Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

ĐỊA LÝ TỈNH VĨNH PHÚC ĐỊA LÍ TỈNH VĨNH PHÚC pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.73 KB, 6 trang )

ĐỊA LÝ TỈNH VĨNH PHÚC -
ĐỊA LÍ TỈNH VĨNH PHÚC
Địa hình:
Địa hình Vĩnh Phúc kéo dài theo phương tây bắc - đông nam, là phương chung
của địa hình ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc bộ Việt Nam. Phía bắc của tỉnh có
dãy núi Tam Đảo với đỉnh Đạo Trù cao 1.592m, phía tây Nam được bao bọc
bởi 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Lô, tạo nên dạng địa hình thấp dần
từ đông bắc xuống tây nam và chia ra 3 vùng có địa hình đặc trưng: đồng
bằng, gò đồi, núi thấp và trung bình.
Địa hình đồng bằng: gồm 76 xã, phường và thị trấn, với diện tích tự nhiên là
46.800 ha. Vùng đồng bằng bao gồm vùng phù sa cũ và phù sa mới, chủ yếu
do phù sa của các hệ thống sông lớn như: Sông Hồng, sông Lô, sông Đáy bồi
đắp nên vùng phù sa cũ chiếm diện tích khá rộng, gồm phía bắc của thị xã
Phúc Yên, các huyện Yên Lạc, Vĩnh Tường và phía nam của các huyện Tam
Dương, Bình Xuyên, được hình thành cùng thời kì hình thành châu thổ sông
Hồng. Vùng phù sa mới dọc theo các con sông thuộc các huyện Lập Thạch,
Vĩnh Tường, Yên Lạc, nam Bình Xuyên, được hình thành vào thời kì Đệ tứ -
Thống Holoxen. Đất đai vùng đồng bằng được phù sa sông Hồng bồi đắp nên
rất màu mỡ, là điều kiện lí tưởng cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp thâm
canh.
Địa hình đồi: gồm 33 xã, phường và thị trấn, với diện tích tự nhiên là 24.900
ha, đây là vùng đồi thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả và hoa
màu kết hợp với chăn nuôi gia súc, tạo điều kiện thuận lợi trong việc chuyển
đổi cơ cấu cây trồng và chăn nuôi theo hướng tăng sản xuất hàng hoá thực
phẩm. Vùng đồi núi Bình Xuyên: Là vùng được thành tạo vào thời kì Trung
Trias giữa Đệ Tam, gồm các lớp trầm tích bể cạn, gồm các phiến thạch, sa
thạch, phiến sa và một số loại đá khác xen kẽ.
Địa hình núi thấp và trung bình: Có diện tích tự nhiên là 56.300 ha, chiếm
46,3% diện tích tự nhiên của tỉnh. Địa hình vùng núi phức tạp bị chia cắt, có
nhiều sông suối, đây là một trong những ưu thế của Vĩnh Phúc so với các tỉnh
quanh Hà Nội, vì nó sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các khu công


