Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Một số nét đặc thù về hình thức nghệ thuật của thơ trẻ Việt Nam từ 1986 đến nay" pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.2 KB, 8 trang )




N. T. Quế Một số nét đặc thù về hình thức nghệ thuật của , tr. 84-91



84

MộT Số NéT ĐặC THù Về HìNH THứC NGHệ THUậT
CủA THƠ TRẻ VIệT NAM Từ 1986 ĐếN NAY


Nguyễn Thị Quế
(a)


Tóm tắt. Bài viết tập trung tìm hiểu một số nét đặc thù về mặt hình thức nghệ
thuật của thơ trẻ Việt Nam từ 1986 đến nay: hình tợng thơ mang đậm tính đời
thờng, đầy vẻ bất chợt, ngẫu nhiên, ngôn ngữ thông tục lấn át ngôn ngữ sang
trọng, quan phơng và giọng giễu nhại chiếm u thế Những điều này đã làm nên
khuôn mặt riêng của thơ trẻ hiện nay, phân biệt nó với thơ của các thế hệ khác và với
thơ của những giai đoạn trớc.


1. Thơ trẻ là một khái niệm cha
hoàn toàn định hình. Khái niệm này
đợc xem là xuất hiện từ thời chống
Mỹ. Trong thời chống Mỹ, các nhà thơ
đã thành danh trong phong trào Thơ
mới nh Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế


Hanh gọi những nhà thơ nh Phạm
Tiến Duật, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh,
Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đăng Khoa
là các nhà thơ trẻ.
Nhng từ 1986, khái niệm đó lại
đợc dùng để chỉ một lớp nhà thơ mới
tiêu biểu nh Nguyễn Quang Thiều,
Mai Văn Phấn, Bùi Chí Vinh Điều
này cũng dễ hiểu, bởi theo thời gian, các
nhà Thơ trẻ trong kháng chiến chống
Mỹ đã không còn trẻ nữa, vả lại, sức bật
của những nhà thơ sau lại vợt trội so
với thế hệ đi trớc, vì vậy khái niệm thơ
trẻ lại dịch chuyển đối tợng. Sau 1990
thơ Việt có những khởi sắc và đạt đợc
những thành tựu đáng kể, lúc này khái
niệm thơ trẻ còn đợc dùng để chỉ các
lớp nhà thơ nh: Nguyễn Quyến, Vi
Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh,
Phan Huyền Th, Lê Vĩnh Tài, Nguyễn
Vĩnh Tiến; các nhà thơ trong nhóm Mở
miệng và gần gũi với nhóm này (Lý Đợi,
Bùi Chát, Phan Bá Thọ ); các nhà thơ
trong nhóm Ngựa trời (Nguyệt Phạm,
.

Lynh Bacardi, Thanh Xuân, Khơng
Hà ), Trơng Quế Chi, Đỗ Trí Vơng,
Trần Lê Sơn
ý

Và có lẽ khoảng hai, ba
mơi năm nữa, những nhà thơ kể trên
lại gọi thế hệ sau là các nhà thơ trẻ.
Nh vậy, một khái niệm để chỉ nhiều
đối tợng khác nhau, nó không có
tính cố định. Nó là khái niệm của từng
thời. Nói đúng hơn, khái niệm thơ trẻ
trong lúc vẫn giữ nguyên hàm nghĩa
căn bản thì đã dịch chuyển cái sở chỉ để
phục vụ cho nhu cầu phân biệt các thế
hệ thi nhân trong từng thời đại.
Đến nay có thể tạm hiểu khái niệm
đó nh sau: Thơ trẻ là khái niệm dùng
để chỉ bộ phận thơ có nhiều đổi mới về
thi pháp của các thế hệ nhà thơ xuất
hiện sau 1975, nhất là thế hệ đợc gọi
là @.
2. Thơ trẻ Việt Nam đơng đại có
những cách tân trong quan niệm về
hiện thực, con ngời, nghệ thuật. Bên
cạnh đó, việc đổi mới hình tợng thơ,
ngôn ngữ thơ, giọng điệu thơ, cách tổ
chức văn bản cũng thể hiện khá rõ.
Dới đây, bài viết sẽ nhận diện một số
nét đặc thù từ phơng diện nghệ thuật
của các tác giả thơ trẻ đơng đại trong
những năm gần đây.

