Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.92 KB, 9 trang )




Báo cáo nghiên cứu
khoa học:


"Ngôn ngữ tiểu
phẩm báo chí của
Ngô Tất Tố"



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4b-2008


65
NGÔN NGữ TIểU PHẩM BáO CHí CủA NGÔ TấT Tố

Nguyễn Hoài Nguyên
(a)



Tóm tắt. Tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố mỗi bài một kiểu, không có sự trùng
lặp và tẻ nhạt, ngợc lại luôn khơi gợi sự hứng thú ở ngời đọc. Ngôn ngữ tiểu phẩm báo
chí của ông vừa có cái uyên thâm, uyên bác, vừa có cái mộc mạc bình dân, vừa có cái
thâm trầm của lối văn cử nghiệp, vừa có cái hơi thở nồng nàn của dân tộc, thời đại. Bài
viết này, ở một mức độ nhất định chứng tỏ những nét đặc sắc trong ngôn ngữ tiểu phẩm
báo chí của Ngô Tất Tố.



1. Dẫn nhập
Ngô Tất Tố là một nhà văn hiện
thực xuất sắc nhng Ngô Tất Tố trớc
hết là một nhà báo, một nhà báo cả
những khi viết tiểu thuyết, một nhà báo
có biệt tài [1], một tay ngôn luận xuất
sắc trong đám nhà nho [6]. Là nhà báo,
ông đã chọn thể loại báo chí nh một
thể loại gọn nhẹ, tiện lợi, phù hợp với
yêu cầu kịp thời và giàu tính chiến đấu
trên báo chí hàng ngày. Với các bút
danh quen thuộc nh Thiết Khẩu Nhi,
Thục Điểu, Lộc Hà, Lộc Đình, Thôn
Dân, Phó Chi, Tuệ Nhỡn, Thuyết Hải,
Xuân Trào, Đạm Hiên, Hy Cừ ông đã
viết gần 120 tiểu phẩm báo chí trên các
tuần báo và tạp chí trong Nam ngoài
Bắc từ 1929- 1943. Đánh giá các tiểu
phẩm báo chí của Ngô Tất Tố, nhà
nghiên cứu Phan Cự Đệ viết: Văn tiểu
phẩm của Ngô Tất Tố dờng nh làm
thành một bộ sử biên niên của xã hội
Việt Nam những năm từ trớc sau 1930
cho đến hồi đại chiến thế giới lần thứ
hai [2, tr.41].
Đọc tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất
Tố, ta nhận thấy mỗi bài một kiểu,
không có sự đơn điệu, trùng lặp và tẻ
nhạt, ngợc lại luôn khơi gợi sự hứng

thú ở ngời đọc. Qua các tiểu phẩm, ta
dễ dàng nhận ra tác giả là một tài năng
đa dạng, độc đáo, một ngòi bút hết sức
linh hoạt và uyển chuyển khi thâm
thúy sắc sảo, khi dứt khoát đanh thép,
khi thì hài hớc và dí dỏm, khi thì hồn
hậu và khỏe khoắn. Tiểu phẩm báo chí
của ông là một phòng triển lãm những
bức chân dung đợc phác thảo theo kiểu
biếm họa giai cấp phong kiến thống trị
và những kiểu ngời điển hình trong xã
hội cũ bằng một thứ ngôn ngữ đa dạng,
linh hoạt, nhiều màu sắc. Có thể khẳng
định rằng, thủ pháp châm biếm trong
tiểu phẩm báo chí Ngô Tất Tố có sự kết
hợp giữa cái thâm thúy của một trí thức
uyên thâm với cái hồn hậu, lạc quan,
khỏe khoắn giàu tinh thần chiến đấu
của văn học dân gian. Do đó, ngôn ngữ
tiểu phẩm của ông vừa có cái uyên
thâm, bác học, vừa có cái mộc mạc, bình
dân, vừa có cái thâm trầm của lối văn
cử nghiệp, vừa có cái hơi thở nồng nàn
của dân tộc, thời đại. Bài viết này, ở
một mức độ nhất định, đi sâu phân tích
những nét đặc sắc trong ngôn ngữ tiểu
phẩm báo chí Ngô Tât Tố.
2. Đặc sắc ngôn ngữ tiểu phẩm
báo chí của Ngô Tất Tố
2.1. Sử dụng linh hoạt vốn từ vựng

tiếng Việt
Do tiểu phẩm báo chí có sự kết hợp
.


Nhận bài ngày 08/10/2008. Sửa chữa xong 16/10/2008.





