Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Nét đẹp trong văn hoá truyền thống Nhật Bản" pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.63 KB, 10 trang )




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007



71
Nét đẹp trong văn hoá truyền thống nhật bản

Phan Hoàng Minh
(a)


Tóm tắt. Sự thần kỳ kinh tế cùng với những thành tựu to lớn trong các lĩnh vực
văn hoá, xã hội của Nhật Bản hiện đại đã thu hút sự chú ý và quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới. Ngày nay, Việt Nam và Nhật Bản đang xây dựng mối quan hệ
hợp tác trên nhiều lĩnh vực, nh kinh tế, văn hoá, khoa học-kỹ thuật , việc tìm hiểu,
nghiên cứu lịch sử Nhật Bản nói chung và văn hoá Nhật Bản nói riêng càng có ý nghĩa
to lớn về khoa học và thực tiễn. Nhật Bản có một nền văn hoá đa dạng, phong phú với
bản sắc độc đáo trên cơ sở tiếp thu ảnh hởng văn hoá ngoại lai kết hợp với văn hoá bản
địa. Trong nền văn hoá truyền thống Nhật Bản chứa đựng nhiều nét đẹp riêng còn lu
giữ cho đến ngày nay. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến một số nét đẹp trong
văn hoá giao tiếp, trong văn hoá ẩm thực và một vài tập quán truyền thống của ngời
Nhật Bản.

1. Cội nguồn của nét độc đáo
trong văn hoá Nhật Bản
Nhật Bản là một quần đảo nằm giữa
biển cả. Ngày xa khi cha có những
phơng tiện giao thông, liên lạc thuận


tiện nh ngày nay thì Nhật Bản quả là
một vùng đất cách biệt các nền văn hoá
khác trên thế giới. Chính đặc điểm địa
lý này đã góp phần tạo nên tính độc lập
tơng đối ban đầu và nét độc đáo của
nền văn hoá Nhật Bản nói chung và
trong lối sống nói riêng. Về mặt địa
hình, Nhật Bản chủ yếu là núi đồi, đất
đai có thể trồng trọt đợc chỉ chiếm
khoảng 20% diện tích cả nớc. Vì thế từ
xa xa c dân Nhật Bản chủ yếu sống
bằng nghề biển. Từ khi tiếp thu ảnh
hởng từ lục địa truyền sang, nghề
trồng lúa nớc mới xuất hiện ở Nhật
Bản. Nhìn chung, nghề biển và nghề
nông đều phụ thuộc vào thiên nhiên rất
nhiều. "Thiên nhiên Nhật Bản quả thật
dữ dội. Đối mặt với Thái Bình Dơng,
mỗi năm Nhật Bản phải hứng chịu
hàng chục cơn bão. Nhật Bản lại nằm
trên vành đai núi lửa và động đất,
trung bình hàng năm phải chứng kiến
hàng ngàn trận động đất lớn nhỏ, có
trận động đất san phẳng cả thành phố
và cớp đi sinh mạng của hàng vạn
ngời trong chốc lát." [9, tr 44]. Thuở
xa, khi cha đủ tri thức khoa học để
giải thích các hiện trên thì tự nhiên quả
là một lực lợng huyền bí đáng sợ đối
với c dân trên quần đảo này. Chính vì

vậy mọi hiện tợng tự nhiên nh mặt
trời, mặt trăng, sông, núi, bão, giông,
động đất đều đợc ngời Nhật tôn sùng
nh những vị thần và muốn đựơc các vị
thần đó che chở, bảo vệ để sinh tồn,
phát triển, do đó mà họ càng gắn bó hơn
với thiên nhiên, làm cho tâm hồn ngời
họ càng gần gũi với thiên nhiên. Điều
đó đợc thể hiện trong văn hoá truyền
thống của ngời Nhật bản.
Văn hoá Nhật Bản rất độc đáo, tuy
nhiên trong quá trình lịch sử, ngoài văn
hoá bản địa, ngời Nhật cũng tiếp thu
Nhận bài ngày 12/8/2006. Sửa chữa xong 28/11/2006.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXIV, số 3b-2007