Nhận bài ngày 09/11/2009. Sửa chữa xong 21/12/2009.




trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009


85

2.1. Trớc hết là những cách tân
trong việc xây dựng hình tợng thơ. Các
nhà thơ lớp trớc thờng hớng tới các
đại tự sự nên trớc khi đặt bút họ
thờng ngắm nghía đề tài, lựa chọn thi
liệu, loay hoay tìm phơng thức, thể thơ
phù hợp để xây dựng hình tợng thơ.
Nhà thơ trẻ đơng đại rất giỏi chộp bắt
những cái ngẫu nhiên của đời sống. Tất
tần tật các thứ vụn vặt đập vào tri giác
họ đều có thể thành thơ. Vì vậy thi liệu
trong thơ sinh động, tơi hơn. Họ chối
bỏ thứ trau chuốt mang tính tu từ. Hết
còn sự ràng buộc khuôn phép. Hình
tợng trong thơ đơng đại không lung
linh óng ả nh trớc nữa. Nó xù xì, xấu
xí và thậm chí là thô kệch, nhng rất
thật, rất ngời bởi đời sống nh căn
phòng đóng kín và chúng ta loã lồ trong
đó (Lê Vĩnh Tài).
Lê Vĩnh Tài có thể xây dựng hình
tợng thơ từ những điều bình dị nhất,
đời thờng nhất nh: đám mây, mùa

hạ, cuộn len, quả táo, cơn ma, phòng
thay áo, tờ giấy, tờ báo, trờng mẫu
giáo Tất cả những điều vụn vặt ấy
đều trở thành hình tợng thơ độc đáo
và bất ngờ trong thơ Lê Vĩnh Tài. Anh
có những bài thơ xúc động về ngời
trồng bởi lao đao vì tin đồn ăn bởi
ung th (Trong thời đại nguy cơ), nỗi
khát khao tự do của nhân dân Tây
Tạng (Ba khúc một giấc mơ), dân nghèo
trong kinh tế thị trờng (bài 8%, Bù Lỗ,
Nằm Vạ), những đá trẻ bị bỏ rơi (Một
mai qua cơn mê), về những tơng phản
đau lòng (Thế là chịu thua, Đố vui,
Những ngày ma ma mãi không thôi,
Viết đợc 26 câu) Dờng nh ta
không tìm thấy chất thơ trong những
vấn đề mà Vĩnh Tài viết ở trên. Tuy
nhiên đó lại là hiện tợng phổ biến của
thơ trẻ đơng đại. Đối với Ly Hoàng Ly,
hình tợng trong thơ Ly lại là bóng
đêm. Cả tập thơ Lô Lô dày đặc bóng
đêm (Đêm chảy lên trời, Đêm là của
chúng mình, Sóng đêm, Ngoặc đơn
trong đêm, Đêm và anh, Mở nút đêm,
Lụt đêm, Đêm trong vờn, Đêm về đi để
sáng, Khúc đêm, Nửa đêm). Chữ đêm
có mặt hầu nh khắp nơi trong thơ Ly.
Các nhà thơ trẻ đơng đại ít nói tới
hình tợng Tổ Quốc, Cách mạng

Dờng nh đó là những điều lớn lao
quá, trừu tợng quá. Giờ đây, thơ trẻ lại
hứng thú với những hình tợng thơ xấu
xí, xù xì, thô kệch. Nguyễn Thế Hoàng
Linh làm thơ về việc lau nhà (Bài ca
lau nhà), việc rửa bát (Cứu thế giới)
Đỗ Trí Vơng đã xây dựng hình tợng
thơ cho mình từ thằng chăn bò, từ việc
khiêu vũ với chó, cây nhỏ trong vờn
ông nội, phố bình thờng, từ thức ăn
của ngày hôm nay (Và thằng chăn bò,
Khiêu vũ với chó, Phố bình thờng,
Thức ăn của ngày hôm nay). Dờng
nh họ không mấy để tâm đến việc lựa
chọn thi liệu nữa. Điều này có lẽ một
phần cũng xuất phát từ quan niệm về
thơ của giới trẻ. Với thế hệ trẻ, làm thơ
nh thở, chữ thở gợi lại thơ (Lê Vĩnh
Tài). Thơ là cái lặng lẽ anh ta nhìn
thấy. Đặc biệt thơ Bùi Chát thờng
hớng đến những phận ngời dới đáy
xã hội, đó là thành phần bị bỏ rơi, công
dân hạng hai, nghệ sĩ vỉa hè, gái điếm
nghèo nát, lũ trẻ lang thang cơ nhỡ
Bên cạnh các hình tợng thơ không
mấy chất thơ ấy, thơ trẻ đơng đại còn
đa vào thơ các sự kiện chính trị, sự
kiện đời sống. Lê Vĩnh Tài có thể viết
rất xúc động về vụ sập cầu Cần Thơ, về
vụ PMU18 (Sự bình yên đã vắng bóng

ngời), về những ngời chết ngoài biển,
bị tàn phá trong giông bão (Những căn
nhà bây giờ nền cát trắng, Nếu mỗi
ngời dân sau cơn bão bị mua hoá giá
một ngôi biệt thự)
2.2. Thơ trẻ đơng đại luôn có sự
ám ảnh của vô thức, của những giấc mơ.
Đọc thơ trẻ ta bắt gặp nhiều các hình
ảnh lạ và thờng là những hình ảnh



