Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Hành trình số phận con người cá nhân trong tiểu thuyết của Khái Hưng" pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.93 KB, 7 trang )




n. q. anh hành trình số phận con ngời cá nhân Khái Hng, tr. 10-16


10

hành trình số phận con ngời cá nhân
trong tiểu thuyết của Khái Hng

nguyễn quốc anh

(a)

Tóm tắt. Bài viết phân tích sự miêu tả chân thực của tiểu thuyết Khái Hng về
hành trình số phận của con ngời cá nhân trong lòng xã hội Việt Nam những năm
30, 40 của thế kỷ XX. Con ngời cá nhân từ chỗ hăm hở khẳng định đã dần rơi vào
tình trạng khủng hoảng, bế tắc, và tất cả những điều đó đã diễn ra một cách có quy
luật. Thông qua việc thể hiện vấn đề này, Khái Hng đã tự chứng tỏ khả năng bao
quát hiện thực sắc sảo cũng nh nhiệt tâm dùng ngòi bút để can dự vào các vấn đề
xã hội của mình.

1. Cùng với Nhất Linh, Khái Hng
là nhà văn chủ chốt và có sáng tác dồi
dào nhất của Tự lực văn đoàn (TLVĐ).
Ông sáng tác ở nhiều thể loại, nhng
thể loại chính và tiêu biểu nhất là tiểu
thuyết. Tiểu thuyết của nhà văn thể
hiện rõ mục đích, tôn chỉ của TLVĐ, đã
góp phần đáng kể vào tiến trình hiện


đại hoá văn xuôi Việt Nam giai đoạn
1932-1945. Trong văn xuôi TLVĐ và
tiểu thuyết của Khái Hng, ta nhận
thấy các nhà văn rất chú ý thể hiện
cuộc sống của con ngời cá nhân.
Nghiên cứu, đánh giá tiểu thuyết của
Khái Hng trên vấn đề hành trình số
phận con ngời cá nhân chúng ta sẽ có
dịp hiểu sâu hơn tiểu thuyết của Khái
Hng cũng nh tiểu thuyết của TLVĐ
đồng thời cũng có cái nhìn khách quan
hơn về dòng văn học thờng đợc gọi là
lãng mạn ở giai đoạn 1932-1945, nhất
là ở khía cạnh phản ánh hiện thực.
2. Khi nói về hành trình của cái tôi
cá nhân trong trong phong trào Thơ
mới, Đỗ Lai Thuý đã khái quát: Cái tôi
cá nhân đô thị không phải là nhất
thành bất biến. Nó cũng nổi trôi và biến
đổi trên dòng thời gian lịch sử. Chỉ
trong khoảng mời lăm năm, 1930-
1945, dờng nh nó đã đi trọn một đoạn
đờng. Từ bỡ ngỡ hào hứng buổi đầu,
cái tôi nhanh chóng đi đến sự khẳng
định mình một cách quyết liệt trong cô
đơn, bằng cô đơn, và, cuối cùng, giải
thoát cô đơn bằng sự trở về trong vòng
tay êm ấm của cái ta [3, tr. 197]. Nhìn
rộng ra, vấn đề hành trình của con
ngời cá nhân không phải là vấn đề

mang tính chất đơn lẻ chỉ đợc thể hiện
trong nền văn học Việt Nam những
năm 30 của thế kỷ XX. Sự xuất hiện con
ngời cá nhân là một hiện tợng có tính
phổ biến diễn ra trong phạm vi văn học
toàn thế giới. Con ngời cá nhân là con
đẻ của xã hội t sản, nó ra đời khi đã
hội tụ đầy đủ những điều kiện cần thiết
và số phận của nó thăng trầm theo sự
biến động không ngừng của điều kiện
lịch sử xã hội. Tiểu thuyết TLVĐ, đặc
biệt là tiểu thuyết của Khái Hng cũng
đã miêu tả hành trình số phận của con
ngời cá nhân một cách khá chân thực,
cho phép ta hiểu ra đợc nhiều vấn đề
của hiện thực xã hội Việt Nam trong
nửa đầu thế kỷ XX.
3. Lúc mới ra đời, con ngời cá nhân
trong tiểu thuyết Khái Hng hăm hở,
háo hức khẳng định sức mạnh của
mình. Con ngời cá nhân đối lập với gia
đình, đoàn thể để phanh phui cái xấu

Nhận bài ngày 25/3/2009. Sửa chữa xong 08/4/2009.