Nguyễn Hoài Nguyên NGÔN NGữ TIểU PHẩM BáO CHí , TR. 65-72


66
giữa ngôn ngữ sự kiện với ngôn ngữ
nghệ thuật nên cho phép sử dụng các
lớp từ thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ
khác nhau. Cố nhiên, việc khai thác và
sử dụng chủ yếu lớp từ nào là tùy thuộc
ở kiểu lựa chọn của ngời viết. Là một
nhà nho có vốn kiến thức uyên thâm,
Ngô Tất Tố đã phát huy những u thế
từ vốn Hán học, vốn văn hóa phơng
Đông mà trớc hết là lớp từ Hán Việt.
Nhờ lớp từ này, tiếng Việt đã có thêm
một vốn từ vựng hết sức phong phú về
số lợng và chất lợng. Hơn nữa, âm
Hán Việt lại đợc ghi bằng chữ quốc
ngữ nên từ Hán Việt đã cho ngời Việt

khả năng tri nhận mới về nghĩa một
cách tự do hơn. Nhờ đó, ngoài việc biểu
thị chính xác các khái niệm, nghĩa của
từ Hán Việt có thể phát triển theo t
duy liên tởng của ngời Việt, làm nảy
sinh hàng loạt các vấn đề thú vị trong
tiếng Việt nh các hiện tợng đồng âm,
đồng nghĩa làm phong phú vốn từ
tiếng Việt cả trong sử dụng.
Nhà nho Ngô Tất Tố dĩ nhiên thấy
đợc tiềm năng to lớn của từ Hán Việt
và ông đã khai thác và sử dụng chúng
một cách dày đặc trong các tác phẩm.
Cùng viết tiểu phẩm báo chí để châm
biếm, đả kích cái xấu, cái lạc hậu nhng
nếu Hồ Chí Minh chủ trơng khai thác
lớp từ thuần Việt thì Ngô Tất Tố lại chủ
yếu sử dụng lớp từ Hán Việt. Qua cách
sử dụng của Ngô Tất Tố, các từ Hán
Việt đã tạo đợc những liên tởng bất
ngờ, thú vị, những hàm nghĩa tinh tế
làm bật lên tiếng cời châm biếm sâu
cay. Chẳng hạn, trong tiểu phẩm Giết
ngời cớp của, ông viết: Một số rất lớn
cụ lang, ông lang, chú lang, anh lang
kia đều là tổ s, thánh s, tiên s và kỉ
s của nghề bịp [7, tr.156]. Trớ trêu
thay, những kẻ vốn là thầy đồ dốt, là
anh chàng thi trợt bằng tiểu học, là
đứa vô nghề nghiệp, là những bọn chữ

tây chữ tàu chẳng biết bỗng nhiên
thành lang mà lại là tổ s, thánh s,
tiên s, kỉ s hành nghề bằng thủ đoạn
mỗi ngời bị lừa một lần thì tôi sẽ trở
thành một nhà triệu phú. Các từ Hán
Việt trong câu văn trên có tác dụng
vạch mặt chỉ tên những kẻ vô đạo đức,
nấp dới vỏ bọc bịp bợm để làm giàu
một cách vô lơng tâm.
Có thể nói, trong các tiểu phẩm báo
chí, Ngô Tất Tố đã có ý thức dùng lớp từ
Hán Việt với một số lợng lớn và một
tần số cao. Thống kê trong 114 tiểu
phẩm có 7172 lợt từ Hán Việt đợc sử
dụng, trong đó, có những từ xuất hiện
với một tần số cao nh chính phủ 66
lần, dân biểu 37 lần, dân tộc 35 lần,
tiên sinh 30 lần, hiến pháp 28 lần, nghị
viện 28 lần, tổng lý 14 lần, kinh tế 13
lần Trong các đoạn văn, từ Hán Việt
sử dụng một cách dày đặc, ý nghĩa
thâm thúy. Chẳng hạn, đoạn văn trong
tiểu phẩm Cho no đủ đã: Lại biết bao
những tài chủ, nghiệp chủ và điền chủ
cùng những danh công, đại thơng lập
nên những công ti vĩ đại, những cổ
phần, những thơng phiếu trên nghị
trờng quốc tế có địa vị cao quý làm cho
bao kẻ thèm muốn cái xứ bờ xôi ruộng
mật. Lại những cảnh tợng xa hoa

trong các nơi thành thị, những công sở,
những biệt thự, những lâu đài kiến trúc
kinh phí hàng năm kể vạn, kể triệu [7,
tr.336]. Chỉ một đoạn văn ngắn mà có
hàng loạt từ Hán Việt nh tài chủ,
nghiệp chủ, điền chủ, danh công, đại
thơng, công ti, vĩ đại, cổ phần, thơng
phiếu, nghị trờng, quốc tế, địa vị, cao
quý, cảnh tợng, kiến trúc, kinh phí,
vạn, triệu. Đằng sau cái vẻ sang trọng
của những từ Hán Việt, Ngô Tất Tố đã
phác họa lí lịch cá nhân của các vị tai to
mặt lớn, những ngài đóng vai trò ông



