Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học " NĂNG LỰC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.64 KB, 19 trang )



5

NĂNG LỰC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC HỢP TÁC XÃ
NÔNG NGHIỆP Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ
Lê Thị Kim Liên, Nguyễn Khắc Hoàn
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nông nghiệp là ngành sản xuất đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền
kinh tế Việt Nam. Trong những năm gần đây sản xuất nông nghiệp đã đạt được
những thành tựu đáng khích lệ. Sản lượng lương thực tăng nhanh không chỉ đủ
ăn trong nước mà còn xuất khẩu. Sản phẩm các loại cây công nghiệp cũng tăng
lên đáng kể. Mặt hàng thủy sản, chăn nuôi các loại cũng đang chiếm tỷ trọng lớn
trong nông sản xuất khẩu của cả nước. Những thành tựu đó là kết quả nỗ lực của
ngành nông nghiệp mà trực tiếp là các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp
trên cả nước trong đó hợp tác xã nông nghiệp đóng một vai trò hết sức quan
trọng.
Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) là tổ chức kinh tế tập thể do nông dân tự
nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự hướng dẫn giúp đỡ của nhà nước,
hoạt động theo nguyên tắc tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sản xuất
kinh doanh, có tư cách pháp nhân, bình đẳng trước pháp luật, có trách nhiệm phát
huy tính ưu việt của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, hợp tác xã nông nghiệp đã và đang tồn tại
một cách khách quan trong nền nông nghiệp Việt Nam. Qua quá trình hình thành


6

và phát triển lâu dài với nhiều thăng trầm, hợp tác xã nông nghiệp vẫn tỏ ra là


một hình thức làm ăn tập thể có vai trò quan trọng trong nông nghiệp. Hợp tác xã
nông nghiệp đóng vai trò lớn trong việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất
trong nông nghiệp, là nơi nương tựa quan trọng của người nông dân, và là nơi tạo
ra nhiều nông sản cho xã hội.
Để phát huy vai trò quan trọng của kinh tế hợp tác, tạo cơ sở pháp lý cho
việc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, năm 1996 Luật hợp tác xã đã ra đời đánh dấu sự thay đổi rất lớn về
phương thức hoạt động hợp tác xã.
Trong quá trình chuyển đổi, các HTXNN đã tổ chức lại bộ máy quản lý gọn
nhẹ, phù hợp với yêu cầu hoạt động dịch vụ, tạo lập tư cách pháp nhân để tiến
hành sản xuất kinh doanh. Hầu hết các hợp tác xã (HTX) đã xây dựng phương án
sản xuất, kinh doanh nhằm đa dạng hóa phương thức hoạt động để phù hợp với
điều kiện cơ sở hạ tầng như hệ thống thủy nông, máy móc hoạt động, lao động,
vốn hiện có. Cho đến hiện nay mặc dù tỷ trọng kinh tế HTX còn bé, và không
còn giữ vai trò trực tiếp tổ chức và điều hành sản xuất tập trung mà chuyển sang
chức năng làm dịch vụ, nhưng bước đầu HTXNN đã phát huy vai trò “hậu cần”
hỗ trợ cho phát triển kinh tế hộ. Thực tế nơi nào HTXNN phát triển, ở đó các
dịch vụ làm đất, tưới tiêu, bảo vệ thực vật, giống cây trồng vật nuôi, cung ứng
vật tư và đặc biệt là ứng dụng khoa học kỹ thuật được thực hiện có tổ chức, đồng
bộ thông qua sự điều hành, quản lý của HTX và phát huy được hiệu quả tối đa
cho kinh tế hộ. Ngược lại những nơi không có HTX đứng ra tổ chức các loại hình
dịch vụ đó dẫn đến chi phí dịch vụ cao, tác dụng sinh học bị hạn chế, năng suất
cây trồng vật nuôi không tăng.


