự bảo vệ khi nồng độ rượu đưa vào quá cao, niêm mạc của dạ dày sẽ
bị kích thích tiết ra chất nhày làm giảm bớt sự hấp thu, cùng lúc đó môn vị co thắt
ngăn rượu không xuống ruột, làm cho người uống buồn nôn và nôn rượu ra ngoài.
Thức ăn chất đạm và chất béo làm chậm sự hấp thu của rượu, trái lại nước uống sẽ
làm tăng sự hấp thu của rượu, vào máu rượu được phân phối khắp cơ thể. Nhiễm
độc rượu là khi nào nồng độ rượu trong máu trên 0,15% thể tích. Khoảng 10% số
lượng rượu đào thải ra ngoài bằng đường hô hấp, phần lớn được khử ở gan và đào
thải qua nước tiểu. 2. Rợu đối với não Rượu không phải là một chất kích thích
mà là một chất làm suy giảm cả hai quá trình hưng phấn và ức chế của hệ thần
kinh trung ương. Nhưng rượu làm mất ức chế mạnh hơn gây nên quá trình hưng
phấn giả và vì vậy người uống rượu cảm thấy hưng phấn, đỡ lo âu, sợ hãi, hoạt
động nhiều, nói nhiều, khả năng tự kiềm chế bản thân suy giảm nên lời nói thiếu tế
nhị, xuồng xã, xàm xỡ, cử chỉ hoạt động thiếu chính xác. Khi nồng độ rượu trong
máu là 0,3% thì vận động và tư duy, tri giác đều bị rối loạn. Khi nồng độ rượu lên
tới 0,4% - 0,5% thì cả hai quá trình hưng phấn và ức chế đều bị suy giảm, người
uống rượu bị bất tỉnh, hôn mê và khi nồng độ rượu lên đến 0,6% - 0,7% thì người
uống rượu có thể tử vong. 3. Rợu ảnh hởng đến các cơ quan khác - Tác
dụng lên tuyến yên, gây nên rối loạn sự tăng trưởng, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn
chuyển hóa nước và muối khoáng. - Gây viêm dạ dày, viêm tụy cấp, mãn tính. -
Tác hại đối với gan, gây xơ gan, thoái hóa mỡ gan. - Các bệnh mạch máu,tim
mạch, tăng lắng đọng choleterol ở mạch máu và ở tim gây xơ mỡ động mạch.
III/ NGHIỆN RỢU MÃN TÍNH
Nghiện rượu mãn tính xảy ra khi dùng rượu dài ngày, dần dần thường xuyên phải
tìm rượu, uống rượu. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp uống rượu thường
xuyên đều có thể coi là nghiện rượu mãn tính. Nghiện rượu mãn tính là một bệnh
lý nghiện chất độc, có các triệu chứng cơ bản đặc trưng cho nhóm bệnh này là: -
Hội chứng nghiện. - Hội chứng cai rượu. - Sự thay đổi khả năng dung nạp rượu. -
Rối loạn tâm thần. - Biến đổi nhân cách. 1. Biểu hiện lâm sàng A. Hội chứng
nghiện Nét đặc trưng, trung tâm để mô tả hội chứng nghiện là sự thèm muốn
thường mạnh mẽ, đôi khi rất mãnh liệt sử dụng rượu. Có bằng chứng là phải quay
lại sử dụng rượu sau một thời gian bỏ rượu để làm mất các cảm giác khó chịu do
nghiện. · Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán: Chỉ đạo chẩn đoán xác định nghiện
khi có từ 3 trở lên các đặc điểm sau đây: a. Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy
buộc phải sử dụng rượu. b. Khó khăn trong việc kiểm tra tập tính sử dụng rượu về
mặt thời gian bắt đầu, kết thúc hoặc mức sử dụng. c. Một trạng thái cai sinh lý
(xem phần hội chứng cai, khi việc sử dụng rượu bị ngừng lại hay bị giảm bớt). d.