72
ảnh hởng của các nền văn hoá khác
nh văn hoá Trung Hoa, Triều Tiên,

n
Độ và phơng Tây sau này, tạo nên sự
phong phú, đa dạng. Trớc hết ngời
Nhật tiếp thu ảnh
hởng văn hoá

Trung Hoa, từ việc trồng lúa nớc đến
hàng loạt phong tục, tập quán,
tín
ngỡng của văn hoá nông nghiệp. Ngời
Nhật cũng tiếp thu kỹ thuật làm đồ
gốm, kỹ thuật in bằng chữ rời từ Triều
Tiên và sau này là nền khoa học hiện
đại với lối sống công nghiệp từ phơng
Tây. Thế nhng, ngời Nhật vẫn giữ
đợc lối sống của văn hoá bản địa mang
bản sắc riêng hoà nhập với thiên nhiên,
hài hoà với đất trời, mang đậm nét
nhân văn và thể hiện rõ sự hoà trộn cổ-
kim, Đông-Tây, tạo ra nét đẹp riêng,
thể hiện qua văn hoá giao tiếp, ẩm
thực, phong tục tập quán Tất cả
những cái đó đã bổ trợ cho nhau, tạo
thành lối sống văn hoá đẹp, giàu bản
sắc của ngời Nhật Bản. Đối với ngời
Nhật, ảnh hởng của tự nhiên đến lối
sống thể hiện rất rõ, từ kiến trúc nhà
cửa, đền chùa, lễ hội, phong tục, tập
quán, tín ngỡng đến cách ăn mặc đều
gần gũi với tự nhiên. Từ sau khi mở cửa
giao lu với phơng Tây, lối sống
phơng Tây làm cho xã hội Nhật có
những thay đổi lớn. Những nét văn hoá
truyền thống chủ yếu thể hiện trong các
dịp lễ hội dân tộc và nếp sống cổ truyền.
Ví nh, bộ Kimono truyền thống duyên

dáng vẫn đợc ngời Nhật sử dụng,
song chủ yếu trong các dịp lễ hội hay
trong những cuộc gặp gỡ trang trọng.
Ngoài những môn thể thao hiện đại của
thế giới đợc du nhập từ ngoài vào,
ngời Nhật vẫn a chuộng môn Sumo
truyền thống, thể hiện ý chí thợng võ
theo tinh thần võ sỹ đạo của ngời
Nhật. ở Nhật Bản có nhiều tập quán
truyền thống bắt nguồn từ ảnh hởng
của tự nhiên, nổi bật nhất là tục ngắm
hoa anh đào vào mùa xuân, xem bắn
pháo hoa vào mùa hè và nhiều lễ hội
dân gian khác. Do phải thờng xuyên
đối mặt với thiên nhiên dữ dội, ngời
Nhật rất tôn trọng đức tính kiên trì,
kiềm chế, chịu đựng, từ đó mà hình
thành lối sống tế nhị, nhã nhặn, khiêm
nhờng, tránh xung đột, tránh va
chạm. Điều đó biểu hiện ngay cả trong
văn hoá ứng xử, giao tiếp trong gia đình
và ngoài xã hội.
2. Văn hoá giao tiếp
Chào hỏi. Giống nh trong tiếng
Anh, tiếng Nga và một số thứ tiếng
khác, cách chào hỏi trong tiếng Nhật
cũng có sự phân biệt theo thời gian
(sáng, tra, chiều, tối) và không có từ
xng hô kèm theo. Lời chào của ngời
Nhật Bản không lệ thuộc vào số lợng

của đối tợng giao tiếp. Một câu chào có
thể dùng cho một ngời hay một nhóm
ngời với mọi lứa tuổi khác nhau.
Chẳng hạn nh một học sinh vào lớp
học có thể chào thầy giáo và bạn bè
trong lớp bằng một câu với cử chỉ đứng
nghiêm và cúi đầu. Ngời Nhật có ba
kiểu chào phổ biến. Trớc hết là kiểu
chào cúi đầu khi gặp cấp trên hay
khách trong hành lang, thứ hai là kiểu
chào bình thờng cúi gập ngời một



