trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009
21
Inrasara - một hồn thơ giàu bản sắc
(Qua khảo sát các tập: Tháp nắng, Sinh nhật cây xơng rồng,
Hành hơng em, Lễ tẩy trần tháng T)
Lê Thị Việt Hà
(a)
Tóm tắt. Bài báo đi sâu vào nghiên cứu hệ thống đề tài, đặc điểm nghệ thuật thơ
Inrasara và những đóng góp của ông cho thơ Việt nói chung, thơ dân tộc thiểu số nói
riêng qua các tập thơ: Tháp nắng, Sinh nhật cây xơng rồng, Hành hơng em và Lễ
tẩy trần tháng T.
1. Inrasara là đứa con của ngọn gió
lang thang nơi cánh đồng miền Trung
nhỏ hẹp, của biển khơi trùng trùng bão
thét và của đôi mắt tháp Chàm mất ngủ
xanh xao (Đứa con của đất). Ông là nhà
nghiên cứu văn hoá Chăm, nhà phê
bình văn học, nhng trớc hết ông là
một nhà thơ. Với hai lần đoạt giải
thởng của Hội Nhà văn Việt Nam, giải
thởng văn học Đông Nam
á
và nhiều
giải thởng khác, ông đợc coi là một
hiện tợng trên thi đàn Việt với không
ít những lời ngợi ca nồng nhiệt.
Inrasara là tác giả của nhiều tập thơ,
trong đó phải kể đến: Tháp nắng, Sinh
nhật cây xơng rồng, Hành hơng em,
Lễ tẩy trần tháng T
Khám phá đời sống văn hoá của các
dân tộc thiểu số, thơ Việt Nam trớc
Sara đã có những thành công nhất định
với Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Y
Phơng Các nhà thơ vừa nêu đã thể
hiện đợc tiếng nói riêng của dân tộc
mình. Tuy vậy, theo khảo sát của Sara
trong bài viết Thơ dân tộc vừa đi vừa
ngủ [2] thì sau những nỗ lực đáng kể,
những cây bút này dần bị hụt hơi hoặc
bị Kinh hoá. Thơ họ dần xa với lối nói,
cách cảm của dân tộc mình vì học Kinh
nhiều quá. Và nh vậy vô hình trung,
thơ của các nhà thơ này một mặt đánh
mất bản sắc, mặt khác lại không theo
.
kịp ngời Kinh, nên rớt lại, đuối sức,
nh nhận định của Sara. Khác với các
nhà thơ dân tộc thiểu số khác, là một
ngời làm phê bình, Sara ý thức rất rõ
về điều này. Nhờ thế, một mặt ông luôn
hớng ra ngoài tiếp thu cái mới, mặt
khác Inrasara luôn ý thức rằng phải giữ
đợc cho thơ mình tiếng nói riêng của
dân tộc Chăm đầy bản sắc.
Inrasara có nội lực thơ dồi dào. Ông
viết bằng chính tâm thức Chăm với bao
trăn trở. Dù viết bằng tiếng Chăm hay
tiếng Việt, dù viết theo thể loại nào hơi
thở Chăm vẫn luôn đẫm đầy trong thơ
ông, đến nỗi dờng nh không cần một
sự cố gắng nào, nó vẫn tràn ra một cách
hồn nhiên, tự nhiên. Hơi thở Chăm hiển
hiện trong đề tài, câu chữ và cả giọng
điệu thơ.
Ngoài những mảng đề tài mà các
nhà thơ khác cũng đề cập tới, có thể nói
Sara dành nhiều tâm huyết cho những
vấn đề liên quan đến dân tộc mình. Và
cũng có thể nói, đó là mảng đề tài thành
công xuất sắc nhất của ông, làm nên d
vị riêng của thơ Sara không thể lẫn với
ai khác. Trong thơ ông, ta bắt gặp một
không gian văn hoá Chăm rực rỡ sắc
màu.
ấ
y là tiếng trống gianang giục giã
gọi mời những mùa lễ hội, ấy là điệu
múa apsara níu hồn ngời, ấy là Tháp
Nhận bài ngày 21/10/2009. Sửa chữa xong 06/11/2009.