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4b-2008


67
chủ trong xã hội từ thủ hiến, thống đốc
ngời Pháp cho đến quan lại hàng tỉnh,
hàng huyện, viện trởng dân biểu, nghị
viện, bọn địa chủ phần nhiều là
những bọn ăn chó cả lông ăn hồng cả
hột.
Đặc biệt ở Ngô Tất Tố, bên cạnh lớp
từ Hán Việt, lớp từ thuần Việt cũng
đợc ông khai thác triệt để và có hiệu
quả cao. Đọc các tiểu phẩm của ông,

chúng ta dễ dàng nhận thấy lớp từ nôm
na thông tục đợc sử dụng khá phổ
biến, đa dạng nhng có chọn lọc, phù
hợp với từng đối tợng cụ thể, gắn chặt
với những ngữ cảnh nhất định. Tác giả
đã khai thác triệt để những từ khẩu
ngữ vốn đợc sử dụng trong sinh hoạt
hàng ngày nh đớ (lỡi), (nghe) lỏm, ả,
(nói) toẹt, nhè (dịp), (rất) ê, rảnh (việc),
mút (nớc mắm), lòi (ra), tếch, ma
(nào), bng (miệng), (kể) nốt, (chết)
quách, (khểnh) cẳng, (khéo) nhử, sỏ
(lợn), (làm) đỏm, (vào) bè, con nít, ngắc
ngoải, bô bô, vọc vạch, nộm nạm, hằm
hằm, ngủng nghỉnh, hục hặc, bố cu, bố
đĩ, vừa vặn, ậm ọe, nắc nỏm Ông cũng
mạnh dạn sử dụng các từ điạ phơng,
từ cổ, từ thông tục nh nhời (lời), dục
dịch (rục rịch), binh (bênh), mần (làm),
dái cá (rái cá), lạt (nhạt), chút tội (trút
tội), róc (cạn), bồ côi (mồ côi), chi (gì),
nên chi (cho nên), da dứa (từa tựa),
chng muốn (vì muốn), mần thinh (làm
thinh), van (gọi), bạ men, dong dự, chật
cheo Các tổ hợp từ mang tính khẩu
ngữ cũng đợc tác giả sử dụng hết sức
tự nhiên nh đổ máu mồm, bng
miệng, khổ bỏ mẹ, bạn nối khố, choang
cho một mẻ, ăn phải bả, bị chết toi,
chẳng ma nào, khểnh cẳng, ở cạnh

nách, khéo nhử, đẻ thả cửa, nói dại đổ
đi, quất vào đít
Có thể dẫn trong tiểu phẩm Ông
Phạm Quỳnh là bạc tình lang, Ngô Tất
Tố viết: Trớc kia màu hồ còn đợm, xã
hội còn kẻ đón ngời đa, thì đối với chị
ả Nam Phong, tiên sinh cũng hết lòng
chải chuốt, khiến cho ả đúng tuần trăng
mà ra mặt với đời. Vài năm gần đây,
chị ả vì phấn lạt hơng phai, tiên sinh
ruồng rẫy ngay ả, mà ôm ái tình đi
sang con đờng chính trị. Tiên sinh
chẳng ó ê đến ả, để cho ả sống dở chết
dở, thoi thóp, ngắc ngoải [7, tr.92].
Các từ ả, chị ả, ó ê, ruồng rẫy, ôm, thoi
thóp, ngắc ngoải, các tổ hợp từ kẻ đón
ngời đa, ra mặt, phấn lạt hơng
phai, sống dở chết dở làm cho các câu
văn vừa bộc lộ tính chân thực của sự
kiện vừa là lời bình luận xác đáng, làm
cho thông tin đa ra có sức truyền cảm
và tác động mạnh mẽ đối với ngời đọc,
giúp ngời đọc dễ dàng nhận ra chân
tớng của chàng bạc tình Phạm Quỳnh,
một trí thức có cỡ nhng lại là kẻ cơ hội.
ở nhiều trờng hợp khác, Ngô Tất Tố
mạnh dạn dùng những từ địa phơng,
từ thông tục mang sắc thái mỉa mai,
châm biếm vừa thể hiện một cách cụ
thể, chi tiết sự thật đợc phản ánh.