nghiệp tập trung và các khu du lịch sinh thái. Vùng núi Tam Đảo có diện tích
rừng quốc gia là 15.753ha.
* Thổ nhưỡng:
Do đặc điểm địa hình, khí hậu, thủy văn, sinh vật như vậy, trên toàn bộ địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc đã hình thành các nhóm đất khác nhau.
Nhóm đất phù sa: có diện tích 29.830,15 ha, chiếm 21,75% tổng diện tích đất
tự nhiên của toàn tỉnh, được phân bố ở tất cả các huyện, chủ yếu là Lập
Thạch, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên. Đất glây được hình thành do một số
diện tích đất phù sa có địa hình thấp trũng, ngập nước quanh năm, sau một
thời gian dài tích sét là quá trình khử mạnh mẽ trong điều kiện yếm khí, kết quả
là hình thành tầng đất glây điển hình.
Nhóm đất cát: dựa trên kết quả phân tích thành phần cơ giới của đất. Đất cát
có thành phần cơ giới thô, hàm lượng hạt cát trên 70% ở hầu hết các tầng đất.
Nhóm đất cát này được hình thành chủ yếu do sự bồi tụ, lắng đọng các sản
phẩm thô bị rửa trôi từ vùng đồi núi.
Nhóm đất loang lổ: Đất này có một tầng chứa không dưới 25% đá ong non và
dày trên 15 cm ở độ sâu từ 0 đến 50 cm hoặc đến độ sâu 125 cm khi nằm dưới
một tầng bạc màu. Đất loang lổ có diện tích là 11.887,3 ha, chiếm 8,67% diện
tích đất tự nhiên.
Nhóm đất xám: gồm đất phù sa cũ có sản phẩm feralitic, đất dốc tụ ven đồi.
Đất xám có diện tích 42.435,27 ha, chiếm 30,9% diện tích đất tự nhiên.
Nhóm đất tầng mỏng: Khi đất đồi có độ dày tầng đất nhỏ hơn 30 cm và bên
dưới là đá cứng liên tục hoặc tầng cứng rắn hoặc có tỉ lệ đất mịn trên 10% về
trọng lượng trong tầng đất từ 0 đến 75 cm thì được xếp vào đất tầng mỏng.
Đất này có diện tích là 1.264,78 ha.
* Thành phần dân cư:
Ngay từ thời dựng nước, người Việt cổ đã sinh sống tại địa bàn Vĩnh Phúc.
Các cuộc khai quật khảo cổ học cho phép đoán định rằng người Việt cổ có mặt
ở Vĩnh Phúc từ hơn 3.500 năm nay. Từ hơn 1.500 năm trước Công nguyên,
người Việt cổ đã tiến ra chinh phục vùng đỉnh châu thổ sông Hồng, định cư tại

các địa điểm mà người xưa gọi là chạ, trang, ké, làng v.v. Từ thế kỷ II, dân cư
Vĩnh Phúc đã có những biến động do phiêu tán và nhập cư. Vào thế kỷ XVII-
XVIII, một số tộc người ở miền nam Trung Quốc bị phong kiến nhà Minh, nhà
Thanh chèn ép, bóc lột và bị thiên tai đã tìm đường sang Việt Nam sinh sống.
Sau khi du canh, du cư ở nhiều nơi, một bộ phận người Cao Lan, người Dao,
người Sán Dìu đã đến định cư ở Vĩnh Phúc. Thời kỳ thuộc Pháp, ở Vĩnh Phúc
còn có một số ngoại kiều đến làm việc, buôn bán. Sách "Niên giám đại cương
các nước Đông Dương" năm 1903 ghi: "Vĩnh Yên có 39 người Âu, 7 người
Hoa. Người Âu là quan và lính Pháp, người Hoa là các nhà buôn", “Phù Lỗ có
18 người Âu và 4 người Hoa"l.
Năm 1930 tỉnh Vĩnh Yên có 208.282 người Kinh; 56 người Âu; 2.008 người
Cao Lan và Sán Dìu; 45 người Thổ; 31 người Hoa. Tỉnh Phúc Yên có 174.467
người Kinh; 22 người Âu; 727 người Sán Dìu; 34 người Hoa.
Năm 1999, không kể người Kinh và người nước ngoài, toàn tỉnh cũng có 30
dân tộc thiểu số. Tuy vậy, ở tỉnh Vĩnh Phúc, thành phần dân tộc chủ yếu chỉ
bao gồm 8 dân tộc có từ 100 người trở lên là Kinh (1.055.390 người), Tày (870
người), Thái (155 người), Mường (347 người), Nùng (451 người), Dao (666
người), Sán Chay (nhóm Cao Lan, 1281 người), Sán Dìu (32.495 người), trong
đó người Kinh chiếm đa số (96,6%), còn lại là các dân tộc thiểu số (3,4%). Sán
Dìu là dân tộc đông dân nhất trong các dân tộc thiểu số ở Vĩnh Phúc, chiếm
88,63% tổng dân số các dân tộc thiểu số trong tỉnh.
Tỉnh Vĩnh Phúc có 39 xã được công nhận là xã miền núi, trong đó 25 xã ở
huyện Lập Thạch, 9 xã ở huyện Tam Đảo, 3 xã ở huyện Tam Dương, 1 xã ở
huyện Bình Xuyên (xã Trung Mỹ) và 1 xã ở thị xã Phúc Yên (xã Ngọc Thanh).
Tính đến thời điểm 31/ 12 / 2007, người dân tộc thiểu số trong toàn tỉnh có
9.127 hộ với 43.056 khẩu (tăng 1,09% so với năm 2005), chiếm 3,58% dân số
toàn tỉnh, bao gồm các dân tộc: Sán Dìu có 39.539 khẩu chiếm 91,82%; Sán
Chay (nhóm Cao Lan) có 1.493 khẩu, chiếm 3,46%; Nùng có 752 khẩu, chiếm
l,75%; Dao có 723 khẩu. chiếm 1,68%; Tày có 336 khẩu, chiếm 0,78%; Mường
có 139 khẩu, chiếm 0,32%; Ngái có 20 khẩu, chiếm 0,05%; Lào có 17 khẩu,