N. T. Quế Một số nét đặc thù về hình thức nghệ thuật của , tr. 84-91



86

trong mơ. Giấc mơ là sự biểu hiện của
sự trông thấy những hình ảnh khi ngủ.
Nó là một hiện thực ảo, một hiện thực
chập chờn đứt quãng, nhảy cóc và
thờng không có kết thúc. Nhà thơ là
ngời luôn bị những nỗi ảm ảnh của đời
sống hiện thực đeo đẳng, vì thế mà nó
hay đi vào giấc mơ của họ. Thực ra mơ
là thực hiện những khát vọng bản năng
bị dồn nén. Khi ngủ, cơ quan kiểm
duyệt không làm việc, do đó chỉ trong
mơ ngời ta mới thể hiện đợc những

ham muốn bị dồn nén, cấm kỵ lúc tỉnh.
Nếu thơ chống Pháp, chống Mỹ thờng
sử dụng cấu trúc bài thơ theo lối đồng
hiện, cấu trúc theo lối thuận chiều, cấu
trúc tầng bậc thì dạng cấu trúc bài thơ
theo trật tự giấc mơ là một hiện tợng
phổ biến của thơ trẻ sau 1986. Đó là
Giấc mơ lỡi, Giấc mơ (Phan Huyền
Th), Giấc mơ (Ly Hoàng Ly), Đêm một
nửa, Những ngôi nhà (Vi Thuỳ Linh),
Vọng đen (Đỗ Trí Vơng)
Bài thơ Giấc mơ của Phan Huyền
Th là một bằng chứng cho nỗi ám ảnh
về một tình yêu đơn phơng. Huyền
Th nằm mơ thấy một đám ma ngời
chết là tôi, có những ngời tình xếp
hàng, những kẻ thù yêu, những bạn bè,
tất cả tụ về đông đủ để tiễn đa. Phan
Huyền Th trong áo quan cời xúc
động. Duy một ngời cả đời tôi đơn
phơng yêu thầm nhớ trộm là đơng
nhiên chẳng thấy đâu (Giấc mơ). Đó là
những thảng thốt hiện sinh Ta hiểu
nỗi yêu ấy, nỗi cô đơn ấy, khát vọng ấy
sâu thẳm đến thế nào.
Hoặc ở Lynh Bacardi, ta thấy xuất
hiện những hình ảnh rất lạ:
Giấc mơ cụt đầu, tiếng đạp mái
phòng bên cạnh, tiếng những mảnh vú
xé nát rơi lộp bộp, nớc ma ngủ khì

trên mái tôn sủng sét. Sợi tóc thợng đế
duỗi thẳng nhuộm vàng, vết sẹo trên
đầu gối mở mắt.
Tôi dán giấc mơ nơi mỏ ác. Mu cầu
một nhánh huệ teo gầy. Một bài thơ
kinh hổ lốn. Giầy cao gót và hơi men
làm giàu quê mẹ, công sinh dỡng một
ngàn đô. Tôi đội ma bùn hãnh diện
chữ hiếu (Let it be).
Dờng nh khó để tìm đợc một sự
liên hệ nào đó giữa các từ ngữ và hình
ảnh trong đoạn thơ trên. Ngôn ngữ
nhảy cóc liên tục. Các hình ảnh giấc mơ
cụt đầu, mảnh vú xé nát, sợi tóc, vết sẹo,
bài thơ, giầy cao gót đặt cạnh nhau
làm cho ngời đọc khó tìm ra ý nghĩa
đích thực là gì. Lynh Bacardi đã bị ám
ảnh của những giấc mơ kinh dị, sự
khủng hoảng tinh thần của con ngời
trong thời đại loạn nhiễu thông tin và
mất phơng hớng tìm đờng
Thơ Văn Cầm Hải không dễ đọc.
Cũng nh các nhà thơ trẻ khác, thơ anh
có những ẩn dụ đợc liên tởng quá xa
khiến ngời đọc khó lần ra manh mối
điều anh muốn nói. đó là sự phá vỡ cấu
trúc, phá vỡ không gian thời gian, sự
đan xen các yếu tố hoang tởng, ngẫu
nhiên với những ý tởng chủ đạo. Các
câu thơ kết hợp lỏng lẻo, có thể thay đổi

vị trí mà không tạo ra sự khác biệt nào.
Bài thơ không đóng khung trong một
nghĩa cụ thể mà ngời đọc tự tìm lấy
nghĩa cho mình. Đó là một hệ thống cấu
trúc mở. Những bài nh Hoe chân trời,
Sinh tồn, Vĩnh biệt mặt trời đợc viết
nh vậy:
Thuở nào xanh xao
mặt trăng má hồng hiện qua sông mây
cơn đẻ đã đến
kim loại nhành hoa
ngôn ngữ thơm máu thịt
rung rinh lỡi chàng cuội
rì rào thắp sáng dơng gian
trầm t sinh khí
sữa trắng làm chiếc nôi cho tiếng khóc
bơi chập chững
nhiệm màu
thánh thót
tiếng khóc vạn kỷ