Lê Thị Việt Hà Inrasara - một hồn thơ giàu bản sắc, tr. 21-28
22
Chàm với bao nỗi niềm dâu bể, là lễ hội
Katê tng bừng, lễ tẩy trần linh
thánh Tất cả tạo nên không gian nghệ
thuật thơ Sara, không gian văn hoá
Chăm đầy huyền thoại.
Đọc thơ Sara thời kì đầu, độc giả
nh đợc đắm mình trong lễ hội làng
Chăm. Dẫu đi đâu về đâu Katê vẫn là
nơi những đứa con Chăm luôn hớng về
quê nhà mỗi mùa lễ hội. Katê, với Sara
là mùa của khát khao luyến ái, khát
khao sum họp:
Mỗi tháng mỗi mùa chờ em về chẳng
đợc.
đành mong em về chỉ mỗi Katê sang
[Tứ tuyệt buồn]
Katê đi vào thơ ông với rất nhiều
cảm thức: mùi ma, chuyến ma nồng
nã Katê, gió Katê đặc biệt Katê đi vào
tâm cảm của Sara còn bởi sự quyện hoà
của nhịp baranng, với tiếng trống gia
nang, điệu ma măng tất cả tạo nên sự
huyền nhiệm và một màu sắc riêng của
lễ hội này:
Em về
nắng hanh lối mòn
điệu đuabuk
triền vai rung rinh màu thổ cẩm
[Katê mới]
Lễ tẩy trần cũng đợc hiện lên qua
thơ ông thật sống động. Hình ảnh nắng
gắn với thầy chủ lễ già hiện lên ám ảnh
lạ kì.
Nắng đã khởi động trên đồi tháng t
Khởi động sớm hơn nhiều thế kỉ trớc
Khi biển còn cha thức giấc
[Lễ tẩy trần tháng T]
Viết về lễ hội, Sara không rơi vào kể
lể. Không khí của nó đợc tạo dựng
bằng niềm đam mê vô cùng với nét đẹp
văn hoá truyền thống. Ông đã truyền
đợc cho ngời đọc niềm hào hứng và
say mê, bởi những vần thơ ông đã chạm
đợc vào cõi miền sâu thẳm, linh thiêng
ẩn sâu trong tâm hồn mỗi ngời dân
Việt.
Không gian văn hoá đặc trng
Chăm cũng đợc hiển hiện trong tên
làng, tên sông. Dòng sông Lu thao thiết
chảy trong thơ Sara mang chở bao nỗi
niềm. Sông Lu gắn với tuổi thơ. Sông
Lu thác lũ và sông Lu bồi đắp phù sa,
sông Lu ẩn c miền sa mạc, sông Lu rời
bỏ nguồn hành trình về phía biển
Hành trình của dòng sông ấy không chỉ
là lối về với tuổi thơ của thi nhân mà
còn là hành trình gian nan đi tìm cái
đẹp, hành trình đến với nghệ thuật.
Tháp Chàm là một loại hình kiến
trúc đặc biệt của ngời Chăm. Viết về
nó, Chế Lan Viên và Văn Cao đã có
những phát hiện mới. Đến Sara, tháp
Chàm mới hiện lên với đầy đủ diện
mạo, sắc thái của nó. Ông viết về tháp
từ nhiều góc nhìn khác nhau: tự hào,
kiêu hãnh với tháp nắng, ngậm ngùi xa
xót bởi tháp hoang, tháp lạnh, huyễn
tởng với tháp mọc ngang trời trong
cái nhìn tháp Chàm muôn mặt. Có thể
nói, Sara đã thổi vào tháp linh hồn
ngời vì vậy nó có sức ám ảnh lạ lùng.
Tháp là biểu tợng của văn hoá, của
tâm hồn Chăm.
Viết về quê hơng, nhà thơ dành
cho nơi chôn rau cắt rốn của mình
những vần thơ đặc biệt. Không tụng ca
quê hơng nh lẽ thờng tình của ngời
đời:
Quê hơng không có rặng dừa thơ
.
mộng của ca dao
Quê hơng không có cánh cò xa, khôn
.
có bản tình ca thôn dã
Mây trắng. Mổt trời. Gió trùng dơng.
.