7

Nhiều HTXNN đóng vai trò tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, góp sức xây dựng kết cấu

hạ tầng nông thôn, góp phần cũng cố quan hệ kinh tế nông thôn.
Năng lực kinh doanh của HTX là điều kiện quan trọng tạo nên sức mạnh
của hợp tác xã, nó bao gồm các yếu tố về vốn đầu tư, lao động, phương tiện, máy
móc thiết bị, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý Năng lực kinh doanh của
hợp tác xã là tiền đề để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các HTX.
Nhìn chung một trong những khó khăn lớn hiện nay của các HTX là thiếu vốn,
thiếu cán bộ có năng lực, kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường. Việc
nghiên cứu khảo sát các yếu tố cấu thành năng lực kinh doanh của hợp tác xã từ
đó đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những khó khăn, bất cập về năng lực sản xuất
kinh doanh của các hợp tác xã hiện nay là việc làm cần thiết nhằm đề xuất những
giải pháp chính sách để nâng cao năng lực kinh doanh của các hợp tác xã nông
nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Khảo sát đánh giá các HTXNN ở khu vực BắcTrung bộ gồm 5 tỉnh là
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà tĩnh, Quảng bình và Thừa Thiên Huế. Số liệu thứ cấp
dựa vào các niên giám thống kê, các báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển
nông thôn của các tỉnh Bắc Trung bộ, kết quả tổng điều tra nông thôn, nông
nghiệp và thủy sản cuả cả nước. Ngoài ra chúng tôi tiến hành điều tra phỏng vấn
một số chủ nhiệm hợp tác xã trên địa bàn các tỉnh để bổ sung mở rộng các thông
tin định lượng đã được khảo cứu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Các yếu tố cơ bản của sản xuất trong HTXNN


8

3.1.1. Lao động của các HTXNN
Lực lượng lao động là yếu tố năng động và có vai trò rất quan trọng trong
hoạt động kinh danh và dịch vụ của các HTX trong điều kiện chuyển đổi hiện
nay của các HTXNN. Lao động mà chúng tôi nghiên cứu ở đây là những lao

động tham gia các khâu hoạt động dịch vụ và hoạt động kinh doanh của HTX.
Lực lượng lao động tính bình quân một HTX được thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1: Lao động bình quân của HTXNN
Đơn vị tính: lao động
Địa bàn Lao động
BQ
LĐ nông
nghiệp
LĐ lâm
nghiệp
LĐ thủy
sản
LĐ khác
Cả nước 29,76 26,30 0,09 0,10 3,26
Bắc Trung bộ 27,27 24,35 0,07 0,23 2,26
Thanh Hóa 50,04 45,57 0,10 0,86 3,51
Nghệ An 25,94 21,57 0,02 0,01 4,34
Hà Tĩnh 21,97 20,95 0,02 0,02 0,98


9

Quảng Bình 17,40 16,69 0,02 0,03 0,66
Thừa Thiên
Huế
15,07 12,14 0,09 - 2,84
Nguồn: Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản
Nhìn chung lao động trong các HTXNN không cao, trong đó thấp nhất là ở
tỉnh Thừa Thiên Huế trung bình chỉ có 15,07 lao động/HTX và cao nhất là ở tỉnh
Thanh Hóa trung bình là 50,04 lao động/HTX. Với lượng lực lao động như hiện

nay là chưa phát huy được những lợi thế, tiềm năng và sức mạnh của kinh tế tập
thể cũng như nỗ lực của HTX trong tổ chức nhiều các hoạt động kinh doanh và
dịch vụ cho các hộ gia đình xã viên. Mặt khác lao động chủ yếu vẫn tập trung
vào lĩnh vực sản xuất sản phẩm nông sản với hai ngành chính là trồng trọt và
chăn nuôi. Lao động ở các ngành nghề khác như thủy sản và lâm nghiệp chỉ có ở
một số lượng lao động rất ít. Tình hình trên cũng phản ánh một thực trạng cơ cấu
sản xuất, kinh doanh của các HTX rất nghèo nàn, chủ yếu vẫn là sản xuất nông
nghiệp, trong đó các HTX vẫn lấy hoạt động dịch vụ các khâu cho các hộ gia
đình xã viên làm nông nghiệp là chủ yếu. Các loại ngành nghề kinh doanh hầu
như chưa được nhiều các HTX mạnh dạn đầu tư.
3.1.2.Các loại máy móc thiết bị chủ yếu:
Máy móc thiết bị là những tư liệu sản xuất hết sức quan trọng thể hiện
trình độ cơ giới hóa và khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất nông nghiệp của các HTXNN. Qui mô và loại hình các loại máy móc thiết
bị phản ánh trình độ đầu tư, khả năng vốn liếng và khả năng điều hành hoạt động


10
sản xuất kinh doanh của bộ máy quan lý HTX. Máy móc thiết bị chính là yếu tố
có tính chất quyết định đến việc tăng năng suất lao động trong nông nghiệp. Các
loại máy móc thiết bị chủ yếu của các HTXNN được trình bày ở bảng 2.