Có bằng chứng về hiện tượng dung nạp rượu, như cần phải tăng liều để chấm dứt
hậu quả lúc đầu do liều thấp gây ra (Những người nghiện rượu có thể dùng hàng
ngày những lượng rượu đủ để làm mất năng lực hoặc gây nguy hiểm cho những
người không dung nạp được rượu). e. Dần dần sao nhãng các thú vui trước đây,
bằng thay thế cho sự thích thú đi tìm và sử dụng rượu, tăng số thời gian cần thiết
để tìm kiếm hay sử dụng rượu. f. Tiếp tục sử dụng rượu mặc dù có bằng chứng rõ
ràng về hậu quả tác hại, như tác hại đối với gan và nhiều cơ quan khác do uống
quá nhiều. Các trạng thái khí sắc trầm tiếp theo sau những thời kỳ sử dụng rượu
nặng, hoặc thiếu sót về chức năng nhận thức tác hại của rượu. - Khuynh hướng
uống rượu một cách thường xuyên vào những ngày làm việc và những ngày nghỉ
cuối tuần bất chấp những qui tắc xã hội ràng buộc. - Nét đặc trưng chủ yếu của hội
chứng nghiện là phải sử dụng rượu hoặc thèm muốn khó cưỡng lại dùng rượu
trong thời gian cố gắng ngừng hoặc bị kiểm soát việc dùng rượu. B.Hội chứng cai
Hội chứng cai là biểu hiện chủ yếu của chứng nghiện rượu, hội chứng này xuất
hiện khi bệnh nhân đột nhiên ngừng uống rượu (thiếu rượu). - Người bệnh có khí
sắc trầm, buồn chồn, bứt rứt khó chịu, đứng ngồi không yên. - Lo âu, sợ hãi một
cách mơ hồ, các ý tưởng liên hệ thô sơ. - Rối loạn giấc ngủ, như giấc ngủ nông, dễ
giật mình, dễ thức giấc, hoặc ác mộng hãi hùng, đôi khi mất ngủ hoàn toàn.
- Run. - Rối loạn thần kinh thực vật (vã mồ hôi, tim đập nhanh ). - Trong hội
chứng cai rượu nặng người bệnh có thể có cơn co giật động kinh cũng như các ảo
giác về thị giác và thính giác, đặc biệt về chiều và đêm. - Đặc trưng cho hội chứng
cai rượu là những biểu hiện trên đều dịu đi hoặc biến mất khi uống lại rượu. - Hội
chứng cai biểu hiện ngày càng tăng dần, làm người nghiện cứ sau vài giờ lại phải
uống một liều rượu nhỏ để làm dịu đi các triệu chứng trên. Hội chứng cai rượu kéo
dài từ vài giờ đến 3 - 4 tuần tùy mức độ nghiện rượu nặng hay nhẹ. C. Khả năng
dung nạp rượu: Đồng thời với sự phát triển của hội chứng cai rượu, ngưỡng dung
nạp rượu của người bệnh cũng thay đổi. Nghiện rượu giai đoạn đầu phát triển,
người bệnh uống lượng tăng dần nhưng càng về sau lượng rượu ngày một kém
dần, có khi chỉ một liều lượng nhỏ rượu, người bệnh đã say. D. Rối loạn tâm thần:
Thay đổi các phản ứng cảm xúc: Rối loạn khí sắc, khoái cảm chiếm ưu thế, khoan
khoái dễ chịu, nói năng luyên thuyên, khoác lác, hay đùa cợt, xàm xỡ, cáu gắt,
công kích dọa nạt, chửi bới tấn công người khác. Trạng thái khí sắc này trong một
ngày có thể thay đổi từ vui nhộn, khoan khoái với những câu bông đùa vô duyên,
quá xàm sỡ chuyển sang quấy rầy, nổi khùng, cau có, gây gổ, độc ác hoặc có thể
buồn rầu, đầy những sợ hãi, lo lắng, mơ hồ, về đêm thường thấy những mộng mị
rời rạc, ngắn ngủi hoặc những cơn rối loạn ảo giác lẻ tẻ, thường là ảo thị (nhìn
thấy rắn rết, sâu bọ, hổ báo đang rượt đuổi theo bệnh nhân) khiến bệnh nhân có
biểu hiện cảm xúc hốt hoảng sợ hãi, la hét. Trí tuệ, trí nhớ, khả năng sáng tạo,
sáng kiến đều giảm, tư duy trở nên thủ cựu, người bệnh đi dần vào tình trạng sa
sút tâm thần. E. Biến đổi nhân cách: · Với gia đình: Người bệnh ngày càng trở nên