Vạch trần bản chất bịp bợm của bọn vô
học nhng lại tìm cách làm giàu trên
đau khổ của ngời khác, tác giả viết: Lạ
lùng nhất là phép chữa bệnh của đức
giáo chủ. Kẻ nào có bệnh xin chữa thì
ngài hoặc dùng roi mây mà quất vào
đít, hoặc dùng nớc lạnh mà đổ vào
mũi, hoặc dùng bùa giấy mà thọc vào
cuống họng, để chẩy ra rãi xanh, rãi
vàng [7, tr.233]. Cách dùng các từ quất,
đít, nớc lạnh, thọc, chẩy, rãi (xanh,
vàng) hết sức tự nhiên, có vị trí và sức
sống mới trong câu văn, chứng tỏ Ngô
Tất Tố đã biết khai thác những khả
năng tiềm tàng của ngôn ngữ dân gian.
Nh vậy, qua cách dùng từ của Ngô
Tất Tố, ta nhận thấy ông không quá
lạm dụng những từ ngữ bác học mà



Nguyễn Hoài Nguyên NGÔN NGữ TIểU PHẩM BáO CHí , TR. 65-72


68
dùng đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều
lợng. Bên cạch lớp từ Hán Việt, lớp từ
dân gian cũng đợc ông khai thác khá
triệt để. Có thể khẳng định rằng, cách
dùng từ ngữ trong tiểu phẩm báo chí

của Ngô Tất Tố là hết sức độc đáo, đa
dạng, limh hoạt và đầy tính sáng tạo.
2.2. Đổi mới cách diễn đạt truyền
thống
Là một nhà Hán học uyên thâm,
Ngô Tất Tố rất có ý thức khai thác các
điển tích, điển cố, các giai thoại trong
các sách vở Trung Hoa. Dĩ nhiên, ông
vận dụng những điển tích, điển cố là để
so sánh, đối chiếu, luận bàn những
chuyện, những việc ngày nay. Có thể kể
hàng loạt trờng hợp nh ông lấy
truyện Trịnh Hoàng trong Hậu Hán th
để đả kích tên thống sứ Bắc kì
Tholance, lấy chuyện vợ Chu Mãi Thần
để so sánh với tình thế oái oăm của báo
Tân Việt, lấy tích Dơng Tấn trong
truyện Phong thần có đủ bảy hai phép
hóa thân để chế diễu Phạm Quỳnh sáng
lập ra Hiến pháp tam giác, lấy chuyện
Lâu S Đức nhà Đờng khuyên ngời
em khi đi làm thái thú phải tốt nhịn để
dè bỉu bãi nớc bọt trên mặt ông tuần
phủ Nguyễn Doãn T, lấy giai thoại Th
công trong chuyện Trang Tử cho khỉ ăn
sáng ba chiều bốn để vạch mặt trò hề
mị dân của thống đốc Nam kì Pages
Cách sử dụng điển tích, điển cố, giai
thoại trong tiểu phẩm không hề cầu kì,
sách vở mà hết sức tự nhiên, có dụng ý

rõ ràng, làm nổi bật những sự việc mà
tác giả định nói, định viết. Hầu hết các
điển tích, điển cố, giai thoại đợc đặt
trong tơng quan chuyện xa chuyện
nay để ngời đọc tự rút ra kết luận, tạo
nên những liên tởng bất ngờ, gây hứng
thú cho ngời đọc. Chẳng hạn, trong
tiểu phẩm Ông thống sứ với trận ma
hôm nọ, Ngô Tất Tố lấy truyện Trịnh
Hoàng để đả kích tên thống sứ Bắc kì
Tholance. Trong truyện xa Trịnh
Hoàng là một ông quan mà lòng nhân
đức đã cảm động đến cả trời nên ông đi
đến đâu thì ma theo xe đến đó. Trái
lại, thống sứ Tholance khi còn ở Bắc kì
thì trời nắng hạn, khi hắn xuống tàu về
nớc thì trời đổ ma rào. Cũng là sự
ma nhng khác nhau. Với chuyện
ngày nay thì ma là để rửa sạch những
rác rởi, nhơ bẩn mà y đã làm ở Việt
Nam. Lối ví von qua điển tích thật là
thâm thúy.
Bên cạnh việc khai thác vốn cổ
Trung Hoa, Ngô Tất Tố cũng hết sức
quan tâm khai thác và vận dụng những
cách diễn đạt truyền thống của dân tộc.
Đây là một trong những nét đặc sắc
trong ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí Ngô
Tất Tố. Những cách diễn đạt truyền
thống mà chúng tôi quan niệm ở đây

bao gồm cả thành ngữ, tục ngữ, ca dao,
những lời nói có tính châm ngôn, những
áng thơ văn quen thuộc trong Truyện
Kiều, Chinh phụ ngâm nhng nổi bật
nhất ở tiểu phẩm Ngô Tất Tố là việc
vận dụng thành ngữ, tục ngữ dân gian.
Trong các tiểu phẩm của Ngô Tất
Tố, các thành ngữ, tục ngữ đợc sử
dụng khá phổ biến, linh hoạt, có các
dạng thức khác nhau hết sức sinh động
và sáng tạo. Có những trờng hợp ông
dùng nguyên vẹn các thành ngữ, tục
ngữ nh kẻ đón ngời đa, chen vai
thích cánh, run nh cầy sấy, giật gấu vá
vai, tiền mất tật mang, chân lấm tay
bùn, tan cửa nát nhà, bùn lầy nớc
đọng, mập mờ đánh lận con đen, dây cà
ra dây muống, con rồng cháu tiên, ăn
cây nào rào cây ấy, ăn quả nhớ kẻ trồng
cây Tuy giữ nguyên cách diễn đạt dân
gian nhng ông dùng chính xác cho
từng đối tợng, vấn đề, tạo đợc những
ngữ cảnh phù hợp có hàm ý sâu xa làm