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 2b-2009



11

xa, lỗi thời của lễ giáo phong kiến. Xã
hội phong kiến với những lễ giáo, hủ tục
hà khắc đã trói buộc tự do của con
ngời trong hàng chục thế kỷ. Những
năm 30 của thế kỷ XX, nền văn minh
phơng Tây đã tràn vào nớc ta nh
một luồng gió mới. Do ảnh hởng của
văn minh phơng Tây, con ngời lúc
bấy giờ nh chợt bừng tỉnh ý thức cá
nhân. Họ thấy vai trò cá nhân của mình
là rất to lớn đối với sự phát triển của xã
hội.
ý
thức đợc sứ mệnh lịch sử của
mình, con ngời cá nhân trong TLVĐ ra
đời và nắm lấy sứ mệnh cao cả là đấu
tranh không khoan nhợng với lễ giáo,
hủ tục phong kiến, cởi trói và giải oan
cho những số phận éo le bị kìm kẹp
trong hủ tục và đói nghèo.
Trong những tiểu thuyết đầu tiên
của Khái Hng, con ngời cá nhân bộc
lộ nhiều mặt tích cực: họ là những chiến
sĩ đấu tranh không mệt mỏi cho tình
yêu và hạnh phúc gia đình; họ là những
cô gái mới, có học thức, thông minh, có
nhan sắc, vì số phận xô đẩy mà phải
sống trong hoàn cảnh éo le, trở thành

những nạn nhân trong các gia đình
phong kiến. Mai trong Nửa chừng xuân
là một cô gái nh thế. Trong hoàn cảnh
cha mẹ mất sớm, Mai một mình quyết
nuôi em ăn học nên ngời, dù có phải
bán hết tài sản cha mẹ để lại. Rồi cô
gặp Lộc - một trí thức Tây học có lòng
tốt - đã đa tay cứu chị em nàng thoát
khỏi thủ đoạn của Hàn Thanh - một
trọc phú ở nông thôn. Cảm động trớc
tấm lòng hào hiệp của Lộc, Mai đem
lòng yêu Lộc và hai ngời xây dựng tổ
ấm riêng. Nhng thế lực phong kiến
không để cho nàng dễ dàng có đợc
hạnh phúc. Bà
á
n (mẹ Lộc) ngời đại
diện cho nền luân lý cũ đã dùng đến
những mu mô nham hiểm, thâm độc
để chia rẽ đôi thanh niên trẻ. Đứng
trớc tình thế bi đát, Mai đã kiên quyết
từ chối làm vợ lẽ của Lộc, thẳng thắn
nói lên những suy nghĩ của mình về lẽ
sống. Cuộc sống hạnh phúc của chị em
Mai với đứa con kháu khỉnh đã chứng
minh cho những lý lẽ đúng đắn của
nàng. Cho đến Thoát ly, bộ mặt ghê tởm
của đại gia đình phong kiến cùng với
một nền luân lý phản động đã đợc phơi
bày, khi quyền lực trong gia đình đã rơi