Đất. Đá
[Trờng ca quê hơng]
Sara viết về quê mình với những
vần thơ trĩu nặng nỗi buồn. Ông nói lên
hiện thực xót xa về một miền quê nghèo
trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009
23
đói, khắc nghiệt. Là quê hơng ông đó
với bốn mùa cát trắng hanh hao, là biển
khơi trùng trùng bão thét. Là Phan
Rang chứ không đâu khác, không thể
khác. Đó là định phận, định mệnh
không thể đổi thay Nhng không vì
thế mà tình yêu đối với quê hơng ít đi
trong lòng của những đứa con tha
hơng ấy. Quê hơng, trên hết là nơi
vẫy gọi bớc chân lãng du trở về. Quê
hơng luôn là nỗi niềm canh cánh nhớ
mong:
Hôm nay về với nớc mắt chảy dài
Em nhìn quê hơng, quê hơng nhìn
.
em thầm lặng
Trên vầng trán chờ đợi đã hằn sâu.
.
Im lặng
(Ngôn ngữ thành thừa nơi xứ cô đơn)
[Trờng ca quê hơng]
Viết về những gơng mặt Chăm,
cuộc sống Chăm, thơ Sara có nhiều phát
hiện. Ông nghiệm ra rằng nét bản sắc
Chăm là chịu chơi ngay cả trong đau
khổ. Đó là anh Đạm - ngời thơ tấp tểnh
đi buôn, lận lng ít nắng quê làm vốn,
là Trà Viga với gơng mặt đặc thù
Chăm, là Trà ma Hani với điệu múa
say ngời Ngay những cuộc đời không
có cả tên tuổi cho riêng mình nh
những ngời chị Changkleng hay
những ngời mẹ Hamu Chauk cũng
thế Tên họ lẫn vào tên làng, tên xóm
hay tên của quê hơng. Và cả những
nét vẽ tự hoạ về bản thân, Sara vẫn
thật độc đáo và đẫm đầy chất Chăm.
Không chỉ bởi hình hài của đôi mắt
tháp Chàm mất ngủ xanh xao mà còn
bởi những điều đã làm nên bản sắc:
Mê Heidegger, tin khúc nhạc dế mèn
chân trụ tính không, chân bám đời
.
thờng
yêu lời dân dã quê mùa, thích cả
.
trờng siêu thực
[Tôi chẳng có gì trầm trọng lắm]
Cảm thức về con ngời trong thơ
Inrasara mang một dấu ấn riêng đậm
nét. Đó là con ngời tha hơng. Tha
hơng trở thành nỗi ám ảnh của con
ngời thời hiện đại. Rời bỏ quê hơng
bớc chân lãng du nhọc nhằn nơi xứ
ngời:
Rời bỏ ruộng đồng quen thuộc, ngọn
.
đồi thân thơng
Dong buồm vào hải đảo mù khơi bất
.
trắc
Ngời thuỷ thủ già không chở về mùa
.
vàng thu hoạch
Chỉ thấy bay lả trên cánh buồm
.
khoảng nắng khoan dung
[Ngụ ngôn viết cho mình]
Trở về, sau bao nhiêu năm bớc
chân trở nên xa lạ, hẫng hụt ngay trên
chính mảnh đất yêu thơng của mình :
Hai mơi năm canh tác miền tha hơng
Trở lại quê nhà mùa đã vãn
Ngày mai
Còn ai tha hơng bụi bặm
[Sông Lu và tôi]
Thế nhng tha hơng mà không trở
thành tha nhân. Quê hơng vẫn có sức
níu kéo lạ kì những bớc lãng du:
Tha hơng bao nhiêu năm vẫn nhịp
.
đề huề
[Đêm Chàm]
Đó là những con ngời tha hơng
ngay trên chính quê hơng, thiểu số
ngay giữa lòng thiểu số nhng điểm
dừng chân cuối cùng trong tâm thức họ
vẫn là về, đều bớc về plây.