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009


87

đêm rụng cánh đơm hoa
cho tay ngời xin thêm

mồi lửa.
[Trích Sinh Tồn]
Ta có thể nhận ra mỗi dòng thơ là
những mảnh vỡ, trải ra không theo một
cấu trúc logic. Ngời đọc cố lắp ghép
tìm một cấu trúc t tởng nào đó, lại bị
những yếu tố ngẫn nhiên làm vỡ nát
thêm cái cấu trúc mới định hình. Ngay
câu đầu tiên đã có sức ngân vang mạnh
mẽ Thuở nào xanh xao/mặt trăng má
hồng hiện qua sông mây. Nhng đến
câu cơn đẻ đã đến/ kim loại nhành hoa
lại đa ngời đọc vào một thế giới khác.
Từ kim loại là một yếu tố ngẫu nhiên,
ghép bên từ nhành hoa, phá vỡ cái cấu
trúc vừa thấp thoáng mơ hồ. Một loạt
những từ mang yếu tố ngẫu nhiên nh
kim loại, ngôn ngữ, bơi chập chững, mồi
lửa không có một mối liên hệ nào với
nhau để định hình một nội dung, một
chủ đề và để lần ra t tởng mà Văn
Cầm Hải muốn nói.
ý
nghĩa bài thơ vì
thế cứ mơ hồ, ngoài tầm nắm bắt của
ngời đọc. Do đó, bài thơ mở ra nhiều
cách đọc. Có thể đọc nội dung bài thơ
nh thế này: từ thuở xanh xao, mặt
trăng hiện qua sông mây, rung rinh
lỡi chàng cuội, tức là thời mà lịch sử, ý

thức của con ngời còn mơ hồ, thì sự
sinh tồn đã xuất hiện, cơn đau đẻ đã
đến, nh một màu nhiệm, cuộc sống
đơm hoa. Lời là sự sống thơm tho. Sự
sống tràn khắp nhân gian, rì rào thắp
sáng dơng gian/ trầm t sinh khí. Thế
nhng sự sinh tồn khởi đầu là tiếng
khóc, dù là tiếng khóc thánh thót, sữa
trắng làm chiếc nôi cho tiếng khóc/
tiếng khóc vạn kỷ. Trong sự sinh tồn
vạn kỷ, con ngời mới chỉ bơi chập
chững cha vợt qua đợc con sông mây
thuở nào xanh xao, cần mồi lửa sởi ấm
đêm mới vừa rụng cánh. Bài thơ thể
hiện sự trầm t của Văn Cầm Hải về
sinh tồn qua cái nhìn Phật Giáo.
Đó chỉ là một cách đọc, một cách
hiểu, không hẳn đã khớp với nội dung
tác giả định nói. Dù vậy, cấu trúc mở
của bài thơ cho phép ngời đọc tham gia
vào tác phẩm và tự tìm lấy ý nghĩa cho
mình.
Rất nhiều bài thơ khác của Vi Thuỳ
Linh ở hai tập Đồng tử, Linh có sự ảnh
hởng của phơng pháp sáng tác siêu
thực trong hình ảnh và cấu trúc nh Vịt
bay, Tản mạn trong tam giác biến ảo,
Từ phía ngày nắng tắt
3.1. Thơ thời đại @ không phải đọc
để nghe, để ru ngủ nữa mà phải nhìn,

phải liên tởng, đọc trong một tâm thế
liên văn bản. Do vậy hình thức thơ sắp
đặt (Ly Hoàng Ly, Nguyễn Thuý Hằng),
thơ thị giác (Phơng Lan, Từ Huy) thơ
trình diễn (Vi Thuỳ Linh, Trơng Quế
Chi) xuất hiện nhiều. Các nhà thơ trẻ
cố gắng tạo sự chú ý của độc giả đối với
thơ bằng mọi cách. Hiện tợng vắt dòng
trong một bài thơ diễn ra ngày càng
nhiều. Họ không ngần ngại xuống dòng
miễn là sự xuống dòng đó thể hiện đúng
nhịp tâm trạng của thi sỹ. Mọi qui
phạm, luật định trớc đây về thơ dờng
nh bị vứt bỏ. Câu thơ dài ngắn khác
nhau trong thơ trẻ phù hợp với cảm xúc
tâm trạng của nhà thơ. Nhịp câu thơ
không phải do thanh điệu, do vần, do
chỗ ngừng ngắt tạo ra mà thờng là
nhịp của tâm hồn rung lên trớc hiện
thực. Nên câu thơ có thể đọc dài hơi,
nhng cũng có thể câu thơ vắt dòng
khiến ngời đọc hụt hơi:
Em tức tởi trở về khoảng trời bóng đỏ
Bóng chèn nhau
vỡ
Lòng em
vỡ
Em lầm lụi lại đến trớc nhà Anh
nhặt xác nỗi buồn vừa rơi, đốt lên thành
lửa

Rồi đi
Sau lng em ngày nắng tắt.