vào tay ngời dì ghẻ tàn ác, nhiều mu
ma chớc quỷ. Hồng (đứa con gái mồ côi
mẹ) tội nghiệp đã trở thành nạn nhân,
thành con mồi để cho mụ dì ghẻ mặc
sức đày đoạ, khủng bố tinh thần. Ngời
cha nhu nhợc, mất hết quyền lực chỉ
biết a dua với vợ lẽ để dày vò đứa con
gái đáng thơng của mình. Hình ảnh
mụ dì ghẻ hiện lên trong truyện chẳng
khác gì một con yêu tinh với bộ mặt xấu
xí luôn che đậy bằng cái mặt nạ đạo đức
giả. Bà căm ghét Hồng, không muốn
thấy Hồng sung sớng trong gia đình
mình. Bà lồng lộn ghen tức khi Hồng có
cơ hội thoát ly khỏi gia đình để xây
dựng hạnh phúc. Bà mừng thầm khi
nghe tin ngời chồng hứa hôn của Hồng
đang học ở Pháp bỗng dng lăn ra chết.
Bà lấy cái việc cạo răng trắng của Hồng
ra làm đầu đề cho câu chuyện của
mình. Bà đã giăng cho Hồng một cái
bẫy nguy hiểm và sung sớng ngồi chờ
đứa con gái ngây thơ bớc vào cái bẫy
giăng sẵn của mình. Bà mỉm cời tự
nhủ: Con bé này sắp chết rồi, bà sẽ cho
chết hẳn. Phải sống trong cái gia đình
khủng khiếp ấy, Hồng luôn gặp ác
mộng và luôn khao khát thoát đợc
khỏi gia đình ấy càng nhanh càng tốt.
Nàng chỉ tởng tới một điều. Thoát ly

gia đình dù có phải hy sinh danh dự
cũng cam. Huống hồ lại chỉ hy sinh
danh dự cho ngời mình yêu!. Hồng bỏ
nhà ra đi với một quyết tâm và một suy
nghĩ táo bạo: Hai ngời sẽ lấy nhau dù
ông phán bằng lòng hay không bằng



n. q. anh hành trình số phận con ngời cá nhân Khái Hng, tr. 10-16


12

lòng cũng mặc kệ. Vả cần phải cới xin
mới lấy nhau đợc? Cốt yêu nhau, yêu
nhau thành thực là đủ rồi. Sự phản
kháng của Hồng đối với gia đình chính
là sự phản kháng của cái tôi cá nhân có
ý thức sâu sắc về cuộc sống tự do, căm
phẫn cuộc sống tù túng đày đoạ, quyết
tâm xây dựng cho mình một cuộc sống
hạnh phúc bên cuộc sống ngời mình
yêu thơng. Thoát ly là tiếng nói mạnh
mẽ, dứt khoát của con ngời cá nhân
đoạn tuyệt với hủ tục phong kiến. Cái
chết của Hồng ở cuối tác phẩm là tiếng
chuông thức tỉnh cho những ai còn ảo
tởng có thể bắt tay để hoà giải với thế
lực phong kiến hủ bại.

4. Bớc vào những năm cận kề cách
mạng Tháng Tám 1945, cái tôi cá
nhân bớc qua thời kỳ hăm hở buổi đầu
để rơi vào khủng hoảng, thờng xuyên
sống với căn bệnh hoài nghi. Các nhà
thơ mới đã thể nghiệm điều này một
cách sâu sắc. Hành trình số phận của
cái tôi cá nhân trong trong Thơ mới,
cũng không khác hành trình số phận
của con ngời cá nhân trong tiểu thuyết
TLVĐ nói chung và tiểu thuyết của
Khái Hng nói riêng. Tuy nhiên nếu
nh Thơ mới thể hiện cuộc sống con
ngời cá nhân ở khía cạnh con ngời
tâm linh thì văn xuôi TLVĐ nói chung
và tiểu thuyết Khái Hng nói riêng tập
trung miêu tả bi kịch của con ngời cá
nhân ở khía cạnh con ngời đời t.
Tuyết trong Đời ma gió là một
ngời thông minh nhạy cảm, vì thế cô
không phải không ý thức đợc cuộc sống
và tơng lai của mình. Nhng cô gái
này đã bị những dục vọng và thú vui
khoái lạc hàng ngày lôi kéo nh khúc gỗ
lềnh bềnh bị dòng nớc chảy xuôi lôi
kéo đi nơi vô định. Nên khi Chơng
đề nghị cới Tuyết thì nàng chỉ im lặng
và suy nghĩ, nàng biết rằng sự cới
.