Có thể nói, hình tợng con ngời
tha hơng không mới nhng đợc Sara
chú ý tô đậm trong giai đoạn sáng tác
này. Hình ảnh bàn chân, con đờng trở
thành nỗi ám ảnh day dứt không nguôi
trong thơ ông. Đó là những vết chân
trầm, là những gót giày nện vào hẻm
phố, là bàn chân cha quên gốc rạ
mang mang. Đi kèm với nó là hình ảnh
Lê Thị Việt Hà Inrasara - một hồn thơ giàu bản sắc, tr. 21-28
24
con đờng: con đờng lửa thiêng, con
đờng băng qua những buổi chiều thời
đại, con đờng mịt mùng bão lốc, là con
đờng vẫn trầm vọng gọi. Con đờng bế
tắc, con đờng vẫy gọi, con đờng mòn
tất cả đều gắn với những chiêm nghiệm
sâu sắc của nhà thơ về cuộc sống và
nghệ thuật.
Tuy nhiên, tâm thức Chăm trong
sáng tác của Sara không chỉ dừng lại ở
đề tài, cảm hứng mà nó còn là sự kết
tinh văn hoá Chăm. Do phạm vi bài viết
nên chúng tôi xin đợc trình bày điều
này trong một dịp khác.
2. Với hệ thống đề tài và nội dung
trữ tình đó, Inrasara lựa chọn cho mình
một hình thức thể hiện phù hợp, truyền
tải đợc một cách hiệu quả nhất điều
mà ông định nói. Theo thống kê của
Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, trong 5 tập
thơ của mình, Sara chủ yếu sử dụng thể
thơ tự do (100 bài/ 138 bài), ngoài ra
còn sử dụng thơ lục bát 3 bài, ngũ ngôn
4 bài, thơ văn xuôi 4 bài, thơ tứ tuyệt 8
bài [4].
Những bài thơ lục bát của Sara
chiếm số lợng không nhiều nhng đạt
đến độ nhuần nhuyễn. Thử sức với thể
thơ này, Inrasara thể hiện sự điêu
luyện trong gieo vần, ngắt nhịp:
Về đây rừng núi bao dong
Tháp trong nét cổ em trong dáng hiền
[Em]
Thể thơ năm chữ đợc Inrasara vận
dụng linh hoạt, cấu tứ chặt chẽ, tinh
gọn. ở thể thơ này, ông thờng ngắt
một khổ bốn câu theo truyền thống
nhng cũng có khi tách hai câu thành
một khổ. Nhà thơ giữ nguyên đặc điểm
năm chữ một dòng cùng với nghệ thuật
cân đối thanh điệu hài hoà, nhịp nhàng
bởi sự hô ứng bằng trắc :
Đôi khi giữa phố vui (B)
Tôi thơng về plây cũ (T)
Đôi khi sau cuộc chơi (B)
Tôi chết trong hoài nhớ (T)
[Hoài cảm]
Tình cảm tha thiết kết hợp với độ
nhuần nhị trong thanh âm của ngôn
ngữ giúp ta hiểu thấu tân trạng của thi
sĩ. Cảm xúc trong những câu thơ ngũ
ngôn thờng đợc dồn nén. Mỗi khổ thơ
có xu thế trọn vẹn về ý. Điều đó cho
thấy sự tài hoa trong cách dụng ngôn và
tạo âm hởng cho thơ của Inrasara, bởi
số từ trong một câu, một dòng ít nên
những bài thơ theo kiểu ngũ ngôn của
ông thờng khoẻ khoắn, rắn rỏi[5].
Thơ tứ tuyệt của Inrasara vừa
quen, vừa lạ. Ông nỗ lực làm mới một
thể thơ đã cũ, tự do hoá một thể thơ vốn
dĩ gò bó, thổi vào cho nó một sức sống
mới. Đó là Glang Anak đợc mở rộng
biên độ:
Glang Anak tuổi thơ tôi đã thuộc
Rồi qua mấy mùa hoang, tôi đọc lại
.
trăm lần
Vẫn thấy mình cứ quẩn quanh đời chật
Tập thơ mỏng gầy lại mở tới mênh
.
mông.
[Glang Anak]
Xa và gần, Tứ tuyệt buồn còn đợc
nới thêm số lợng câu thơ, tạo cho thơ
sự phóng khoáng, thích hợp với việc
diễn tả tâm hồn con ngời và những suy
t nặng trĩu của thời đại mới:
Em cứ trách anh mãi triết lí xa trong
khi mắt mẹ buồn gần
[Xa và gần]
Tứ thơ mới lạ, ngôn ngữ không còn
cầu kì, không bị lệ thuộc níu kéo bởi
vần luật, những dòng thơ tuôn chảy
cảm xúc, tự nhiên, hồn nhiên.