N. T. Quế Một số nét đặc thù về hình thức nghệ thuật của , tr. 84-91



88

[Từ phía ngày nắng tắt - Vi Thuỳ Linh]
Dòng thơ không viết hoa đầu dòng,
chỉ viết hoa chữ đầu của khổ thơ:
Những con mèo đực lời biếng
mệt mỏi ngủ nơi đâu trong ổ đêm
bng mắt
vô tình trớc mùi tình gọi mời tiết ra
từ nhạy cảm của lỡi
của những chuỗi quằn mình nhói lên
tởng tợng
tự mợt và êm xuôi theo vết xếp hàng
của rạo rực thèm muốn trần mình
không dấu diếm
dâng hơng.
[Tiếng đêm - Trần Quang Đạo]
Thậm chí có những bài thơ không có
lấy một dấu câu (Rơi rơi mà vỡ, Chìm đi
trong cát, Đêm hoàn hảo trong nắng
mai (Đinh Thị Nh Thuý)) hay đợc

trình bày theo lối thơ văn xuôi (Những
câu phức của Nh Huy) hoặc theo
khuôn hình chữ cái của Từ Huy Để
xây dựng hình tợng thơ khoáng đạt,
giàu sức biểu cảm cá tính, thơ đơng
đại sử dụng một ngôn ngữ đa dạng,
thích hợp với mạch xúc cảm của tác giả,
các kiểu ngôn ngữ này khó kết hợp bó
mình trong các thể thơ cách luật vì vậy
hình thành thể thơ tự do, thơ văn xuôi,
thơ sắp đặt, thơ thị giác Họ thích thú
kết hợp và trộn lẫn các thể loại để tạo
nên một thể loại văn chơng khác, mới.
Khi họ muốn gọi nó là thơ thì nó là thơ,
khi họ muốn là văn xuôi thì nó là văn
xuôi. Trên thực tế, điều này cũng gây
một số phản ứng cho ngời thởng thức.
Tâm lý tiếp nhận thơ trẻ cha sẵn sàng.
Thẩm mỹ truyền thống dân tộc còn là
một rào cản đối với độc giả.
3.2. Không chỉ đổi mới ở mặt hình
tợng, thơ trẻ còn chứa đựng những
cách tân ở ngôn ngữ và giọng điệu.
3.2.1. Về ngôn ngữ, có thể nói, nếu
quan niệm ngôn ngữ thơ ca truyền
thống phải trong sáng mợt mà, tao
nhã, trang trọng, giàu chất thơ thì ngôn
ngữ thơ trẻ đơng đại có sự đổi mới rõ
nét. Tác giả trẻ từ chối sự mợt mà du
dơng. Ngôn ngữ của thơ trẻ đơng đại

là ngôn ngữ của cuộc sống đời thờng,
hơn nữa tầng lớp dới đáy xã hội, chợ
búa, vỉa hè. Khái niệm ngôn ngữ đẹp,
sang trọng không còn nữa. Nó từ chối
mọi ẩn dụ hay biện pháp tu từ. Thay
vào đó là thứ ngôn ngữ thông tục, trần
trụi và thậm chí dung tục. Có thể nhận
diện một số cách tân về mặt ngôn ngữ
thơ đơng đại nh sau.
Do tiêu chí thơ đơng đại là đời
thờng nên các nhà thơ sử dụng vốn từ
vựng không câu nệ. Lời ăn tiếng nói
hàng ngày kể cả từ địa phơng, từ tục
cũng ùa vào thơ. Ngôn ngữ thơ do đó mờ
đục, tối, ẩn nhiều sự xô bồ và mất đi sự
trong trẻo. Đầu tiên ta có thể kể đến Vi
Thuỳ Linh, ngôn ngữ trong thơ chị là
một cơn lốc chữ chứa chất nổ. Linh sử
dụng những động từ và tính từ quyến
rũ thể hiện sự giao hoan tình dục nh
một sở trờng. Linh đề cập những phần
thân thể và những hoạt động ân ái,
những cảm giác vật chất và tinh thần:
bàn tay, đôi mắt anh, trên ngực anh,
môi hôn, làn da, lng anh lng em tự
sóng, anh hoà em vào máu, trứng
nhộn nhịp thụ thai. Thơ tình Vi Thuỳ
Linh là thơ tình của ngời đang yêu,
đang đắm say hạnh phúc và hoan lạc.
Vi Thuỳ Linh miêu tả cuồng nhiệt hạnh