11
Bảng 2: Các loại máy móc thiết bị chủ yếu
Đơn vị tính: cáí
Trong đó Địa
bàn


Loại máy móc
thiết bị

Cả
nước

Bắc
Trung
Bộ
Thanh
Hóa
Nghệ
An

Tĩnh
Quảng
Bình
Thừa
Thiên
Huế
1. Máy cày và máy
kéo lớn
543 128 8 21 27 1 61
2. Máy cày và máy
kéo nhỏ
828 139 20 11 7 24 77
3.Ô tô chở khách 17 4 1 1 - - 2
4.Ô tô vận tải 60 8 2 5 0 0 1
5.Xe Công nông 276 71 0 26 19 2 24
6. Động cơ điện 2517 588 54 301 12 68 106



12
7. Máy phát điện 255 65 8 14 6 4 10
8. Bình phun thuốc
trừ sâu
745 173 27 132 6 6 0
9. Máy bơm nước 15.517

4.022 255 2.643 227 229 494
Nguồn: Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản
Trang thiết bị máy móc của các hợp tác xã nông nghiệp nhìn chung vẫn
còn nghèo nàn chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của sản xuất nông nghiệp. Đặc
biệt máy sử dụng cho các dịch vụ quan trọng của HTX như làm đất, cung cấp
điện, bơm nước, hiện nay vẫn còn rất hạn chế.
3.1.2. Vốn kinh doanh của các HTXNN:
Vốn là một yếu tố rất quan trọng có ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả
hoạt động kinh doanh của các HTXNN. Thực trạng khảo sát cho thấy vốn trong
các HTX hiện nay đang là vấn đề bức xúc, thiếu vốn cho các hoạt động kinh
doanh đang là tình trạng phổ biến trong các HTX
Bảng 3. Tình hình vốn kinh doanh của các hợp tác xã
Đơn vị tính: triệu đồng
Trong đó


13
Địa
bàn

Chỉ tiêu

Cả
nước
Bắc
Trung
Bộ
Thanh
Hoá
Nghệ
An

Tĩnh
Quảng
Bình
Thừa
Thiên
Huế
Tổng số vốn 461,8

674,1

702,6

689,2

645,7

709,3

623,9


1. Phân theo đặc
điểm vốn







- Vốn cố định 426,0

420,2

456,2

432,8

449,9

412,8

439,4

- Vốn lưu động 215,8

253,9

246,4

256,4


195,8

296,5

274,5

2. Phân theo nguồn







- Vốn chủ sở hữu 145,4

289,5

356,2

324,7

267,8

352,1

323,5

- Nợ phải trả 496,4


384,5

346,4

364,5

377,9

357,2

300,4

Nguồn: Số liệu điều tra 2003
Đối với HTX cũ chuyển sang, giá trị tài sản được quy thành vốn cổ phần
mới cho xã viên. Giá trị của TSCĐ chiếm phần lớn trong tổng số tài sản (chiếm


14
66,38%), TSCĐ này đã gần hư hỏng hoặc kém hiệu quả. TSLĐ hiện nay rất hạn
chế tập trung chủ yếu vào nợ tồn đọng, khả năng thu hồi có nhiều khó khăn.
3.2. Năng lực quản lý của các hợp tác xã:
3.1.2.Chủ nhiệm HTXNN phân theo giới tính, trình độ văn hóa và
chuyên môn:
Bảng 4: Chủ nhiệm HTXNN phân theo giới tính, trình độ văn hóa và chuyên môn
Đơn vị tính: người
Trình độ văn hóa Trình độ chuyên môn
Địa bàn