Tuy nhiên, sở trờng của Inrasara
có lẽ là ở thơ tự do.
ở
đó ông tha hồ
tung phá với những ý tởng mênh
mông của mình. Sara yêu âm vang của
lời và đặc biệt chú trọng nhạc điệu:
trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009
25
Tôi đi
lầm lụi lần theo bờ kí ức
phác thảo giáo đờng em thánh linh.
Bỏ lại sau lng những ngôi làng mệt
.
nhoài
hàng cây đơn điệu, lối cỏ rũ buồn
tôi
ngọn gió, ngọn đồi và ngọn bấc
đi
[Hành hơng em]
Trờng ca là thể loại quen thuộc
của thơ chống Mĩ, việc Inrasara đến với
thể loại dài hơi này giúp ta hiểu thêm
một phơng diện tài năng nghệ thuật
của ông. Phải có một vốn sống phong
phú, một hơi thơ dào dạt mới có thể
thành công với thể loại này. Trờng ca
Quê hơng 400 câu đợc Trúc Thông
đánh giá là một trong những trờng ca
hay nhất của thơ Việt hiện đại.
ở
đó từ
ngữ tuôn đổ dễ dàng nh suối nguồn
Những câu thơ giàu màu sắc tự sự, lối
vắt dòng, ngắt nhịp tự do. Ví dụ:
Quê hơng buồn. Quê hơng yêu thơng
Quê hơng em lũ trẻ con chơi bẩn
Những bà mẹ gầy còm, cụ già râu trắng
Những cô gái quê gánh nặng áo vai sờn
[Quê hơng]
Nhịp điệu là năng lợng cơ bản của
câu thơ. Thơ Inrasara rất chú trọng
cách ngắt nhịp. Đó là nhịp khoan thai
trong thơ lục bát, nhịp rắn rỏi của thể
ngũ ngôn, nhịp linh hoạt của thơ tự do.
Điều cơ bản tạo nhịp là ở cách gieo vần
và ngắt nhịp. Nhịp bên ngoài và cả nhịp
bên trong tâm hồn. Khi chậm rãi với
những lời tâm sự:
Tôi, đứa con của ngọn gió lang thang
cánh đồng miền Trung nhỏ hẹp
[Đứa con của đất]
Khi tắc nghẹn, tức tởi với những
nỗi đau không nói đợc thành lời:
Tắt ngọn lửa cuối cùng
Tắt tám mơi năm miệt mài đời đất
Cha đi
[Dấu chân trầm]
Đanh thép, chắc nịch, dứt khoát khi
bày tỏ thái độ:
Quá khứ: dấu than, tơng lai dấu hỏi
may mắn không là gánh nặng của ai
.
cho ai
cứ hết mình trong hiện tại
[Thái độ]
Khi là nhịp dồn dập hối hả trong
hoan ca:
em về/nắng hanh lối mòn/điệu
đuabuk/triền vai rung rinh màu thổ
cẩm
[Katê mới]
Việc sử dụng ngôn ngữ thơ rất đợc
Sara chú trọng trong quá trình sáng
tác. Ông cho rằng: Thơ có thay hình đổi
dạng bao lần hay lang thang lạc bớc
đến chân trời nào đi nữa, nó cũng phải
trở về nơi nó xuất phát trong ngôi nhà
của nó: ngôn ngữ[2]. Kể về công việc
làm thơ của mình, ông hé lộ: Thờng
thì tôi bắt đầu một bài thơ qua gợi hứng
từ chữ. Tôi thấy một chữ hay nắm lấy
nó, tìm tứ và hình ảnh rồi khi bắt đợc
nhịp thì bài thơ trào ra[4]. Nh thế với
Inrasara, ngôn ngữ có vai trò dẫn dắt,
khơi nguồn sáng tạo cấu tứ và hình
ảnh, nhịp điệu thơ. Tự cho mình là
đứng giữa đờng biên giữa hai nền văn
hoá Việt - Chăm, ngôn ngữ thơ Sara là
sự điều hoà, dung hợp hai mạch nguồn
văn hoá ấy. Riêng về tiếng Việt, thơ ông
nhuần nhuyễn điêu luyện mà không