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXIV, số 3b-2007



73
chút trong trờng hợp trịnh trọng hơn,
thứ ba là kiểu chào kính cẩn, lễ phép,
đó là đầu không cúi mà thân hình gập
lại ở chỗ thắt lng. Trong kiểu chào
này, nam giới để hai tay xuôi thẳng hai
bên hông, còn phụ nữ thì chắp hai tay
phía trớc ngực [10, tr 44]. Ngày nay,
với ngời nớc ngoài, ngời Nhật cũng
bắt tay cho phù hợp với lối sống hiện
đại, nhng đó không phải là cách giao
tiếp truyền thống của Nhật Bản. Điều

đó chứng tỏ ngời Nhật coi trọng nghi
thức hành vi, cử chỉ hơn là nghi thức
của lời nói. Với ngời Nhật Bản việc kết
hợp lời chào với cử chỉ khom lng, cúi
đầu là cách chào phổ biến và mức độ
kính trọng đợc biểu hiện bằng mức độ
cúi và thời gian cúi lâu hay mau. Với
ngời Nhật Bản, việc cúi đầu, mỉm cời,
im lặng để chào không cần lời là thể
hiện sự tôn trọng, chân thành hơn là lời
chào đầy thiện chí mà không có ngôn
ngữ cử chỉ. Nh vậy cách chào của
ngời Nhật có tính nghi thức cao trong
giao tiếp với các đối tợng tiếp xúc
trong xã hội và cả với ngời thân trong
gia đình thông qua ngôn ngữ của thân
thể nh đứng nghiêm, khom lng, cúi
đầu. Điều đó chứng tỏ ngời Nhật tôn
trọng đức tính khiêm nhờng tông qua
thái độ thực của hành động hơn là thái
độ biểu hiện qua lời nói mang tính xã
giao trong giao tiếp [10, tr 44].
Cảm ơn và xin lỗi. Cũng nh cách
chào, hành vi cảm ơn và xin lỗi của
ngời Nhật Bản mang tính nghi thức
rất cao, thể hiện trong khuôn mẫu cố
định đã đợc xã hội hoá và đợc sử
dụng một cách phổ biến. Đối với ngời
Nhật nhiều khi cảm ơn và xin lỗi là
một, tuỳ thuộc hoàn cảnh cụ thể mà ta

nhận biết hành vi đó là cảm ơn hay xin
lỗi, nh khi chạy quá vội vàng, chẳng
may làm cho ngời khác bị ngã hoặc khi
đợc ngời khác cho quà một cách bất
ngờ, ngời Nhật đều dùng từ
Sumimásen [10, tr 46]. Nh vậy trong
trờng hợp thứ nhất từ đó là xin lỗi,
trong trờng hợp thứ hai là cảm ơn.
Trong trờng hợp thứ nhất ta hiểu
nghĩa của từ Sumimáen là Tôi rất áy
náy với hành động vô ý của mình vì đã
làm ông (bà, anh, chị ) ngã, trong
trờng hợp thứ hai ta hiểu nghĩa của từ
đó là Tôi lấy làm băn khoăn khi ông
(bà, anh, chị ) đã bận tâm về tôi. Nhìn
chung, hành vi cảm ơn và xin lỗi là tập
quán phổ quát của mọi dân tộc trên thế
giới với nhiều cách biểu hiện khác
nhau. Nhng đối với ngời Việt Nam
các khuôn mẫu cảm ơn, xin lỗi gián tiếp
đợc sử dụng nhiều hơn là bằng cách
nói trực tiếp, nhất là đối với ngời thân
trong gia đình hay với ngời có quan hệ
đã trở nên thân thiết vì trong các mối
quan hệ đó việc cảm ơn bằng lời không
đợc đánh giá cao, ngợc lại có khi còn
bị coi là khách sáo. Đặc biệt khi nhận
đợc sự giúp đỡ lớn nh đợc tạo việc
làm hoặc nhận một ân huệ đặc biệt, lời
cảm ơn nhẹ nhàng bằng ngôn từ tỏ ra

không thích hợp. Cái ơn đó, ngời Việt
Nam cho rằng phải đợc khắc vào
xơng cốt, tâm khảm, chứ không chỉ nói
ra bằng lời có tính xã giao, chẳng hạn
nh Nhờ bác cháu mới có công ăn việc