Tổng

số

Nữ
Cấp
I
Cấp
II
Cấp III

SC
CNKT

CĐ,
TC
ĐH
Cả nước 7.171 165 189 2.912

4.070 2.326 2.234 556
Bắc Trung bộ

1.388 13 15 475 898 437 550 106
Thanh Hóa 363 10 1 135 227 99 188 14
Nghệ An 349 3 1 78 270 93 129 71


15
Hà Tĩnh 135 3 55 77 56 35 1
Quảng Bình 131 1 41 89 58 47 8
Thừa Thiên
Huế

152 3 60 89 63 49 6
Nguồn: Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản
Hiện nay số nữ làm chủ nhiệm HTX còn rất ít chỉ chiếm 2,3% trong tổng số
chủ nhiệm HTX của cả nước, đặc biệt 3 tình Hà Tĩnh, Quảng Bình và Thừa
Thiên Huế không có chủ nhiệm HTX là nữ. Về trình độ văn hóa hầu hết các chủ
nhiệm đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở, cả nước chiếm 56,8% ở vùng Bắc Trung
bộ chiếm 64,7% . Về trình độ chuyên môn nhiều nhất là chủ nhiệm HTX đã tốt
nghiệp Cao đẳng hoặc Trung cấp, bên cạnh đó nhiều HTX đã có chủ nhiệm đã tốt
nghiệp Đại học, tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn rất ít và đây cũng là một hạn chế
trong quá trình phát triển HTX.
3.1.2.Trưởng ban kiểm soát phân theo giới tính, trình độ văn hóa và
chuyên môn:
Bảng 5: Trưởng ban Kiểm soát phân theo giới tính, trình độ văn hóa và chuyên
môn
Đơn vị tính: người


16
Trình độ văn hóa Trình độ chuyên môn
Địa bàn

Tổng
số

Nữ
Cấp I

Cấp
II
Cấp

III
SC
CNKT

CĐ,
TC
ĐH
Cả nước 6.978 224 340 3.913

2.725

2.361 1.344

110
Bắc Trung bộ

1.310 21 26 679 605 465 301 18
Thanh Hóa 320 12 2 157 161 98 106 2
Nghệ An 320 5 2 141 177 118 70 9
Hà Tĩnh 135 2 2 84 49 60 18 2
Quảng Bình 131 1 1 70 60 66 34 -
Thừa Thiên
Huế
149 8 73 68 56 24 2
Nguồn: Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản
Trưởng Ban Kiểm soát là cán bộ nữ còn quá ít với 3,2 % trong toàn quốc
và ở một số tỉnh với tỷ lệ thấp hoặc không có. Về trình độ văn hóa chỉ còn một số


17

ít cán bộ mới học hết cấp một còn lại đã tốt nghiệp cấp hai và ba. Trình độ
chuyên môn tỷ lệ nhiều nhất là trình độ Sơ cấp, tuy đã có cán bộ có trình độ đại
học song còn quá ít.
3.2.1.Kế toán trưởng phân theo giới tính, trình độ văn hóa và chuyên
môn:
Kế toán trưởng là nữ có tỷ lệ cao hơn chủ nhiệm và trưởng ban kiểm soát.
Đa số kế toán trưởng đã tốt nghiệp cấp ba. Đại bộ phận các kế toán trưởng đã tốt
nghiệp Sơ cấp hoặc trung cấp. Số kế toán trưởng có trình độ Đại học trong cả
nước là 3,2%, trong khi đó vùng Bắc Trung bộ còn quá ít chỉ 1,4 % thậm chí ở
Quảng Bình và Thừa Thiên Huế không có kế toán trưởng nào có trình độ Đại
học.
Bảng 6: Kế toán trưởng phân theo giới tính, trình độ văn hóa và chuyên môn
Đơn vị tính: người
Trình độ văn hóa Trình độ chuyên môn