xin, sự lấy nhau theo lễ nghi không đủ
sức mạnh giữ nổi ở trong bổn phận một
ngời đàn bà quá tự do, sống đời phóng
đãng nh nàng; Nàng nh hiểu lờ mờ
rằng, trừ những khoái lạc hằng ngày ra,
nàng không còn nên hy vọng những
hạnh phúc đâu đâu. Gia đình? Một
ngời nh nàng không có quyền tởng
đến gia đình. Sự mơ ớc của nàng đã
quá muộn. Để thoát khỏi cuộc sống
thực tại, Tuyết đã có lúc nghĩ đến việc
cùng Chơng đến sống ở một nơi hẻo
lánh để hởng một cuộc sống êm đềm,
lơng thiện. Nhng rồi Tuyết lại sợ cái
cảnh nghèo đói, nheo nhóc, bận bịu về
bầy con đông đúc. Cô cáu bẳn tự hỏi:
Một ngời đã lầm lỗi một lần thì không
thể sung sớng đợc nữa chăng?. Khi
nghĩ về sự cải hoá của mình, Tuyết
phân tích: Thì ngời ta nh thế cả đã
sao? Chán vạn gái giang hồ trở nên
những bà trởng giả. Tuyết khinh bỉ
những kẻ giả dối, những bọn đạo đức
quê mùa. Tuyết mỉm cời tự nhủ: Chà!
Một liều ba bảy cũng liều, cầm nh con
trẻ chơi diều đứt dây!. Tuyết muốn rời
bỏ ngay nhà Chơng mà đi, lăn lộn với
cuộc đời ma gió. Tiếng gọi ở chốn xa
xăm huyền bí nh lại đến làm rung
động tâm hồn phiêu lu của nàng. Cái

bi kịch của Tuyết là không thể sống
đợc trong một gia đình quá êm đềm,
đơn điệu gợi sự nhạt nhẽo buồn chán
mặc dầu biết rằng phó thân cho cuộc
đời ma gió cũng chỉ để đày đoạ tấm
thân, nhng Thà liều thân với một đời
ma gió, khổ sở, đê tiện nàng cho còn
hơn là sống mãi với cái đời lừa dối, bên
cạnh một ngời mà nàng đã cạn tình
yêu và trong gia đình bình tĩnh, êm ấm
nó luôn nhắc nàng nhớ rằng địa vị của
nàng không phải ở đây. Trong cuộc gặp
gỡ lần cuối với Chơng khi Tuyết đã tàn
tạ và Chơng vẫn mở rộng lòng thơng
tha thứ, Tuyết tự thấy xấu hổ tủi nhục,



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 2b-2009


13

thấy mình không xứng đáng với lòng tốt
của Chơng. Tuyết vẫn phải ra đi dấn
thân vào đời ma gió. Tác giả đã miêu
tả hành động đó với niềm xót xa cho
một cô gái đã trót sống một đời phóng
đãng truỵ lạc. Theo Hà Minh Đức: Khi
miêu tả Tuyết, Khái Hng và Nhất