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXIV, số 3b-2007



74
làm hay Không có sự giúp đỡ của bác,
đến nay cháu vẫn cha có nhà ở mà
phải biết thể hiện bằng hành động nh
tặng quà vào các dịp lễ tết hoặc đáp laị
bằng sự giúp đỡ, trong khả năng có thể.
Với ân nhân là ngời thân nh ông, bà,
cha, mẹ, anh chị em ruột thịt, ngời
Việt Nam hầu nh không dùng lời cảm
ơn hay xin lỗi trực tiếp, bởi điều đó sẽ
gây nên cảm giác khách khí, xa lạ mà
ngời đợc cảm ơn cũng không thích vì
có cảm giác nh mình bị đẩy ra ngoài
mối quan hệ thân thiết của gia đình.
Thông thờng để tỏ lòng biết ơn, ngời
Việt Nam bộc lộ thái độ vui mừng, thích
thú với nét mặt rạng rỡ. Còn hành động
biết ơn đối với ngời thân nh ông bà,

cha mẹ là sự cố gắng phấn đấu trở
thành con cháu hiếu thảo hay thực hiện
thành công điều gì đó mà ngời thân
đang mong đợi ở mình. Khác với ngời
Việt Nam, ngời Nhật Bản dùng nghi
thức cảm ơn rộng rãi với mọi đối tợng
giao tiếp, kể cả trong việc làm ăn sòng
phẳng mà thực tế không ai ban ơn cho
ai, không ai chịu ơn ai. Đến cả việc giao
tiếp giữa khách hàng với chủ cửa hiệu
cũng vậy, sau khi mua sắm xong, khách
hàng nói lời cảm ơn với chủ cửa hiệu
trớc khi rời khỏi nơi đó và ngợc lại
chủ cửa hiệu cũng nói lời cảm ơn đối với
khách. ở những công sở lớn ngời ta
thờng dùng nghi thức cảm ơn long
trọng, chẳng hạn ở các ngân hàng hay
văn phòng công ty lớn, khi khách hàng
rời khỏi đó, tất cả nhân viên trong công
sở đồng thanh chào tạm biệt bằng lời
cảm ơn Xin trân trọng cảm ơn. Nhìn
chung, khi đợc nhận bất kỳ sự quan
tâm, giúp đỡ hay một ân huệ nào từ
ngời khác dù lớn hay nhỏ ngời Nhật
Bản đều bày tỏ sự cảm ơn bằng ngôn
ngữ theo nghi thức khuôn mẫu đã đợc
xã hội hoá, đồng thời khi sơ ý gây nên
một hành vi, cử chỉ không đáng có cho
ngời khác, họ đều biết tỏ thái độ ân
hận bằng lời xin lỗi.

Nghi thức xin lỗi của ngời Nhật
Bản biểu hiện nét riêng trong văn hoá
giao tiếp, ví nh trong trờng hợp
không rõ lỗi thuộc về ai, ngời Nhật
Bản vẫn thờng nhận lỗi về mình, vì
vậy, trong nhiều trờng hợp ngời ta
thấy hai ngời tranh nhau nhận lỗi. Ví
dụ nh với bức th trao tay khó đọc,
ngời đọc tự nhận là mình đọc kém, còn
ngời viết thì tự nhận là mình viết quá
xấu gây phiền hà cho ngời đọc. Ngời
Việt Nam cũng có thói quen xin lỗi,
nhng lời xin lỗi có khi mang ý nghĩa là
lời giải thích, biện hộ cho điều không
đáng có của mình. Ví nh khi đến cuộc
họp chậm, ngời ta thờng nói Xin lỗi,
tôi đến muộn vì xe bị hỏng dọc
đờng . Điều đó do đặc điểm cách ứng
xử trong giao tiếp xã hội tạo ra. Đối với
ngòi Việt Nam, khi có lỗi nếu không có
lời xin lỗi mang tính giải thích lý do thì
lỗi bị đánh giá nặng hơn. Ngợc lại nếu
lời xin lỗi mang tính giải thích đó có sức
thuyết phục cao thì lỗi có thể dễ dàng
đợc bỏ qua. Nhiều khi lời xin lỗi không
có sự giải thích thờng bị coi là xem
thờng những ngời xung quanh. Vì thế
việc xin lỗi kèm theo sự giải thích của
ngời Việt Nam không tránh khỏi