Địa bàn

Tổng
số

Nữ
Cấp I

Cấp
II
Cấp III

SC
CNKT


CĐ,
TC
ĐH
Cả nước 7.108 1.447

109 2.315

4.684 2.581 2.643

231
Bắc Trung bộ

1.382 255 10 418 954 584 556 19


18
Thanh Hóa 362 105 3 106 253 113 195 7
Nghệ An 348 74 2 87 259 151 131 9
Hà Tĩnh 135 8 1 48 86 68 37 2
Quảng Bình 131 40 2 43 86 64 62 -
Thừa Thiên
Huế
150 11 1 47 102 73 57 -
Nguồn: Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản
3.2.Tình hình các HTX NN phân theo loại hình dịch vụ
Luật Hợp tác xã ra đời đã đánh dấu một dấu ấn quan trọng trong quá trình
đổi mới phương thức hoạt động của HTX. Hầu hết các HTX được thành lập
trước đây đã chuyển sang tổ chức trung gian làm dịch vụ cho các hộ gia đình xã
viên. Bên cạnh đó nhiều địa phương đã thành lập thêm nhiều HTX mới như

Thanh Hóa tăng thêm 131 HTXNN, Nghệ An 30 HTX và Thừa Thiên Huế 5
HTX.
Bảng 7: Số lượng HTX phân theo loại hình dịch vụ
Đơn vị tính: HTX


19
Địa bàn
Tổng
số
Làm
đất
Giống
cây
trồng
Thủy
nông
Bảo vệ
thực
vật
Tiêu
thụ sản
phẩm
Cung
ứng vật

Cả nước 8.105 1.627 4.669 6.841 4.630 673 3.935
Bắc Trung bộ 1.638 290 1.270 1.518 1.305 114 1.023
1.Thanh Hóa 548 45 421 496 399 53 305
2.Nghệ An 381 8 321 348 321 22 278

3.Hà Tĩnh 140 4 104 135 115 6 71
4.Quảng Bình 134 62 112 131 97 4 60
5 Thừa Thiên
Huế
157 100 106 140 141 10 118
Nguồn: Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản
Sau khi chuyển đổi các HTXNN không trực tiếp sản xuất mà chuyển sang
các hoạt động dịch vụ cho các hộ gia đình xã viên. Đặc biệt trong giai đoạn này ở
vùng Bắc Trung bộ không chỉ những HTX cũ chuyển loại hình hoạt động mà
còn thành lập thêm một số HTX mới. HTX đã làm dịch vụ những khâu chủ yếu


20
như làm đất, cung ứng vật tư, giống cây trồng, thủy nông, bảo vệ thực vật và tiêu
thụ sản phẩm. Cho đến nay các hoạt động kinh doanh dịch vụ của các HTX vẫn
đang được các hộ nông dân tin cậy và hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTX
vẫn đang mang lại hiệu quả nhất định.
3.2. Một số giải pháp nâng cao năng lực kinh doanh của các hợp tác
xã nông nghiệp:
1. Tổ chức qui hoạch cụ thể về đất đai, các vùng và tiểu vùng sản xuất nông
nghiệp theo hướng tăng khả năng sản xuất hàng hóa, gắn qui hoạch sản xuất với
qui hoạch thủy lợi và hệ thống đường nội bộ.
2. Ngoài các hoạt động dịch vụ cho các hộ xã viên, hợp tác xã cần tổ chức
các hoạt động kinh doanh một số loại ngành nghề phù hợp với điều kiện của hợp
tác xã nhằm tận dụng có hiệu quả các nguồn lực tại địa phương.
3. Tổ chức sắp xếp lại bộ máy quản lý hợp tác xã bảo đảm tính năng động
hơn trong hoạt động kinh doanh theo kinh tế thị trường.
4. Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý, năng lực kinh
doanh cho các cán bộ hợp tác xã, trong đó đặc biệt chú ý đến kiến thức về thị
trường, marketing nông nghiệp.

5. Phân định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ giữa hợp tác xã và uỷ ban
nhân dân xã.
6. Nâng cao mức thù lao cho cán bộ quản lý hợp tác xã để họ thực sự
chuyên tâm với công việc tập thể, mặt khác cần nghiên cứu về thời gian một
nhiệm kỳ chủ nhiệm và số nhiệm kỳ tối đa có thể cho mỗi chức danh cán bộ theo
hướng tăng tính ổn định để đạt được mục tiêu lâu dài của hợp tác xã.