Linh đã tỏ ra từng trải khi thể hiện
những mặt phức tạp của một nhân vật
nữ có tính cách nổi loạn theo hớng suy
đồi của xã hội hiện đại. Kết thúc tác
phẩm Đời ma gió, các tác giả đã dự
báo tính phổ biến của loại nhân vật
này. Xu hớng chơi bời truỵ lạc, lấy lạc
thú làm mục đích của cuộc sống, sống
hôm nay không cần đến ngày mai, sống
sung sớng cho mình không cần đến
ngời khác, đã thấm nhiễm vào lớp
thanh niên thời đại. Đám thanh niên tụ
tập trong cuộc rợu đã đề xớng lý
thuyết đó Xin ai nấy uống cạn với tôi
cốc rợu. Còn nh câu chuyện cô Tuyết
nào đó của hai anh đây thì xin hai anh
xếp mau lại cho. Sống ngày nay nhớ chi
ngày xa, tởng chi đến ngày mai. Cô
Tuyết ấy chết đi đã có cô Tuyết khác
đẹp, xinh tơi hơn, phải không các
em ? [2, tr. 235]. Không biết rồi sau cái
chết vô nghĩa của Tuyết, bị kịch ấy sẽ
đến với ai đây trong đám chơi bời, truỵ
lạc ấy? Chơng từ một ông giáo đạo
mạo, sống khuôn khổ, bị ám ảnh bởi
việc ngời yêu phản bội đi lấy chồng,
chàng sinh ra ghét phụ nữ. Đợc Thu
con gái bà phủ đem lòng quyến luyến
nhng chàng vẫn hờ hững. Cuộc đời của
Chơng bỗng xoay chuyển hoàn toàn, từ

chỗ ghét cay ghét đắng phụ nữ, Chơng
đổi ra si mê Tuyết, nghiện Tuyết
nghĩa là nghiện cái thú nhục dục cũng
nh vài anh em, ban bè nghiện thuốc
phiện, nghiện đi hát. Trong đám bạn
bè đã có ngời nhận xét Chơng:
Những ngời hiền lành, bẽn lẽn, lãnh
đạm nh Chơng mà khi đã ham mê
một cái gì thì tất là nồng nàn ghê gớm.
Rồi khi Tuyết bỏ chàng ra đi, linh hồn
của Chơng cũng đi nốt: Trong hai
năm, thỉnh thoảng chàng vẫn tìm sự
quên ở trong lòng bạn gái một đêm,
nhng tình hững hờ của bọn tục tằn chỉ
làm cho chàng thêm nhớ tới ngời tình
cũ. Rồi càng ngày càng chán nản, phiền
muộn, chàng đã quay về cái đời lạnh
lùng, trơ trọi ngày xa.
Khác với bi kịch của Tuyết trong
Đời ma gió, Nam trong Đẹp cùng với
đám bạn bè ăn chơi phóng đãng lại rơi
vào một bi kịch khác. Nam là một nghệ
sĩ say mê, tôn thờ cái đẹp, chỉ vì nó là
đẹp và thực hiện cái triết lý ấy trong đời
sống của mình. Nam sống giữa đám
nghệ sĩ xô bồ, kẻ thì lấy nghệ thuật làm
phơng tiện để làm giàu, kẻ thì chìm
ngập trong đời thờng lam lũ, tẻ nhạt,
nhỏ nhen, kẻ thì vô lý tởng duy chỉ có
một lý tởng chính đáng và có thể tới

một cách dễ dàng, đó là lý tởng ăn,
uống, nhảy. Riêng Nam thì say mê
nghệ thuật, vẽ cần cho chàng nh ăn,
uống. Có khi hơn. Vì mải vẽ chàng có
thể quên ăn. Nhng không một lạc thú
gì, không một sức mạnh gì lôi kéo chàng
đi đâu, một khi chàng đứng trớc một
cái khung căng vải đặt trên giá, cái
bảng màu cầm trên tay. Nam say mê
vẽ nh thế nhng lại không biết vẽ để
nhằm mục đích gì ngoài nhu cầu giải
trí: Vẽ xong nó là khung vải bôi trơn.
Đem bán, đem cho hay đem vứt cũng
thế thôi. Nó nh một ngời con gái.
Ngời con gái ấy một hôm mình gặp
mặt, và mình ao ớc tìm tòi cái lạ, cái
đẹp. Cái đẹp cái lạ một khi đã thấy, hay
tởng thấy thì còn gì nữa? Sự thực hiện
ra và mộng ảo tan đi. Theo đuổi cái đẹp
nhất thời, Nam cho rằng Làm gì có cái
đẹp tuyệt đích, Cái đẹp gì mà không
thoáng qua. Nam nghĩ:

đời làm gì
có việc quan trọng, làm gì có việc thiêng



n. q. anh hành trình số phận con ngời cá nhân Khái Hng, tr. 10-16



14

liêng ().