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXIV, số 3b-2007



75
nhiều khi bị lạm dụng trở thành nguỵ
biện hoặc là sự nhận lỗi không trung
thực có tính gợng ép, khuôn sáo. Đối
với ngời Nhật Bản, sự biện hộ cho
thiếu sót của mình không đợc đánh giá
cao, thậm chí không đợc chấp nhận.
Khi xin lỗi, ngời Nhật không hề giải
thích lý do, đặc biệt không bao giờ đổ lỗi
cho khách quan. Ví nh đến họp muộn
do phơng tiện có sự cố, ngời ta chỉ xin
lỗi và nhắc lại lời đó nhiều lần với mọi
ngời, nghĩa là hoàn toàn nhận lỗi về
mình chứ không đổ lỗi cho hoàn cảnh.
Thói quen đã trở thành tập quán ấy là
một nét đẹp trong văn hoá ứng xử của
ngời Nhật Bản. Các nhà nghiên cứu
văn hoá Nhật Bản cho rằng, tập quán
đó đợc hình thành từ trong truyền
thống giáo dục gia đình đợc truyền
qua nhiều thế hệ. Trong gia đình Nhật
Bản mọi ngời phải hiểu nhau và biết
hành động đúng với bổn phận, nghĩa vụ
của mình, đồng thời phải biết trách

nhiệm của mình trong các mối quan hệ
gia đình cũng nh phải biết nhận ra sai
sót của mình khi vấp phải. Con cái có
nghĩa vụ vâng lời cha mẹ một cách lặng
lẽ, không đợc cãi lại khi đợc nghe
những lời khuyên bảo hay nhắc nhở của
cha mẹ và ngời trên, bởi sự biện luận
cho dù có đúng cũng sẽ gây nên sự bực
mình hoặc buồn phiền cho ngời trên.
Truyền thống đó vẫn đợc giữ nguyên
đến cả khi con cái đã trởng thành và
từ đó đã mở rộng ra phạm vi giao tiếp
xã hội, tạo ra nếp sống lịch sự, nhã
nhặn, dễ chịu cho mọi ngời xung
quanh.
Hiểu biết về văn hoá giao tiếp của
ngòi Nhật Bản để thấy đợc một số
nét khác biệt với ngời Việt Nam sẽ
giúp ta tránh dợc sự hiểu nhầm bản
chất và tính cách của họ trong quan hệ
giao dịch. Việc xin lỗi đối với ngời Việt
Nam chúng ta cũng là sự chấp nhận
chịu trách nhiệm về lỗi đó, kể cả những
lỗi hệ trọng cần thiết phải bồi thờng
tiền của. Khi mợn cái gì của ai đó và
đem trả trong tình trạng bị h hỏng,
ngời trả phải xin lỗi kèm theo trách
nhiệm phải bồi thờng tiền sửa chữa
hoặc đền cái mới. Còn với ngời Nhật
Bản trong trờng hợp đó, ngời mợn

chỉ cần xin lỗi một cách thành thực là
đợc, chứ không cần phải bồi thờng.
Điều đó đợc xã hội Nhật Bản chấp
nhận, vì hành vi cảm ơn và xin lỗi của
ngời Nhật, ngoài ý muốn tỏ lòng biết
ơn hay hối lỗi, còn là phép lịch sự do xã
hội quy định mà mỗi ngời cần phải
tuân theo. Trong khi đối với ngời Việt
Nam các hành vi này vẫn còn kèm theo
sự ràng buộc với thực tế hành động,
cha trở thành hành vi mang tính nghi
thức thuần tuý. Hiểu đợc văn hoá giao
tiếp của của các dân tộc nói chung và
của Nhật Bản nói riêng sẽ góp phần
giúp ta tránh đợc sự hiểu nhầm nhau
cũng nh tránh đợc những lỗi không
đáng có khi tiếp xúc với ngời nớc
ngoài nói chung và ngời Nhật Bản nói
riêng trong trong xu thế hội nhập ngày
càng tăng hiện nay.





Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXIV, số 3b-2007



76

3. Vài nét về văn hoá ẩm thực
Nét đẹp văn hoá truyền thống của
ngời Nhật Bản còn đợc thể hiện trong
cách làm các món ăn và phục vụ các
bữa ăn hoặc trong nghi lễ uống trà
Ngời Nhật có câu Con ngời còn sống
chừng nào còn một trái umahóshi và
bát cơm. Umahóshi là món mận muối
cổ truyền của ngời Nhật Bản không
thể thiếu trong bữa ăn thờng ngày
cũng nh trong bữa tiệc. Món ăn này
đợc làm từ quả mận xanh đã đợc ủ,
có vị chua mặn hay làm thành rợu
mận. Umahóshi và rợu mận vừa là
thức ăn, đồ uống cổ truyền vừa là vị
thuốc có giá tri chữa bệnh, nhất là bệnh
về đờng tiêu hoá. Để có món
umahóshi, ngời ta rửa sạch mận, xếp
vào vại sành, rắc đều muối rồi nén
xuống trong vài ba tuần. Khi mùa ma
bắt đầu, ngời ta cho lá tía tô vào vại để
tạo ra hơng vị và màu sắc cho
umahóshi. Sau khi mận đã ngấm hơng
vị, họ đem ra phơi khô để ăn dần. ở
Nhật, Umahoshi đợc sử dụng trong
pha chế, nấu nớng, không thể thiếu
đợc trong bữa cơm Nhật Bản.
Ngoài ra, tảo biển Kaiso cũng là một
loại thức ăn đa tác dụng. Ngời Nhật đã
biết sử dụng rong tảo biển từ xa xa cho

khẩu vị ăn uống, chữa bệnh và trang trí
bữa ăn.
Kaiso không chỉ là thức ăn đơn
thuần mà còn có khả năng trực tiếp thu
muối khoáng, sản sinh ra vitamin và
protein, ngoài ra còn có giá trị điều trị
một số bệnh nh làm đẹp, dày mái tóc,
chữa bệnh tắc mạch máu Kaiso là một
món ăn đợc ngời Nhật sử dụng từ rất
lâu đời với nghệ thuật cao trong việc
chế biến. Ngời Nhật Bản rất chú trọng
hình thức, hầu hết các món ăn của họ
đều đợc trình bày rất đẹp và đợc
trang trí một cách lịch sự trong bữa ăn.
Ngay cả trong bữa cơm thờng ngày,
chỉ riêng lát cá tơi mỏng đặt trên một
đĩa cơm cũng phải làm rất cầu kì công
phu.
Đồ gia vị cũng rất quan trọng trong
các món ăn của ngời Nhật Bản, từ
những hạt vừng, những sợi hành hoa
thái chỉ nhỏ, vài lát ớt tơi, một chút
gừng xắt mỏng cũng không thể thiếu
khi ăn món mì udon Nhật. Cũng giống
nh món gà hấp, cá nấu, ngó sen, rong
biển trong bữa ăn của ngời Nhật Bản
không thể thiếu món yakumi. Yakumi
là đồ gia vị tơi sống hoặc nấu chín để
tạo hơng thơm cho món ăn. Nó là tập
hợp của các loại thảo dợc đã đợc lựa

chọn rửa sạch, cắt nhỏ, dùng trong các
bữa ăn đầy hấp dẫn, tạo nên một hơng
vị đặc biệt kích thích sự ngon miệng.
Bên cạnh các món ăn, đồ uống, trà
xanh okha là loại nớc uống thờng
đợc ngời Nhật Bản a chuộng nhất.
Trà đợc dùng sau khi ăn hoặc lúc ngồi
chơi giao tiếp với khách khứa, bạn bè.
Ngày nay, trong bữa ăn của ngời
Nhật Bản cũng có đủ các loại nớc hoa
quả, bia, rợu Whisky và Champagne,
mặc dù trớc kia họ chỉ thích uống rợu
Sake, nhng ngày nay thì lối sống Âu
đã phổ biến và đợc Nhật hoá.
Đối với ngời Nhật Bản, truyền
thống và hiện đại luôn song song tồn