phải nhà thơ ngời Kinh thành danh
nào cũng có thể làm đợc. Ngôn ngữ thơ
ông phong phú, đa dạng. Đó là lớp ngôn
ngữ Chăm trong đời sống sinh hoạt
hằng ngày nh plây, klu, katê, ariya, ka
măng, baranng, xaranai Với lớp từ
này, Sara đã làm giàu có thêm vốn từ
của thơ Việt. Đó còn là lớp ngôn ngữ
bác học sang trọng đợc ông dùng khi
nói về những vấn đề lớn lao của lịch sử
hay những vấn đề linh thiêng nh: suy
tởng, triều đại, định mệnh, linh hồn,
Lê Thị Việt Hà Inrasara - một hồn thơ giàu bản sắc, tr. 21-28
26
binh đao, giáo đờng, thánh linh Đó
cũng còn là thứ ngôn ngữ gợi cảm, gợi
hình và tinh tế tài hoa với những kết
hợp từ rất mới: thâm canh đời; niệm
khúc kinh khôn ngoài lề đau khổ; nỗi
mẹ bờ tra vai nắng trĩu gầy Ngôn
ngữ dới bàn tay Sara tài hoa khiến tất
cả đều sống dậy, có hồn: cha thân trần
quần quật cuốc nắng; phác thảo giáo
đờng em thánh linh; những môi hôn
cháy màu nho chín
Cùng với việc lựa chọn hình ảnh là
việc sử dụng tài tình các biện pháp tu
từ khiến cho những câu thơ của ông
giàu sức biểu cảm, đa tầng đa nghĩa
Biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc đợc
sử dụng thờng xuyên đem đến cho
ngời đọc những ám ảnh không dứt về
đối tợng đợc nói đến.
ở
trờng ca quê
hơng điệp khúc quê hơng lặp đi lặp
lại nh một nốt nhấn. Bên cạnh đó lối
so sánh cũng đợc vận dụng tài hoa. Sự
vật qua nghệ thuật so sánh của ông
hiện lên rõ nét, ánh lên vẻ đẹp nhiều
chiều. Sử dụng hình ảnh thơ ám gợi trở
đi, trở lại nhiều lần để tạo ấn tợng, tạo
phong cách cũng là một điểm nổi bật
trong sáng tác của Sara.
Thành tựu thơ Sara giai đoạn đầu
phong phú, đa dạng, kết tinh ở nhiều
bài thơ độc đáo nh Tháp nắng, Quê
hơng, Hành hơng em, Ngụ ngôn của
đất, Cái nhìn ngoái lại Tuy nhiên,
tiêu biểu hơn cả cho phong cách Sara
thời kì đầu,
theo
chúng
tôi,
là
bài
thơ Nỗi
buồn ứng trớc.
ở
đó ta bắt gặp một tứ
thơ quen mà lạ. Quen ở nỗi buồn xa em,
nỗi buồn em quên Nỗi buồn ấy thẳm
sâu đến nỗi hơi thơ anh tắt lịm. Lạ ở
chỗ nỗi buồn cha xảy ra.
ấ
y là buồn
ứng trớc, buồn dự báo sự khác biệt của
hồn thơ quá nhạy cảm và đa mang.
Bài thơ chia làm 4 khổ không cân
xứng dự báo về một ngày em đi, em
quên, em không còn nhớ, và rồi một
ngày anh không dám nghĩ đến Tứ
thơ triển khai từ niềm dự cảm của nhân
vật trữ tình về một nỗi buồn không phải
trong hiện tại, không phải đã xảy ra mà
là nỗi buồn ứng trớc. Phảng phất suốt
bài thơ là một nỗi buồn. Nỗi buồn vì
một sự ra đi kéo theo sự rời xa những gì
thân thuộc nhất, kéo theo sự lãng quên
những giá trị văn hoá dân tộc, kéo theo
sự tắt lịm hứng thơ dào dạt trong anh.
Những thi liệu: cái Chạng gầy, klu,
Plây, arya, kamăng, Katê, thổ cẩm tạo
không gian văn hoá Chăm rực rỡ sắc
màu nhng gắn với linh cảm buồn.