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4b-2008


69

cho các thành ngữ, tục ngữ có sự cộng
hởng về ngữ nghĩa làm xuất hiện cái
mới, một yêu cầu cơ bản của ngôn ngữ
báo chí. Chẳng hạn, trong tiểu phẩm
Họ vẫn ăn vào cái xác chết, từ sự cố bà
lão ăn mày chết ở chợ, lí trởng đã sai
chân tay kéo xác vào các quán bán hàng
để đục khoét tiền của các chủ quán và
đây là tình cảnh của bác lái lợn: Thôi
đợc, cứ về, nhng phải câm nhé, nếu có
đứa nào nó biết thì tôi không thể nào
che chở cho anh đợc mà anh thì tiền
mất tật mang đấy [7, tr.252]. Qua cách
dùng thành ngữ tiền mất tật mang ta
thấy ở đây vừa có nghĩa đen vừa có
nghĩa bóng, có lời khuyên ra vẻ ban ơn
lẫn lời hăm dọa của kẻ quyền thế. Cái
hàm nghĩa tinh tế của thành ngữ đợc
nảy sinh trong ngữ cảnh bác lái lợn đã
phải trút hầu bao dâng cụ lí năm đồng
và đợc cụ hứa che chở.
Trong nhiều trờng hợp, Ngô Tất
Tố cải biến cấu trúc của các thành ngữ,
tục ngữ. Cải biến cấu trúc diễn đạt là
một nét độc đáo, một sự sáng tạo trong
việc khai thác và sử dụng cách diễn đạt
truyền thống. ở đây, cũng cần nói thêm,
thời thuộc Pháp, do chính sách kiểm
duyện gắt gao của của chính quyền thực
dân, đôi khi ông phải dùng lối viết bóng

gió quanh co nên có những thành ngữ,
tục ngữ phải hòa tan vào trong đoạn
văn. Chẳng hạn, thành ngữ trơ nh mặt
thớt đợc sử dụng trong đoạn văn sau
đây: Các ngài không ở thôn quê có lẽ
không hiểu nỗi khó khăn của sự đi
mợn. Đừng nói mợn mặt, mỗi khi có
việc ăn uống, dân quê muốn đi mợn
cái thớt thái thịt cũng phải mất công
xách đi xách về. Đằng này không đợi
chúng ta hỏi mợn, chính các ông ấy tự
mình đem mặt ra thay chúng ta há
chẳng phải là sự hào hiệp? Với sự hào
hiệp ấy, nếu không ai tỏ lời cảm ơn,
không khỏi có kẻ bảo chúng ta là ngời
rẻ của coi cái mặt ngời này không
bằng cái thớt ngời khác [7, tr.341].
Phải chăng, đây là sự thay đổi chiến
lợc, chiến thuật khéo léo để đấu tranh
hợp pháp lâu dài? ở hầu hết các trờng
hợp khác, ông cố ý cải biến cấu trúc
thành ngữ, tục ngữ để cho sự diễn đạt
phù hợp với nội dung tiểu phẩm, thể
hiện đúng điều mình cần nói, cần viết.
Có ba biện pháp cải biến cấu trúc. Thứ
nhất, ông dùng biện pháp đảo trật tự
yếu tố. Thông thờng, trật tự các yếu tố
trong thành ngữ, tục ngữ là cố định
nhng khi thay đổi vị trí của các yếu tố,
đặt ý này trớc ý kia là có sự cân nhắc,