phúc nhục thể hoà trong hạnh phúc
tinh thần trong nhiều bài thơ nh Âu
Cơ, Tình Tự Ca, Trên Ngực Anh
Trong khi đó Bùi Chát sử dụng lời nói
hàng ngày của ngời hẻm phố. Bùi
Chát cố gắng đẩy ngôn ngữ của mình
đến tận cùng của thờng nhật: chuột
cống với cái thai, quần đùi, chổng
ngợc, gái gú, hành kinh, gãi mông,
viêm ngứa, nhậu nhẹt, bê tha Những
từ lâu nay vẫn bị ghê sợ, Bùi Chát đa
vào thơ mình đầy hứng thú. Cùng với



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009


89

Bùi Chát, các tác giả nh Nguyễn Hữu
Hồng Minh, Nguyễn Thế Hoàng Linh,
Đỗ Trí Vơng đã sử dụng lớp từ đời
thờng một cách đầy ý thức. Tất cả đều
đợc đa lên bề mặt, nhng bề mặt
không có nghĩa là nông cạn, hời hợt.
Đằng sau đó vẫn là sự trăn trở suy t
hiện sinh về cuộc đời.
Các từ chính trị đợc đa vào thơ
rất nhiều. Chúng không phải đợc dùng

với nghĩa nghiêm trang mà là thái độ
diễu nhại.
Mỗi thời đại, thậm chí mỗi thế hệ
đòi hỏi một số hạn từ khác cho văn
chơng. Nhng nếu lạm dụng quá hệ
thống từ ngữ thông tục thì chúng thành
bão hoà, nó gây phản cảm. Cho nên dù
thơ trẻ có cách tân về mặt ngôn ngữ
nhng nếu từ chối lớp từ trong sáng thì
ngôn ngữ thơ trẻ sẽ nghèo nàn biết bao.
3.2.2. Giọng điệu thơ trẻ có sự dịch
chuyển theo từng lớp sóng thơ. Các tác
giả thời hậu chiến nh Nguyễn Quang
Thiều, Mai Văn Phấn vẫn còn giọng
tha thiết, rng rng đầy chiêm nghiệm
của những ngời vừa bớc vào thời đại
công nghiệp nên vẫn còn lu luyến
những giá trị truyền thống. Đến Bùi
Chí Vinh: giọng thơ biểu hiện sự ngang
tàng, mang phong vị anh hùng hảo hán
Lơng Sơn Bạc. Thế hệ @ thì thể hiện
nhiều kiểu dạng: Vi Thùy Linh vẫn còn
đơn giọng, Phan Huyền Th giọng đáo
để, thị thành, kẻ cả
Nhng có thể nhận thấy giọng điệu
chính của thơ sau 1986 là giọng giễu
nhại. Giễu nhại là thuật ngữ khó định
nghĩa, khó khoanh vùng. Vì nó là một
khái niệm động, luôn biến đổi, biến hoá
khác nhau trong những văn bản khác

nhau. "Giễu nhại tiếng Pháp: Pastiche
(từ tiếng Italia páticcio-ca kịch opera)
đợc tạo bởi những đoạn trích từ các vở
ca kịch khác, tạp khúc, potpourri (cách
điệu hoá) - thuật ngữ của chủ nghĩa
hậu hiện đại, một dạng giễu nhại đã
đợc nhợc hoá bớt [1, 29]. Tính chất
đặc thù của mô thức mỉa mai hay
Pastiche của tác phẩm hậu hiện đại
đợc xác định trớc hết ở cảm hứng phê
phán của nó chống lại ảo tởng của
truyền thông đại chúng [1, 31]. Cha có
ai định nghĩa thật chính xác, đầy đủ về
giễu nhại. Tuy vậy theo hầu hết các nhà
nghiên cứu, dù nhìn ở góc độ nào thì
giễu nhại cũng có hai đặc điểm chính:
nhại và giễu tức là bắt chớc và châm
biếm.
Giễu nhại là một khái niệm rộng.
Giọng điệu giễu nhại chỉ là một phần
của hình thức giễu nhại này. Nó hiện
diện trong tác phẩm nhng rất khó
nắm bắt. Nó có thể đợc tạo ra từ
những yếu tố hiện diện trong tác phẩm
nhng cũng có thể tạo ra từ những
khoảng trống, từ những điều không
đợc đề cập trong tác phẩm. Vì thực
chất giọng giễu nhại chỉ có thể lĩnh hội,
cảm nhận thông qua quá trình đọc văn
bản, cảm nhận từ những câu từ, thấy từ