đời chỉ có hiện tại. Biết
hởng hiện tại hơn ngời khác, đó là cái
hơn đời của nghệ sĩ. Vì quan niệm ấy
nên Nam không lập gia đình để sống tự
do hởng thụ lạc thú. Nam tự biện hộ
cho t tởng của mình rằng: Chúng ta
vì nghệ thuật mà hy sinh ái tình của
chúng ta. Ràng buộc một nghệ sĩ vào
trong một gia đình tức cũng đem một
cây đa trồng vào chiếc chậu sứ. Theo
Nam, vớng mắc vào gia đình với
những lo toan tầm thờng thì không
còn mơ tởng theo đuổi nghệ thuật
đợc. Nam nghĩ về gia đình Kế: Nam lơ
đãng ngắm tranh và cái đời buồn tẻ của
ngời bạn lần lần vẽ ra trên bức tranh
tởng tợng. Đó là một đời nghệ sĩ.
Không, đó chỉ là một đời, một đời tầm
thờng nữa. Có một gia đình đông đúc
mà ngời ta phải làm việc vất vả để
nuôi sống thì ngời ta còn mơ tởng,
theo đuổi nghệ thuật sao đợc. Dờng
nh Nam đã thấy sợ hãi và hình dung
ra cái bi kịch của ngời nghệ sĩ về gánh
nặng cơm áo - cái bi kịch mà nhân vật

Hộ trong Đời thừa và Điền trong Trăng
sáng của Nam Cao đã từng đau đớn
nếm trải. Tránh đợc cái bi kịch đó
nhng Nam lại là một kẻ chạy theo cái
đẹp không có điểm dừng. Khi gặp Lan,
sắc đẹp và vẻ ngây thơ của Lan đã giúp
Nam tìm đợc nguồn cảm hứng sáng
tác mới mẻ và mênh mông, lần này là
lần đầu chàng nhận thấy thế và hiểu
rằng hơn hai tháng thiết tha với nghệ
thuật đó là ảnh hởng của cặp mắt mỹ
nhân. Nam vốn là một kẻ vốn a sống
cuộc sống tự do, nay phải bó buộc vào
trong cuộc sống gia đình, nghệ thuật
của chàng bị tiêu mòn. Nam lại phải
đau đầu vì sự ghen tuông dày vò của
Lan. Sự khác biệt về lối sống, về quan
niệm giữa Nam và Lan đã làm cho cuộc
sống của họ trở nên căng thẳng, bất
hoà, không cho họ hởng một cuộc sống
yên ổn, hạnh phúc. Trong khi Lan là cô
gái trong trắng, chỉ nghĩ đến một ngời
đàn ông duy nhất là chồng mình thì
Nam đã bao lần chàng làm cái việc ấy
với biết bao cô gái khác, nào chàng có
nghĩ tới sự thiêng liêng nh Lan đâu!.
Vì thế khi gặp Trinh (bạn Lan) Nam lại
tìm đợc nguồn cảm hứng sáng tác mới.
Lý giải bi kịch của con ngời cá
nhân trong Đẹp, Phan Cự Đệ cho rằng:

Khái Hng cũng không giấu diếm tình
trạng bế tắc, tuyệt vọng của lớp nghệ sĩ
sống không có lý tởng. Họ suốt đời
băn khăn khổ sở muốn quên mà không
quên đợc. Họ chìm đắm trong cái đời
hắc ám, cái đời nồng nực trong men
rợu và u mê trong khói thuốc phiện
để đi từ chán nản này đến chán nản
khác và thất vọng cứ ấn mãi chìm vào
thất vọng. Đầu đại chiến lần thứ hai,
Khái Hng có tham gia những đảng
phái thân Nhật cho nên ở cuối tác
phẩm, có lúc tác giả đã muốn đa ra
một lời đề nghị, một phơng hớng giải
quyết tình trạng bế tắc cho lớp văn
nghệ sĩ lãng mạn đơng thời. Nhân vật
Ngọc có lẽ phần nào là Khái Hng, tuy
Nam cũng là một nhân vật đợc nhà
văn trìu mến. Ngọc tâm sự với Nam:
Một đằng tìm quên có lẽ vì buồn, một
đằng tìm sống một đời thể chất phong
phú có lẽ cũng vì buồn. Giá đừng ai
buồn cả thì sẽ không có tiểu thuyết. Mà
muốn không buồn thì tất phải có một lý
tởng để theo đuổi. Chính Nam đã đi
theo con đờng ấy, con đờng đuổi theo
cái đẹp nên chàng ít băn khoăn và tự
tin hơn những ngời bạn của mình.
Nhng bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc
Lớp nghệ sĩ trong tiểu thuyết của Khái

Hng chán nản với cuộc đời thực tại,
sống không có lý tởng nên tìm sự quên
lãng trong nghệ thuật và hoạt động
nghệ thuật của họ thực ra cũng là một
sự thoát ly. Nghệ thuật vị nghệ thuật,



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVIIi, số 2b-2009


15

nghệ thuật tách rời sự nghiệp cách
mạng cao cả của quần chúng, thoát ly
khỏi những vấn đề nóng hổi đặt ra
trong cuộc sống thì không thể tránh
khỏi rơi vào tình trạng bế tắc và suy
đồi [1, tr. 950].
Bi kịch của hai cha con Cảnh trong
Băn khoăn cũng là bi kịch của một sống
phóng đãng. Cuộc sống ăn chơi truỵ lạc
của Cảnh có ảnh hởng phần nào từ
ngời cha sống buông thả của mình.
Thỉnh thoảng ông Thiện (tức Thanh
Đức) lại đa về một ngời con gái rồi
đùa bỡn ầm ĩ với ngời ấy ở phòng bên
cạnh sát tờng với phòng các con. Cái
đời sống ấy kéo dài hơn hai năm, một
đời nhiễu loạn vô gia đình giáo dục, vô

gia đình luân lý đi song song với một
đời hoàn toàn có trật tự. Bi kịch của
Cảnh là bi kịch của kẻ không tìm thấy ý
nghĩa đích thực của cuộc sống, sống
chán nản đắm mình trong truỵ lạc để
quên hết thực tại đáng hoài nghi chán
nản. Còn về nhân vật Chơng, đã có lúc
Chơng hối hận và quyết sửa mình
nhng gặp Hảo - một nhan sắc hấp dẫn,
mê hoặc - Chơng lại quay về với lối
sống cũ để rồi giữa hai cha con nảy sinh
xung đột vì yêu cùng một ngời. Để làm
đẹp lòng ngời yêu, để trang trải tình
phí, Chơng đã bán cái vi la mà cha đã
mua cho ở Sầm Sơn để sắm ô tô. Kết
quả chàng bị cha chửi mắng và đuổi ra
khỏi nhà. Còn Thanh Đức thì mê đắm
nhan sắc của Hảo. Ông ta đã dùng tiền,
dùng mọi mánh khoé để chinh phục
Hảo. Nhng cuối cùng viên đại tớng
thao lợc đã từng đánh bại bao kẻ địch
trên thơng trờng lại thất bại đau đớn
trên tình trờng. Nghe tin Hảo lấy
chồng, con ngời quyết đoán, bản lĩnh
nh Thanh Đức cũng phải: Chân tay
rung lên, mặt mày tái mét, miệng lẩm
bẩm: Lạ! có lẽ nào!.
Bàn về tiểu thuyết Băn khoăn, Ngô
Văn Th đa ra nhận xét: Rõ ràng
càng đi sâu vào thế giới cái tôi ta càng