thể hiện dụng ý của ngời viết. Đó là
các thành ngữ cao mũ dài áo, cơm no áo
ấm Trong câu Cuộc cách mệnh ấy đã
lan đến các cụ cao mũ dài áo [7, tr.154]
thì sự đảo trật tự yếu tố của thành ngữ
không thể là ngẫu nhiên, tùy tiện mà
thể hiện một thái độ châm biếm, hạ bệ
những ngời có bộ sắc phục ấy đang
làm ra vẻ hăng hái cách mạng cái áo
thụng để khỏi mang tiếng hủ bại. Biện
pháp thứ hai là thêm/bớt yếu tố. Biện
pháp này một mặt gây sự chú ý cho
ngời đọc, mặt khác gia tăng ngữ nghĩa
cho thành ngữ, tục ngữ. Có khá nhiều
trờng hợp ông sử dụng biện pháp
thêm/bớt yếu tố nh đánh bạc thì lúc đỏ
lúc đen, đỏ thì lên voi, đen thì xuống
chó; gắp lửa mà bỏ tay ngời ta; thế thì
những cuộc đi thề chỉ là những chuyện
cá trê chui ống Lại có trờng hợp, ông
dùng biện pháp bớt yếu tố của thành
ngữ. Chẳng hạn, một phần lớn hơn nữa
là những ông xuất thân trong ngạch
đầu chày coi làm nghị viên cũng nh
làm lí trởng, làm chánh tổng hay mua
bá hộ vậy [7, tr.216]. Thành ngữ đầu
chày đít thớt đợc sử dụng theo kiểu bớt
yếu tố làm cho ngời đọc nhận ra thái




Nguyễn Hoài Nguyên NGÔN NGữ TIểU PHẩM BáO CHí , TR. 65-72


70
độ khinh bỉ của tác giả đối với những
nghị viên dân biểu chỉ là hạng chạy
chọt, mua bán mà có. Biện pháp thứ ba
là thay thế yếu tố trong cấu trúc thành
ngữ. Ngô Tất Tố dùng biện pháp này
nhằm tăng thêm tính sự kiện cho các
tiểu phẩm báo chí của mình. Đó là các
thành ngữ chớng tai nghịch mắt, hàng
rau hàng cá, đầu đi đuôi lọt Cũng có
những trờng hợp Ngô Tất Tố cải biến
hình thức diễn đạt dân gian hết sức độc
đáo, sáng tạo, đó là mạnh dạn cải biến
toàn bộ cấu trúc thành ngữ. Đó là các
trờng hợp chuôi chẳng khi nào lại
ngắn hơn gáo, thằng còng làm cha
chắc đã đủ cho thằng ngay ăn, tai ếch
hay là đầu cua Thành ngữ đầu cua
tai nheo có nghĩa là mọi chi tiết, mọi
chuyện ngóc ngách sâu kín của sự việc,
câu chuyện. Khi sử dụng thành ngữ
này, ông đã thay đổi yếu tố nheo (cá
nheo) bằng yếu tố ếch, thêm vào yếu tố
hay là biến đổi quan hệ giữa các yếu tố
trong thành ngữ trong trờng hợp: Cố
nhiên họ không thèm biết chủ nghĩa xã

hội là tai ếch hay đầu cua [7, tr.258].
Qua cách sử dụng thành ngữ, ta thấy
nghĩa gốc của thành ngữ gần nh đợc
giữ nguyên còn đợc chồng lên một tầng
nghĩa mới, gia tăng sắc thái biểu cảm.
Những ngời đợc nói đến ở đây là
những ngời làm ở báo Tân Việt Nam
xin vào đảng xã hội làm thang để trèo
lên ghế nghị viên của viện dân biểu.
Đây chỉ là những lũ cơ hội chính trị, lộ
rõ bản chất dối trá, lờng gạt. Cách sử
dụng thành ngữ của Ngô Tất Tố làm
tăng thêm tính sự kiện cho báo chí;
thông qua sự liên tởng của ngời đọc
mà lợng thông tin báo chí gia tăng.
Nh vậy, qua cách dùng thành ngữ, tục
ngữ, Ngô Tất Tố đã làm cho các hình
thức diễn đạt dân gian trở nên tinh tế
hơn, chính xác hơn, hiện đại hơn.
2.3. Khai thác triệt để đặc điểm của
tiếng Việt
Là nhà nho có vốn hiểu biết sâu
rộng, Ngô Tất Tố có cảm thức sâu sắc
và nhạy bén về các đặc điểm của tiếng
Việt, khai thác và sử dụng chúng khá
thành công trong các tiểu phẩm báo chí,
tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt đối với
ngời đọc. Trớc hết, Ngô Tất Tố dựa
vào tính phân tiết của tiếng Việt để
thực hiện những hình thức tách ghép từ