khoảng trống tác phẩm, tiếng vọng từ
những dấu chấm câu, ngữ điệu của
những lối diễn đạt, ngôn ngữ của những
hình ảnh
Giờ đây, mọi chuyện đều không
đợc các nhà thơ đơng đại biểu hiện
dới một giọng nghiêm trang, thành
kính hay ngợi ca, hào sảng nh trớc
nữa. Thơ hậu hiện đại dù bàn chuyện
nghiêm túc chúng ta cũng thấy họ nh
đang bỡn cợt, hoặc cho dù họ đang buồn
bã ủ dột cũng thấy vui. Họ biết nói
những điều hệ trọng bằng một lối khinh
khoái nhẹ nhàng. Đó là thái độ căn bản
của các nghệ sĩ hậu hiện đại. Soi chiếu
vào những tác phẩm thơ trẻ đơng đại
ta thấy Lê Vĩnh Tài, Bùi Chát, Đỗ Trí
Vơng, Đinh Thị Nh Thuý đều là
những ngời đã thể hiện đợc loại giọng
điệu đặc biệt này. Với Lê Vĩnh Tài, anh
cũng có những nụ cời dí dỏm khi viết
về đề tài Tình yêu, một đề tài xa nay
vẫn đợc xem là thiêng liêng, nghiêm
túc. Khi mọi thứ hàng hoá đều leo



N. T. Quế Một số nét đặc thù về hình thức nghệ thuật của , tr. 84-91




90

thang, anh liên tởng đến Tình yêu và
hi vọng tình yêu cũng ngày một tăng
giá. Anh giễu nhại sự đỏng đảnh của
Tình yêu theo giá cả thị trờng. Trong
Bài thơ của đêm Vĩnh Tài đang suy t
chiêm nghiệm về cuộc sống, về thơ, về
sự cô đơn của tình yêu, đang dẫn dụ
ngời đọc vào một không khí nghiêm
túc, đầy suy t bỗng câu kết nh một sự
cợt nhã, phá tan mọi sự nghiêm túc ở
phần đầu bài thơ:
Trong những suy nghĩ của đêm
Có những sợi cỏ không màu
Khâu hai mí mắt
Nếu không ngời ta thấy hết
đêm ơi

Mà có chuyện gì
cũng phải ngáp cái đã.
[Trích Bài thơ của đêm]
Cái kết thúc khiến mọi ngời chng
hửng, cời phá tan mọi nghiêm túc ở
trên. Hay ở Bùi Chát, anh có kiểu chọc
thơ bằng cách lấy thơ của những bậc
cao nhân ra mà cợt nhã. Đọc tập thơ
Xáo chộn chong ngày đến tập Xin lỗi
chịu hổng nổi, có thể nhận thấy thơ anh

đã biểu hiện rõ nét, mạnh mẽ tính chất
giễu nhại, u mua. Nó tạo cho ngời đọc
thú vui nhiều hơn là phải vắt óc ra mà
suy nghĩ về một triết lý hay cố gắng dán
một mỹ cảm nào đấy tởng chừng hợp
lý cho thơ, nhng nó cũng không đến
nỗi dễ dãi, đơn giản để không cần suy
t, thậm chí là suy t với cờng độ cao
mới có thể hiểu đợc hành động bỡn cợt
trong thơ của tác giả này muốn nói lên
điều gì. Giọng điệu bỡn cợt, xem thờng
tác phẩm của ngời khác và xem
thờng tác phẩm của chính mình trong
trạng thái bứt phá khỏi cái cũ, thiết lập
cái mới của anh trong thơ khiến ngời
đọc không khỏi khó chịu và dị ứng.
Nhng cũng chính điều này đã phản
ánh đợc một cách đầy đủ thái độ của
cây bút hậu hiện đại. Hãy đọc bài thơ
sau để thấy một biểu hiện cụ thể của
giọng điệu giễu nhại trong thơ trẻ:
Lời kĩ nữ đã vỡ vì nớc mắt
Cuộc yêu đơng gay gắt vị làng chơi
Ngời viễn du lòng bận nhớ xa khơi
Gỡ tay vớng để theo lời gió nớc
Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh
buốt
Mắt run mờ, kĩ nữ thấy sông trôi
Du khách đi
- Du khách đã đi rồi!