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXIV, số 3b-2007



77
tại, ngày nay ngời Nhật Bản phổ biến
dùng rợu Tây, nhng nghi lễ hình
thức trà đạo vẫn đợc giữ gìn. Trà đạo
là một nghi thức mang đặc tính rõ nét
nhất của ngời Nhật Bản. Ngời ta
phải tuân theo một cách nghiêm ngặt

những nguyên tắc và quy định phức tạp
của nó. Trong nghi lễ uống trà, tất cả
mọi ngời tham gia đều nh là diễn
viên vậy. Từ thế kỷ XV, ngời Nhật đã
phát triển việc uống trà lên thành một
nghệ thuật gọi là Trà đạo. Khi tiền
hành trà đạo, các nghi lễ phải đợc tổ
chức trong phòng nhỏ, sử dụng những
dụng cụ bằng tre hay vật liệu bình
thờng khác, không dùng các đồ dùng
bằng ngà hay quý giá sang trọng, họ
cũng ít coi trọng đồ sứ Trung Quốc và
Triều Tiên mà chỉ dùng những cái bát,
cái bình của xứ sở mình nhằm đề cao
giá trị và tôn vinh nghệ thuật đồ gốm
Nhật Bản. Ngời tham dự trà đạo cần
có một vốn liếng thơ ca, hội hoạ, văn
học cổ điển, nghệ thuật cắm hoa hoặc
các nghề thủ công khác nhau và lòng
hiếu khách. Phòng uống trà của ngời
Nhật Bản thờng là căn phòng với một
khoảng không gian hẹp thể hiện sự
khiêm nhờng. Nguyên liệu xây dựng
phòng trà và đờng nét trang trí rất
giản dị nhằm tránh sự khoe khoang
sang giàu, đồng thời biểu hiện mối giao
hoà giữa trời, đất với con ngời. Muốn
vào phòng trà ngời ta phải đi qua một
cửa hẹp để tâm hồn đợc thả vào trạng
thái tĩnh tại, thể hiện tính cách trầm

t, thanh bạch, dân dã gần gũi với thiên
nhiên của ngời Nhật Bản, phù hợp với
tâm hồn trong sạch theo tinh thần của
Thần đạo và Phật giáo.
4. Một số phong tục tập quán
Ngắm hoa. ở Nhật Bản tục ngắm
hoa anh đào nở rộ vào những ngày xuân
giữ một vị trí quan trọng trong đời sống
tinh thần và quan điểm thẩm mỹ của
con ngời, bởi hoa anh đào trở thành
một thứ Quốc hoa đặc biệt mà mọi
ngời dân Nhật Bản đều a chuộng và
ngỡng mộ. Tình yêu đối với hoa anh
đào đã tạo ra một phong tục tập quán
thanh tao, đẹp đẽ của ngời Nhật Bản
thông qua việc ngắm hoa anh đào nở.
Mùa xuân đến, tiết trời ấm áp, hoa anh
đào nở rộ. Ngời Nhật Bản coi đó là một
điềm báo thiêng liêng về một điều tốt
lành, vì vậy mỗi năm một lần ngời
Nhật cùng nhau đi ngắm hoa anh đào
và coi đó là một thú vui cần tận hởng.
Phong tục ngắm hoa anh đào đã thu
hút không chỉ đàn ông mà tất cả những
phụ nữ đều rời khỏi căn nhà của mình
để đợc thả tâm hồn vào thiên nhiên
tơi đẹp, đợc ngắm cảnh xuân với sắc
hoa anh đào tơi thắm. Mọi ngời cùng
du xuân, gặp gỡ bạn bè, ngời thân và
cùng thả tâm hồn trong thú vui ngắm

hoa. Phong tục ngắm hoa anh đào mang
lại cho ngời Nhật Bản sự sảng khoái
nhẹ nhàng để quên đi mọi sự u phiền
trong cuộc sống, đồng thời làm cho mọi
ngời càng xích lại gần nhau hơn trong
sự gần gũi chan hoà với thiên nhiên
tơi đẹp Phong tục ngắm hoa anh đào
(Hanimi) vào mùa xuân, lúc đầu cũng
là một lễ hội đón hồn ngời chết, dần