Hình ảnh thơ giản dị, gần gũi nhng
đầy ám ảnh. Đó là hình ảnh ngời cha
trong lao động khó nhọc- biểu tợng rực
rỡ của quê hơng:
Cha thân trần quần quật cuốc nắng
Hiện lên trong tâm trí ngời đọc là
cảnh ngời cha cần mẫn với công việc
cuốc đất dới nắng Phan Rang. Hình
ảnh thơ đợc khúc xạ bằng tình yêu
thơng, trân quý vô ngần của con đối
với ngời cha nên xúc động. Câu thơ gợi
sự trôi chảy của thời gian, gợi những
suy tởng miên man trong tâm hồn chủ
thể trữ tình. Cha gắn liền với lời ru tuổi
thơ con, lời ru rng rng hai đầu võng,
lời ru trĩu nặng nỗi lo con ốm, lời ru
nhọc nhằn thổn thức nỗi lo mất mùa.
Giọt ma khôn vợi buồn đầy hay giọt
mồ hôi, giọt nớc mắt thầm lặng của
ngời cha? Vậy mà em sẽ quên, nỡ
quên? Lời thơ với câu hỏi gợi nhắc kín
đáo mà thấm thía. Cách kết hợp từ mới
tạo nên cách diễn đạt đầy ám ảnh. Có
thể nói, đây là những vần thơ tài hoa
nhất khi viết về ngời cha trong văn
học Việt Nam.
Nỗi buồn ứng trớc còn là nỗi lo
lắng về sự lãng quên những giá trị văn
hoá tinh thần của lớp trẻ hôm nay.
Quên câu arya, điệu ma măng vốn nuôi
trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 4b-2009
27
em lớn và em quên mình là Chăm
Câu thơ nh một lời trách móc nhẹ
nhàng:
Em quên mình là Chăm
nh quên mình cha có giấy khai sinh
Lối so sánh độc đáo nhằm khẳng
định vững chắc nguồn mạch văn hoá
dân tộc là dòng sữa nuôi em lớn. Biết tri
ân là thứ làm nên giá trị con ngời.
Thơ Sara che chắn từ vòng xa vòng
rộng, lo trớc cả nỗi buồn cha kịp đến,
đón đầu nó. Chỉ có trái tim thuộc về
Chăm, thức đập vĩnh viễn vì Chăm mới
có thể viết những vần thơ chân thực và
thấm thía đến thế.
Câu thơ tự do nhịp linh hoạt hồi
hoàn theo cảm xúc. Bốn khổ thơ kết cấu
điệp nhằm láy lại nỗi buồn. Nhng ở
mỗi khổ thơ nỗi buồn lại đợc nâng lên
một cấp độ mới, cao hơn, sâu hơn. Thơ
anh gọi hụt hơi ở khổ thơ đầu rồi đau
đớn thất vọng đến tận cùng khiến hơi
thơ anh tắt lịm ở khổ cuối. Đó là quá
trình tiến triển của cảm xúc. Khổ thơ
cuối chỉ còn lại ba câu thơ ngắn diễn tả
rất thành công những nỗ lực cuối cùng
của chủ thể trớc khi hơi thơ tắt lịm.
Hình thức vắt dòng thơ góp phần cho sự
biểu đạt ý thơ trên trở nên sâu sắc.
Tóm lại, ta thấy bài thơ đợc triển
khai bằng một nỗi buồn dự báo. Đó phải
chăng là cái cớ để thi sĩ bộc bạch tình
yêu tha thiết đối với những giá trị văn
hoá dân tộc mình - cái nôi, nguồn mạch
nuôi dỡng hồn thơ ông. Thể thơ tự do
nhịp linh hoạt, có vần nhng không còn
lệ thuộc vào nó, mạch cảm xúc tuôn đổ
tự nhiên. Inrasara có khả năng lặn sâu
vào đời sống dân tộc để khám phá ra
những bí ẩn chất chứa trong đó. Đó là
điều làm nên sức mạnh, làm nên nội lực
của thơ ông.