ích kỷ, mất đi những thích thú cũ, lãnh đạm hoàn toàn với người thân, đòi hỏi có
tính chất vị kỷ thô bạo, đặc biệt trong quan hệ với người thân. Giảm sút tình cảm
đạo đức, không quan tâm đến gia đình, tiêu xài tất cả tiền lương vào rượu suốt
ngày chăm lo đến việc làm thế nào để có rượu uống. Người bệnh không cảm thấy
xấu hổ vì đã phải ăn bám gia đình, vợ con, hơn nữa người bệnh cũng chẳng ân hận
khi lấy cắp tiền của người thân để uống rượu, thậm chí còn bán cả những vật dùng
cần thiết của mình cũng như của vợ con. Cuộc sống tạm bợ, bê tha, hoàn toàn
không nghĩ gì đến ngày mai. Người bệnh hay nói dối, cuộc sống buông thả, dễ
mắc nợ, cắm quán, hứa hão, bịa ra đủ mọi thứ để vòi tiền. Nợ nần thường không
trả, để cho người thân phải trả. Những cá tính tinh tế bị mất đi, do giảm khả năng
nắm bắt thực tại và ứng xử các tình huống xảy ra, thiếu lịch sự và hành động quá
khích. Khả năng phê phán giảm rõ rệt đặc biệt đối với địa vị của mình và quan hệ
của gia đình mình. Phủ nhận là mình đã dùng rượu quá mức. Đôi khi người bệnh
hứa bỏ rượu một
cách dễ dàng, cam đoan rằng điều đó đối với họ chẳng khó khăn gì, song thực tế
không đủ ý chí để từ chối những lời hẹn hò của các bạn rượu, chiều đến người
nghiện đứng ngồi không yên, bồn chồn đi tới, đi lui chờ mong tín hiệu của bạn
rượu để được đến điểm hẹn uống rượu. Người bệnh chẳng những không từ chối
mà còn vui sướng nhận những lời mời rượu của bạn rượu. Những biến đổi như
trên ngày càng làm suy giảm các tập tính tốt. Trong nghiện rượu mãn tính, thời kỳ
đầu người bệnh chỉ dùng rượu từng lúc, về sau thường cảm thấy cồn cào vào buổi
sáng và cả buổi chiều. Lúc đầu chỉ uống vào những ngày nghỉ, ngày lễ khoảng 1-2
lần trong tuần hoặc gặp thì uống. Khi say người bệnh còn giữ được những nét
khoan khoái, khoái cảm, vui vẻ, sau đó xuất hiệntình trạng say liên miên Trong
cơn say cảm xúc giận dữ, dễ bị kích thích, người bệnh khi uống rượu vào trở nên
dễ bực dọc, hay gây sự, vin cớ cãi cọ, tục tằn, thường tấn công, đập phá đồ đạc,
đánh đập người thân (có người trong tình trạng này đã cầm dao chém vợ, đánh con
gây thương tích nặng nề). Đe dọa tính mạng của người thân khiến cho cả gia đình
luôn trong tình trạng hoảng loạn Giai đoạn muộn của nghiện rượu khả năng dung
nạp rượu bắt đầu giảm xuống. Trong vài ngày liền đang uống hàng ly rượu lớn,
người bệnh sau đó buộc phải giảm liều hoặc phải ngừng uống rượu hẳn vì các rối
loạn toàn thân nặng (tức ngực, tim đập nhanh, khó chịu, nôn, ỉa chảy ). Cứ như
vậy lúc tăng, lúc giảm, lúc buộc phải ngừng rồi lại uống lại cuối cùng người bệnh
ngày càng suy nhược phải nằm tại giường. · Với công việc: Người bệnh nghỉ việc
thường xuyên, năng suất công tác giảm sút làm cho bệnh nhân sớm bị buộc thôi
việc. Công việc thường bị gián đoạn, tiền lương kiếm được ngày càng giảm sút,
mặc dù bệnh nhân rất muốn kiếm được nhiều tiền để uống rượu. · Với xã hội Địa
vị xã hội của người bệnh dần dần bị hạ thấp, mối quan hệ xã hội bị thu hẹp dần,
người bệnh mất dần những bạn bè thân thích, đặc biệt những người bạn tốt muốn
gần gũi khuyên can bệnh nhân từ bỏ rượu, chỉ còn những bạn rượu chia xẻ thú
uống rượu nhất thời. Phẩm chất xã hội thoái hóa dần, thường vi phạm pháp luật. 2.