21
KẾT LUẬN
Trong những năm qua các HTXNN đã chuyển đổi phương hướng sản xuất
kinh doanh, tinh giản bộ máy quản lý phù hợp với yêu cầu hoạt động dịch vụ, và
ngày càng khẳng định vai trò vị trí của mình trong quá trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn trong điều kiện kinh tế thị trường. Hầu hết các HTXNN kiểu
mới đã xác định hướng kinh doanh, không chỉ tập trung vào các dịch vụ có tính
chất công cộng mà còn chú trọng vào đa dạng hóa loại hình kinh doanh với giá
cả hợp lý. Hiệu quả kinh doanh của nhiều hợp tác xã đã có những biến đổi rõ rệt,
nhiều HTX đã làm ăn có lãi, bình quân lãi của một hợp tác xã là 29,75 triệu đồng
từ các hoạt động dịch vụ. Nhiều HTX không chỉ dịch vụ trong lĩnh vực nông
nghiệp mà sang cả phi nông nghiệp và các địa phương khác. Tuy vậy kinh tế
HTX vẫn còn nhiều điều bất cập như: nhiều HTX chuyển biến còn chậm, chưa
xây dựng được phương hướng kinh doanh có hiệu quả, qui mô kinh doanh của
HTX còn quá nhỏ, công nghệ lạc hậu, lao động ít, phổ biến là lao động phổ
thông, phương tiện sản xuất ít về số lượng, kém về chất lượng. Năng lực tài
chính của các HTXNN còn quá yếu và thiếu vốn cho hoạt động kinh doanh. Đội
ngũ cán bộ vừa thiếu lại vừa yếu về trình độ kinh doanh dịch vụ trong cơ chế thị
trường. Nguyên nhân do các ngành các địa phương chưa làm tốt công tác chuẩn
bị trước khi thành lập HTX mới hoặc chuyển đổi HTX theo luật. Nhà nước cần
có kế hoạch đầu tư hỗ trợ HTX đào tạo và đào tạo lại, bỗi dưỡng đội ngũ cán bộ
chủ chốt của HTX để có khả năng điều hành sản xuất, kinh doanh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tổng cục thống kê. Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và
thủy sản, NXB thống kê. Hà Nội (2003).


22
2. Trịnh Thị Thanh Hương. Luật Hợp tác xã năm 2003, NXB Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh (2004)
3. Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ. Kinh tế Hợp tác trong
nông nghiệp ở nước ta hiện nay, NXB chính trị quốc gia (2003)
4. Niên giám thống kê và các báo cáo tổng kết về nông nghiệp và nông
thôn của các tỉnh Bắc Trung Bộ trong các năm 2002, 2003 và 2004.
TÓM TẮT
Trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn, HTXNN đã
và đang đóng một vai trò rất quan trọng. Sau khi chuyển đổi theo Luật hợp tác
xã (1996), các HTXNN đã tổ chức lại bộ máy quản lý, xây dựng phương hướng
sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa phương thức hoạt động, phù hợp với yêu cầu
hoạt động dịch vụ, tạo lập tư cách pháp nhân để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều HTXNN đã được cải thiện.Tuy nhiên
năng lực kinh doanh của các HTX nói chung còn yếu và thiếu cả về số lượng và
chất lượng trong đó trình độ, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ rất hạn chế.
Nâng cao năng lực kinh doanh cho các HTXNN là điều kiện tiền đề để các HTX
phát huy vai trò của kinh tế tập thể và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,
tăng khả năng cạnh tranh trong kinh tế thị trường.

BUSINESS CAPACITY OF THE AGRICULTURAL COOPERATIVES
IN NORTHERN PROVINCES OF CENTRAL VIETNAM
Le Thi Kim Lien, Nguyen Khac Hoan



23
College of Economics, Hue University
SUMMARY
Agricultural cooperatives play a very important role in the development of
agricultural economy and rural areas. Since the introduction of the Law on
Cooperatives in 1996, many cooperatives have reorganized their management
machine, defined their business orientation, diversified their functions to meet
the requirement of service producing activities for farmers, and established their
legal status as a premise for their business. However, the business doing
capacity of the cooperatives in general is weak and inefficient and their
management skills is very critical. Increasing the business doing capacity of
agricultural cooperatives is a precondition for higher efficiency and stronger
competition in the market economy.

×