chiếm 0,04%; Hoa có 15 khẩu, chiếm 0,034%; Thái có 14 khẩu, chiếm 0,032%;
các dân tộc thiểu số khác có 19 khẩu, chiếm 0,04%.
Các dân tộc thiểu số được phân bố trong các huyện, thị xã như sau:
- Huyện Tam Đảo: ở 9 xã, thị trấn với 6.455 hộ, 30.959 khẩu;
- Huyện Lập Thạch: ở 36 xã, thị trấn với 912 hộ, 3.512 khẩu;
- Huyện Bình Xuyên: ở 01 xã với 785 hộ, 3.345 khẩu;
- Thị xã Phúc Yên: ở 01 xã với 975 hộ, 4.981 khẩu.
Trừ dân tộc Kinh, các dân tộc thiểu số như Sán Chay (nhóm Cao Lan), Sán
Dìu, Dao (nhóm Dao Quần Chẹt) đến định cư ở Vĩnh Phúc sớm và đông người
hơn cả. Cả ba dân tộc này đều sinh sống tập trung ở ven phía nam chân núi
Tam Đảo, thuộc địa bàn các huyện Tam Đảo, Lập Thạch, Tam Dương, Bình
Xuyên và thị xã Phúc Yên.
Người Sán Dìu từ lâu vẫn tự nhận là Sán Dẻo Nhín (họ còn có những tên gọi
khác là Trại Đất, Mán Quần Cộc, Mán Đất, Slản Dáo, v.v.) nhập cư vào tỉnh
Vĩnh Phúc khoảng 300 năm trước. Do không chịu được sự áp bức, bóc lột,
đàn áp thời kỳ cuối đời Minh, đầu đời Thanh, người Sán Dìu từ Quảng Đông,
Trung Quốc đã tìm đường sang Việt Nam sinh sống. Con đường di cư của họ
trải qua Hoàng Chúc, Cao Sơn đến Hà Lôi, Tiên Yên rồi tỏa ra vùng ven biển
Quảng Ninh, ngược lên Bắc Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang và xuống vùng
chân núi Tam Đảo thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Địa bàn cư trú của người Sán Dìu là
vùng bán sơn địa, phía bắc các tỉnh trung du và phía nam các tỉnh miền núi
phía Bắc.
Ở Vĩnh Phúc họ sống rải rác theo chân núi phía sườn tây - nam của dãy Tam
Đảo thuộc các huyện Lập Thạch, Tam Đảo, Tam Dương, Bình Xuyên và thị xã
Phúc Yên. Từ giữa thế kỷ XX, họ đã cư trú ổn định trên một dải đất dài hàng
trăm km từ xã Ngọc Thanh (Phúc Yên) tới xã Quang Sơn và Yên Dương,
huyện Lập Thạch, Sông Lô. Người Sán Dìu thích chọn nơi đất ở là vùng bán
sơn địa, có đồi, núi, đất bằng ven sông suối để khai khẩn thành ruộng lúa
nước. Vùng đất đầu tiên họ đến là ven chân núi Tam Đảo, nơi có rừng nguyên
sinh rậm rạp, nhiều chim thú, đất đai mầu mỡ, có tầng đất mùn dày thích hợp