khiến cho cách dùng từ trong tiểu phẩm
bộc lộ những hàm nghĩa hết sức tinh tế.
Chẳng hạn, nhân sự kiện báo Tổ quốc
Việt Nam đăng tin ông Hoàng Trọng
Phu từ chức tổng đốc Hà Đông nhng
sau lại đợc giữ lại thêm một thời gian
nữa, Ngô Tất Tố viết: Nếu không, nếu
tỉnh Hà Đông bị thiếu một ông tổng đốc
thì tổ quốc có khi sẽ thành tổ cò [7,
tr.170]. Cái tổ quốc ở đây là của tờ báo
Tổ quốc Việt Nam và một ông tổng đốc
Hà Đông từ chức thì cái nhà sẽ thiếu
một cột tức là tổ quốc (của tờ báo Tổ
quốc Việt Nam) sẽ đổ thì quốc dân sẽ ở
vào đâu? Cách tách ghép từ tổ quốc
thành tổ cò tạo nên một tiếng cời hài
hớc nhẹ nhàng, dí dỏm.
Lại có những trờng hợp, Ngô Tất
Tố khai thác các bộ phận trong cấu trúc
âm tiết nh thanh điệu, phần vần để
tạo nên những kết hợp âm thanh nhằm
cung cấp những nét nghĩa mới, những
lợng thông tin mới. Chẳng hạn, phê
phán chủ trơng Pháp Việt đề huề, Ngô
Tất Tố viết: Cái lí thuyết ấy thì rất hay,
nhng có một điều rất khó là khi ngẫm
xem thân thế của hai bên nh một kẻ
nằm trên giờng, một ngời nằm dới
đất, một kẻ ăn thịt, một ngời gặm
xơng thì cái tinh thần thân ái còn lâu

mới thắm thiết đợc.

y, hiệp tác sinh
ra hiếp tác cũng vì thế [7, tr.345]. Cách
dùng từ hiệp tác và hiếp tác trong câu



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4b-2008


71
văn trên làm cho ngời đọc phải suy
nghĩ để nhận ra bản chất vấn đề mà tác
giả đang nói đến. Đằng sau cặp từ hiệp
tác hay hiếp tác là một thủ đoạn lừa
bịp, một trò hề, một hài kịch. Có khi,
tiếp thu truyền thống nói có vần có nhịp
của ngời Việt, Ngô Tất Tố viết những
câu văn hết sức uyển chuyển, giàu nhạc
điệu. Chẳng hạn, trớc cái thảm trạng
bị đè nén áp bức của bọn hào lí, những
ngời lao động cũng phải cảnh giác:
Anh em mình/quyền rơm vạ đá/ăn
chẳng có/mà tội gì/để khó đến thân [7,
tr.206]. Hoặc khi nói về tình cảnh đói
khách của mấy cô đào: Nếu tối đó/mà vô
ý/nhìn vào một cái nhà nào/thì ngài sẽ
bị vồ/nh cái mồi ngon/của con cọp đói
[7, tr.284]. Nhiều trờng hợp, ông khai

thác hiện tợng đồng âm trong tiếng
Việt để gia tăng lợng thông tin cho câu
văn, gây hứng thú cho ngời đọc. Có thể
kể một số trờng hợp nh Tiên sinh
Thông Reo, ông bạn đồng nghiệp với
mình hàng ngày vẫn reo ở báo Trung
Lập [7, tr.111], hay Thanh Hóa là một
tỉnh hiền lành nhất ở Trung Bắc kì,
trong khi phong trào chính trị đùng
đùng nổi lên khắp xứ, tỉnh ấy vẫn thái
bình hơn tỉnh Thái Bình, không xẩy ra
chuyện gì rắc rối [7, tr.229]. Đặc biệt,
Ngô Tất Tố rất dụng công khi khai thác
hiện tợng đồng âm trong câu Phạm
tiên sinh là một nhà dở học giả, dở
chính trị [7, tr.109]. Ta nhận ra kiểu
chơi chữ đồng âm, giả trong học giả là
kẻ, là ngời (ngời có kiến thức sâu
rộng) và giả là không phải thật mà là
đợc làm ra với vẻ bề ngoài giống nh
thật vì nó gần âm gần nghĩa với từ dở
đợc dùng trong kết hợp dở học giả, dở
chính trị. Qua cách dùng từ đồng âm,
Ngô Tất Tố đã cho ngời đọc thấy đợc
con ngời thực của Phạm Quỳnh là cơ
hội, a dua với thời cuộc. Cách châm
biếm của Ngô Tất Tố quả là thâm thúy,
sâu cay nhng cũng rất hóm hỉnh, kín
đáo.
Có trờng hợp, Ngô Tất Tố khai