Nhng còn rất nhiều mồi
Các chị em
Nhậu thôi!
Nguyên liệu: Lời kĩ nữ của Xuân Diệụ
[Chiến lợi phẩm sau mỗi lần tiếp
khách, Tập Xin lỗi chịu hổng nổi, tr. 65]

n sau sự bỡn cợt tởng chừng nh
vô tình này của anh là một cái nhìn mới
về đời sống của những con ngời đợc
xếp vào tầng đáy xã hội. Thật ra, họ
cũng cần những thứ thuộc về thế giới
tinh thần, thèm khát và cô đơn nh
kiểu nói của Xuân Diệu - có tính thi vị
hoá và câu từ mang âm hởng du
dơng. Tuy nhiên trong tình trạng
thiếu thốn, buồn tủi và có thể bị hắt hủi
bất cứ lúc nào, cái ăn, cơn say nh một
thứ bầu bạn vừa thấp hèn, tai hại, vừa
thân thiết chí tình. Cái ăn, bữa nhậu
đối với họ đôi khi giống nh một thứ ân
sủng cuối cùng của thợng đế ban cho
ngời khốn khổ vậy. Các chị em/ Nhậu
thôi! - một câu thơ vừa ngang tàng, vừa
có chút gì đó bất cần đời ẩn sau câu chữ
và hơn hết, từ sâu thẳm trong lời đùa
cợt của Bùi Chát còn là một nỗi xót xa,
tấm lòng cảm thông, bao dung và đồng
đẳng của ngời nghệ sĩ trớc cuộc đời.

Cùng một thái độ đó, Nguyễn Thế
Hoàng Linh lại biểu hiện bằng cách lấy
ngay thể thơ lục bát - một thể thơ
truyền thống của dân tộc mà cợt nhả:



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009


91

Gửi em một quả ném biên
Từ vùng xanh cỏ của miền đâu đâu
Em vô lê hoặc đánh đầu
Làm ơn thủng lới u sầu giúp tôi
[Trích Gửi em một quả ném biên]
Chất giọng giễu nhại giúp thơ trẻ có
cái nhìn về đời sống thiết thực, gần gũi
và dung dị hơn, giảm thiểu đợc những
thi vị không đáng có và thiếu hơi thở
đời sống mà những dòng thơ trớc hậu
hiện đại thờng vấp bẫy.
4. Trên đây là những nét đặc thù về
phơng diện nghệ thuật thơ trẻ Việt
Nam từ 1986 đến nay: hình tợng thơ
Việt sau 1986 mang tính đời thờng,
ngẫu nhiên, bất chợt. Sự lấn lớt của
ngôn ngữ thông tục mang đến cho thơ
trẻ một diện mạo mới. Sự thay đổi giọng

điệu từ nghiêm trang thành kính đến
giễu nhại khiến thơ trẻ phù hợp hơn với
nhịp sống mới. Đó là những điều giúp
ngời đọc phân biệt rõ khuôn mặt thơ
trẻ với thơ của các thế hệ trớc.

TàI LIệU THAM KHảO

[1] Đào Tuấn ảnh, Lại Nguyên ân, Nguyễn Thị Hoài Thanh (su tầm và biên soạn),
Văn học hậu hiện đại thế giới những vấn đề lý thuyết, NXB Hội Nhà văn, Trung
tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2004.
[2] Phạm Quốc Ca, Mấy vấn đề thơ Việt Nam 1975-2000, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội,
2003.
[3] Nguyễn Việt Chiến, Thơ Việt Nam tìm tòi và cách tân, NXB Hội Nhà văn, Công
ty Văn hóa trí tuệ Việt, Hà Nội, 2007.
[4] Lê Đạt, Đối thoại thơ và đời, NXB Trẻ, 2008.
[5] Trần Ngọc Hiếu, Những tìm tòi thể nghiệm cách tân hình thức trong thơ Việt Nam thời
kỳ đổi mới, Luận văn thạc sỹ, Trờng Đại học S phạm Hà Nội, 2003.
[6] Inrasara, Văn chơng Sài Gòn thời hậu đổi mới, khởi đầu cho mọi khởi đầu -
Nhìn qua lăng kính thơ ca, (Tham luận tại hội thảo khoa học: Đời sống VHNT -
TPHCM thời kỳ hội nhập), , 2007.
[7] Inrasara, Thơ Việt từ hiện đại đến hậu hiện đại, (Bài tổng luận dành cho chuyên
luận Thơ Việt từ hiện đại đến hậu hiện đại), http:// Inrasara.com, 2008.
[8] Trần Thiện Khanh, Thùy Linh và một kiểu t duy về lời, ,
2009.

Summary
Some specific features of art forms of Vietnamese
young poets from 1986 to present time


The article focused to study some particular features of art forms of
Vietnamese young poets since 1986 to date: the poetry image highlights daily life, is
full of suddenness, random colloquial languad dominates the formal one The
have made a typical face of today young poets, and distinguished it from poetry of
other generations and poetry of the past periods.

(a)
Cao học 15, chuyên ngành Lý Luận văn học, trờng Đại học vinh.

×