3. Nhìn lại chặng đầu sáng tác của
Sara, ta thấy đóng góp của ông thể hiện
trên nhiều phơng diện:
Với thơ dân tộc thiểu số, Inrasara
tạo đợc giọng riêng độc đáo, vợt qua
khỏi sự ngô nghê, ngọng nghịu giả vờ
nhng vẫn giữ đợc bản sắc, không bị
Kinh hoá. Tiếng thơ ông lay tỉnh nền
thơ dân tộc thiểu số đang vừa đi vừa
ngủ.
ở
lĩnh vực này thành tựu thơ ông
đem lại sự tự tin cho thơ dân tộc thiểu
số trong việc hoà nhập vào dòng chung
của thơ Việt.
Đối với thơ Việt, Sara không những
làm phong phú thêm hệ thống đề tài mà
hơn hết còn góp phần mở ra một hớng
mới trong quan niệm về thơ. Thơ không
đâu xa xôi mà hiện diện ngay ở cuộc
sống xung quanh mình. Sara nhìn đâu
cũng ra thơ, cũng nhặt đợc ý tởng cho
thơ. Thơ xuất phát ngay từ cuộc sống
xung quanh nếu anh sống đủ đầy với
nó. Đặc biệt đóng góp của Sara ở giai
đoạn này là nỗ lực tấn công vào hệ
thống thi pháp cũ, đem đến cho ngời
đọc một cái nhìn đa diện hơn về thơ và
góp phần hình thành hệ thống thi pháp
mới. Thơ có con đờng đi riêng của nó,
đó là con đờng của sáng tạo nghệ
thuật, không bị lệ thuộc bởi lĩnh vực
khác. Cùng với các nhà thơ cách tân, cái
nhìn về thơ của Sara giúp thơ Việt
thoát khỏi sự loay hoay trớc đó vì bế
tắc đề tài, tạo cơ hội mở rộng tầm nhìn
để hoà nhập vào dòng chung của văn
học khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, ở chặng sáng tác này,
thơ Inrasara vẫn còn có những dè dặt
trong cách tân. Sáng tác của ông vẫn
muốn tạo sự thăng bằng giữa thơ chính
thống và thơ tự do để tìm độc giả và dễ
đợc đồng cảm. Chọn cách đi vào nỗi
niềm của dân tộc, chọn cách diễn đạt
gần gũi và phần nào chiều theo quán
tính của ngời tiếp nhận là bớc đi cần
thiết của một cây bút ngay từ đầu đã
Lê Thị Việt Hà Inrasara - một hồn thơ giàu bản sắc, tr. 21-28
28
tiềm tàng khả năng đi xa. Đó là những
bớc đi vững chắc làm nền tảng cho
những tung phá về sau.
Nh vậy những thành tựu thơ Sara
qua các tập Tháp nắng, Sinh nhật cây
xơng rồng, Hành hơng em, Lễ tẩy
trần tháng T đánh dấu một chặng
đờng, chặng định hình phong cách
theo khuynh hớng hậu lãng mạn.
Sang chặng mới, thơ ông có nhiều cách
tân táo bạo, tuy nhiên ngời đọc vẫn
tìm thấy ở đó một phong cách Sara nhất
quán nhng luôn miệt mài kiếm tìm cái
mới, tiến dần về phía hậu hiện đại.
Tài liệu tham khảo
[1] Inrasara, Cha đủ cô đơn cho sáng tạo, tiểu luận, NXB Văn Nghệ, TP. HCM,
2006.
[2] Inrasara, Song thoại với cái mới, tiểu luận, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2008.
[3] Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2003.
[4] Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, Thơ Inrasara, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trờng Đại
học Đà Lạt.
[5]Trúc Thông, Đọc Tháp nắng của Inrasara, Báo Văn nghệ (27), Hà Nội, 1998.
Summary
Inrasara - a poetry inspiration with typical styles
(An investigation into Sunny tower, Cactuss birthday,
Pilgrimage to you, The April welcome feast)
The article focused on the system of poetic topics, Insara poetry artistic
features and his contributions to Vietnamese poetry in general and ethnic
minorities poetry in particular in poem volumes: Tháp nắng (Sunny tower), Sinh
nhật cây xơng rồng (Cactuss birthday), Hành hơng em (Pilgrimage to you) and Lễ
tẩy trần tháng T (The April welcome feast).
(a)
Cao học 15, chuyên ngành lí luận Văn học, trờng Đại học Vinh.