thác có hiệu quả đặc tính trật tự từ
trong tiếng Việt. Trong tiếng Việt, trật
tự các yếu tố trong từ, các thành phần
trong câu là hết sức quan trọng vì nó
làm thay đổi ý nghĩa và cấu trúc của
các đơn vị trong tiếng Việt. Phê phán
ông Phạm Huy Lục tìm cách chui vào
viện dân biểu vì nếu không làm dân
biểu thì ông ấy thành ra vô nghề
nghiệp, Ngô Tất Tố viết: Cái đất nghìn
năm văn vật bây giờ đã thành ra đất
điêu bạc vô lễ, dám biết tày một ông
viện trởng đã trởng viện đến hai khóa
liền [7, tr.280]. Cách đảo trật tự từ viện
trởng và trởng viện, trong đó, một từ
chỉ chức vụ (danh từ), một từ dùng với
nghĩa làm trởng cái viện (động từ) là
để làm nổi bật bản chất hèn hạ, tham
quyền cố vị của ông Phạm Huy Lục.
Tóm lại, ta có thể nhận thấy sức
hấp dẫn của tiểu phẩm báo chí Ngô Tất
Tố là ở ngôn từ và ma lực của nó. Ngôn
ngữ tiểu phẩm của ông có chiều sâu văn
hóa cổ kim. Trong nhiều trờng hợp,
ngôn ngữ không chỉ nhằm biểu đạt ý
tởng mà còn tham gia trực tiếp kiến
trúc nội dung tác phẩm.
3. Kết luận
Từ những điều đã trình bày trên,
chúng tôi nhận thấy ngôn ngữ tiểu

phẩm báo chí của Ngô Tất Tố vừa có cái
sắc sảo, uyên thâm của một nhà nho
đợc đào tạo nơi cửa Khổng sân Trình
nhng cũng có cái đậm đà hơng vị dân
tộc. Là một nhà Hán học uyên thâm, dĩ
nhiên, Ngô Tất Tố nổ lực phát huy
những u thế từ vốn Hán học nhng
mặt khác, ông đã dũng cảm thoát khỏi
những hạn chế của thế hệ mình để tiến



Nguyễn Hoài Nguyên NGÔN NGữ TIểU PHẩM BáO CHí , TR. 65-72


72
kịp thời đại. Ông đã chứng kiến cảnh
tàn tạ của nền Hán học và vị thế của
các nhà nho trong buổi giao thời và có
cái nhìn tỉnh táo trong chuyển động
giao thoa cũ - mới, tối - sáng. Tuy cha
phải là ngời cách mạng nhng vốn là
nhà nho cơng trực, khinh ghét sự giả
dối, ti tiện, là ngời quan tâm đến thời
thế, vận mệnh dân tộc và số phận của
những ngời lao động nghèo khổ nên
ông đã dùng ngòi bút đấu tranh đến
cùng chống lại xã hội thực dân phong
kiến chà đạp lên quyền sống con ngời.
Chính vì lẽ đó, qua các tiểu phẩm báo

chí, Ngô Tất Tố đã phác thảo một số
chân dung theo kiểu biểm họa bằng một
ngôn ngữ có sự kết hợp giữa cái thâm
thúy sắc sảo của một nhà nho kiến thức
uyên thâm với cái vui tơi, hồn hậu, lạc
quan, khỏe khoắn của một ngời am
hiểu sâu sắc ngôn ngữ và văn hóa dân
tộc. Ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí của
Ngô Tất Tố hết sức độc đáo, đa dạng,
linh hoạt: từ ngữ và cách diễn đạt vừa
có tính chất bác học vừa mang màu sắc
bình dân; câu văn, giọng văn vừa trang
trọng nhng cũng rất mới, rất sắc sảo,
mang hơi thở cuộc sống hiện đại. Ngô
Tất Tố thực sự là một tài năng đa dạng,
độc đáo.

Tài liệu tham khảo

[1] Nguyễn Đức Bính, Ngô Tất Tố nh tôi đã biết, Tạp chí Văn nghệ, 1962, số 62.
[2] Phan Cự Đệ, Ngô Tất Tố sống mãi trong lòng cách mạng, Lời giới thiệu Toàn tập
Ngô Tất Tố, NXB Văn học, H. 1996.
[3] Hà Minh Đức, Tiểu phẩm văn học và tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố, Tạp chí
Văn học, 1998, số 11.
[4] Lê Thị Đức Hạnh, Đặc sắc trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, Tạp chí Văn học,
1983, số 6.
[5] Nguyễn Văn Khang, Từ ngoại lai trong tiếng Việt, NXB Giáo dục, H. 2007.
[6] Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố, báo Thời vụ, số 100, ngày 31/1/1939.
[7] Ngô Tất Tố toàn tập, tập 1, NXB Văn học, H. 1996.
[8] Hoàng Tuệ, Học tập văn phong Hồ Chủ tịch, trong cuốn Hồ Chí Minh tác giả, tác

phẩm, nghệ thuật ngôn từ, NXB Giáo dục, H. 2003.

SUMMARY

Ngo Tat To press article language
Ngo Tat To press articles are variant in method. Their content and style arent
repeated and reirative. So they always ewoke in readers interest and influence. At
the same time, his language in the articles is not only profound and erudite, but also
very deep in the side of academic style. It has intensity and respiration of
Vietnamese nation and of the times. The paper, in a definite set level, proves special
aspects in Ngo Tat To press article language.

(a)
Khoa Ngữ văn, Trờng đại học Vinh.

×