thấy lạnh. Nó bơ vơ thiếu thốn tình
ngời. Nó giả dối truỵ lạc, vô luân. Tiểu
thuyết Băn khoăn quả là bức tranh
sinh động về tình trạng truỵ lạc của lớp
thanh niên trí thức, kể cả trung niên
trớc Cách mạng [4, tr. 140]. Tác phẩm
cũng thể hiện nỗi băn khoăn của nhà
văn, cha biết phải làm gì trớc tình
trạng phổ biến đó của thanh niên đơng
thời. Cái bi kịch khủng hoảng đó của
con ngời cá nhân chỉ đơc giải phóng
khi cái tôi cá nhân, cá thể nhận ra và
quay trở về hòa nhập chung vào cái ta
của cộng đồng, dân tộc để tiếp thêm sức
mạnh.
Ta có thể ví con ngời cá nhân nh
một đứa trẻ hồn nhiên trong sáng bỡ
ngỡ trớc cuộc đời. Đến thời kỳ khủng
hoảng về tâm lý, nó cảm thấy cái tôi của
nó là lớn nhất. Nó muốn khẳng định
mình là ngời lớn, mà sự khẳng định đó
có lúc khá kỳ quặc, ngộ nghĩnh. Nó tự
đối lập mình với gia đình và muốn thoát
khỏi gia đình để ra đi kiếm tìm tự do,
tìm kiếm những điều mới lạ. Nhng rồi
mất đi chỗ dựa, mộng ớc tan tành, nó
thấy hụt hẫng, bơ vơ, đành phải quay
trở về đoàn tụ với gia đình trong cái ta
chung của cộng đồng.
5. Nghiên cứu, khảo sát hành trình

số phận của con ngời cá nhân trong
tiểu thuyết Khái Hng, chúng ta thấy
đây là một vấn đề có tính quy luật,
không chỉ xuất hiện trong địa hạt văn
xuôi mà cả trong thơ, không chỉ ở nớc
ta mà có tính phổ biến trên thế giới. Nó
là một phần của hiện thực đời sống nảy
sinh trong xã hội đơng thời. Bên cạnh
hiện thực đợc phản ánh trong văn học
hiện thực phê phán, hiện thực đợc



n. q. anh hành trình số phận con ngời cá nhân Khái Hng, tr. 10-16


16

phản ánh trong văn học Cách mạng, ta
còn thấy sự đa dạng của hiện thực trong
tiểu thuyết TLVĐ, trong tiểu thuyết
Khái Hng. Tất cả góp phần làm nên sự
đa dạng, muôn màu, muôn vẻ trong đời
sống văn học Việt Nam những năm
1930, đầu những năm 1940 của thế kỷ
XX.

tài liệu tham khảo

[1] Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945), NXB Giáo dục, Hà Nội,

1997.
[2] Hà Minh Đức, Tự lực văn đoàn trào lu - tác giả, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007.
[3] Đỗ Lai Thuý, Con mắt thơ, NXB Lao động, Hà Nội, 1992.
[4] Ngô Văn Th, Bàn về tiểu thuyết Khái Hng, NXB Thế giới, Hà Nội, 2006.

Summary

The journey of individual human fate in Khai Hung's novels

The paper analyzed thoroughly the journey of individual human fate in Khai
Hungs novels. Individuals who are eager to affirm themselves, have fell into crisis
and deadlock which happen as a general rule. Through this theme, Khai Hung has
proved his ability to observe the reality as well as his enthusiasm in writing about
social issues.

(a)
Cao học 14, chuyên ngành Lý Luận Văn Học, trờng đại học vinh.


×