Chẩn đoán Nghiện rượu mãn tính dựa vào các biểu hiện sau: 1. Thường xuyên
thèm muốn uống rượu. 2. Hội chứng cai rượu. 3. Sự thay đổi về khả năng dung
nạp rượu. 4. Sự biến đổi nhân cách và sa sút tâm thần. 3. Điều trị Phải tiến hành
điều trị lâu dài, có sự hợp tác giữa người bệnh với thầy thuốc, sự hỗ trợ của gia
đình và xã hội. Việc điều trị căn bản là ngoại trú, giai đoạn nặng, cấp có nhiều
biến chứng cần nhập viện điều trị, đảm bảo cho người bệnh ngừng uống rượu hoàn
toàn và điều trị các tổn thương do rượu gây ra về cơ thể: gan, dạ dày, dinh dưỡng
· Điều trị bằng thuốc Điều trị bằng thuốc trong giai đoạn mới nhập viện nhằm mục
đích chữa các triệu chứng loạn thần. - Haloperidol từ 3mg - 12mg trong trường
hợp bệnh nhân có các hoang tưởng ảo giác. - Diazepam 5mg - 20mg cho người
bệnh khó ngủ, bồn chồn, lo lắng. - Stablon 12,5mg - 25mg cho người bệnh buồn
rầu, lo lắng, trống trải. - Vitamin nhóm B (B1, B6, B12) liều cao thí dụ + Ancopir
+ Nervamin + Bcomplex * Gây phản xạ ghét sợ rượu bằng: - Sử dụng
Apomorphine - Sử dụng Antabuse (Dissulfuram) Những phương pháp này ngày
nay ít sử dụng. Liệu pháp tâm lý (LFTL): Phải phối hợp liệu pháp tâm lý tập thể
và cá nhân. Phải giải thích kiên trì làm cho người bệnh nhận thức được để từ bỏ
thói quen uống rượu, làm cho họ có quan hệ đúng đắn với lao động, quan hệ tốt
với gia đình, với môi trường xung quanh. Phối hợp các phương pháp nói trên, điều
trị một cách bền bỉ, lâu dài có hệ thống - Liệu pháp nhận thức. - Liệu pháp hành vi
4. Phòng bệnh 1. Truyền thông rộng rãi trong nhân dân những tác hại của rượu
đối với sức khỏe tâm thần, thể chất, đặc biệt rượu làm hủy hoại nhân cách người
nghiện rượu, làm cho người nghiện rượu mãn tính tha hóa về nhân cách, sa sút về
tâm thần, mất hết khả năng làm việc, trở thành người vô dụng, là gánh nặng cho
gia đình, xã hội. 2. Có qui chế quản lý, kiểm soát chặt chẽ trong việc sản xuất, bán
mua và tiêu thụ các loại rượu, nước giải khát có rượu, thuốc uống có rượu. 3. Giáo
dục thanh thiếu niên có lối sống lành mạnh tránh lạm dụng rượu.