trồng cấy các loại cây lương thực, lại có nguồn nước vô tận từ các dòng suối
lớn nhỏ bắt nguồn từ núi Tam Đảo. Các xã Minh Quang, Tam Quan, Trung Mỹ,
Hồ Sơn, Hợp Châu tuy xưa kia là núi rừng rậm rạp nhưng đến nay đã là dải
đất khá bằng phẳng, đã quy tụ nhiều người Sán Dìu sinh sống. Người Sán Dìu
ở các xã Đạo Trù, Yên Dương, Bồ Lí, Quang Sơn, Bắc Bình. v.v. phía đông -
bắc huyện Lập Thạch cũng có địa thế sinh tụ tương tự.
Hai nhóm người Cao Lan và Sán Chỉ có nguồn gốc ở Quảng Đông và Quảng
Tây, Trung Quốc đến Việt Nam vào khoảng cuối đời Minh, đầu đời Thanh, vượt
qua biên giới Việt - Trung ở khu vực từ Móng Cái đến Lạng Sơn, sau đó
chuyển dần về phía nam đến các tỉnh Bắc Giang, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc,
Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái. Theo tài liệu của Ban Dân tộc tỉnh Vĩnh Phú
(1972), người Cao Lan có nguồn gốc ở Quảng Đông, Trung Quốc, bị nhà Minh
đàn áp, bóc lột mới di cư sang Việt Nam vào khoảng những năm 1624. Người
Cao Lan nhập cư vào Vĩnh Phúc trên 100 năm nay, họ chủ yếu cư trú tại xã
Quang Yên, huyện Sông Lô. Nơi đây có thể coi là điểm chót của dải đất lớn mà
người Cao Lan sinh sống vốn trải dài từ huyện Trấn Yên, Yên Bình, Lục Yên
(tỉnh Yên Bái), huyện Đoan Hùng, Phù Ninh (tỉnh Phú Thọ), huyện Yên Sơn,
Sơn Dương, Hàm Yên (tỉnh Tuyên Quang). Trong xã Quang Yên, người Cao
Lan cư trú tập trung trong 4 thôn bám vào chân núi Sáng, núi Bồ Thần và núi
Thét, đó là: Đồng Dong, Đồng Dạ, Bản Mo (Xóm Mới) và bản Đồng Găng (hay
Đồng Căng). Theo số liệu Ban dân tộc tỉnh Vĩnh Phúc đến tháng 12 -2007, dân
số người Cao Lan chiếm hơn 20% dân số toàn xã, phân bố trong các thôn như
sau: Đồng Dạ (63 hộ, 251 khẩu), Đồng Găng (43 hộ, 205 khẩu), Xóm Mới (90
hộ, 407 khẩu) và Đồng Dong (94 hộ, 600 khẩu). Đồng Dong, Đồng Dạ và Đồng
Găng ở chân núi, Xóm Mới ở đồng bằng. Thôn Đồng Dong và Xóm Mới thuộc
diện thôn bản đặc biệt khó khăn (vùng 3).
Người Dao tự gọi mình là Dìu Miền hay Kìm Miền, ngoài ra trước đây họ còn
các tên gọi khác là Mán, Trại, Động, Xá, v.v. Người Dao đến Việt Nam bằng
nhiều con đường khác nhau, sớm nhất có thể vào thế kỷ XI. Hiện nay, ở nước
ta có khoảng 30 nhóm Dao. Họ cư trú khá phân tán trên một địa bàn rộng lớn

thuộc các tỉnh miền núi trung du Bắc Bộ và trải dài cho đến Ninh Bình, Thanh
Hóa. Sau năm 1975, đất nước thống nhất, người Dao còn đến làm ăn sinh
sống ở các tỉnh Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ.
Theo Nguyễn Xuân Lân, người Dao từ Quảng Đông, Trung Quốc đến Việt Nam
đã mấy trăm năm nay. Gia phả của hệ Dương ở bản Thành Công, xã Lãng
Công ghi rằng sau khi di cư qua các tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hòa Bình,
người Dao đã đến sinh cơ lập nghiệp ở bản Thành Công, xã Lãng Công,
huyện Lập Thạch, lúc đó chỉ có 20 hộ với hơn 100 nhân khẩu. Từ đó đến trước
năm 2000, người Dao ở bản Thành Công, xã Lãng Công đã được hơn 170
năm, qua 7 thế hệ con cháu, có 113 hộ với 585 khẩu. Ngoài bản Thành Công,
người Dao còn 6 hộ ở xã Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên và 7 hộ ở xã Quang
Yên, huyện Lập Thạch. Người Dao ở xã Lãng Công là Dao Quần Chẹt, thuộc
nhóm Dao Đại Bản, còn được người dân ở đây gọi là Mán Sơn Đầu, Dao Sơn
Đầu, Dao Tam Đảo, Dao Nga Hoàng. Đến tháng 12 / 2007, bản Thành Công có
186 hộ, 834 khẩu người Dao.

×