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXIV, số 3b-2007



78
dần ngời Nhật Bản chỉ còn giữ lại lễ
hội với thiên nhiên, xuất phát từ sinh
hoạt nông nghiệp theo mùa. Tháng
giêng, vào dịp tết âm lịch, nông dân
diễn lại quá trình trồng lúa để cầu
mong đợc mùa, tháng t có lễ hội cấy
lúa, tháng mời có lễ hội cơm mới,
tháng mời một có lễ tiễn Thần Điền
Thổ đã ở với ruộng đất từ tháng giêng.
Ngày lễ hội mùng 7 tháng 7 âm lịch
(Tanabata) gợi lại sự tích hai ngôi sao
Ngu Lang, Chức Nữ bị giải Ngân Hà
chia rẽ, mỗi năm chỉ đợc gặp nhau một

lần nếu trời không ma. Các cô gái còn
có hội hoa đào vào ngày mồng 3 tháng
3, còn các chàng trai có hội Tango vào
ngày 5 tháng 5 là lễ hội độc đáo của
c dân Nhật Bản.
Đối với ngời Nhật Bản mỗi loại cây
và hoa đều có ý nghĩa tợng trng.
Thông, tre, mận, là biểu tợng của tuổi
thọ và sự lâu bền. Hoa cúc nở muộn và
lâu tàn đợc dùng để mừng thọ các cụ
già và cũng là loài hoa biểu tợng của
Hoàng gia. Tre đợc ngời Nhật tôn
kính vì coi đó là nơi có thần trú ngụ.
Tre và măng đợc thờ ở các đền Thần
đạo. Việc đi ngắm hoa, ngắm cảnh thiên
nhiên là một phong tục tập quán đẹp đẽ
thanh tao của ngời Nhật Bản. Từ thế
kỷ VIII vào thời Heian phụ nữ có tục
hành hơng, phần vì mộ đạo, phần để
chiêm ngỡng cảnh thiên nhiên, tận
hởng chút tự do ngoài chốn khuê
phòng. Ngoài tục ngắm hoa anh đào vào
mùa xuân, ngời Nhật Bản còn có tục
ngắm hoa mẫu đơn vào tháng 5, ngắm
hoa sen vào tháng 7, ngắm hoa cúc và
lá vàng mùa thu vào tháng 10. Nét đẹp
của tập quán ngắm hoa trong văn hoá
truyền thống Nhật Bản chắc chắn sẽ
tồn tại mãi với thời gian.
Nghệ thuật cắm hoa. Cùng với tập

quán ngắm hoa, ở Nhật Bản còn có một
tập quán đẹp mang đầy đủ tính chất
nghệ thuật của lối sống văn hoá, đó là
nghệ thuật cắm hoa (Ikebana). Cũng
nh trà đạo, loại hình nghệ thuật này
đợc hình thành từ thế kỷ XV. Từ đó
việc thởng thức vẻ đẹp của các loài hoa
ở Nhật Bản bớc sang thời kỳ mới và
phát triển mạnh đến mức đồi hỏi những
chuẩn mực nhất định trở thành hoa
đạo. Hoa đợc cắm vào bình để trang trí
phòng trà và phòng khách. Việc cắm
hoa phải tuân theo những luật lệ hết
sức nghiêm ngặt nhằm thể hiện sự giao
hoà giữa trời, đất với con ngời. Có
nhiều cách cắm hoa: có cách đơn giản,
cũng có cách hết sức cầu kỳ. Nhng mỗi
cách đều mang một ý nghĩa riêng thể
hiện tâm trạng và hoàn cảnh riêng biệt,
phản ánh tâm t tình cảm cũng nh
ớc nguyện của con ngời. Đây thực sự
là loại hình nghệ thuật thể hiện nét đẹp
văn hoá trong đời sống tinh thần của
ngời Nhật Bản. Nghệ thuật cắm hoa
đòi hỏi ngời thực hiện phải có tâm hồn
phong phú, phải thật sự tâm đắc, say
mê, biết rung cảm, có lòng yêu thiên
nhiên thực sự và sự nhạy cảm sâu sắc
trớc ngôn ngữ của các loài hoa. Thành
công của nghệ thuật cắm hoa là biểu

hiện đỉnh cao của tâm hồn Nhật Bản
thuần khiết. Trong lịch sử Nhật Bản đã
xuất hiện nhiều nghệ nhân tài giỏi của



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXIV, số 3b-2007



79
nghệ thuật cắm hoa, đã tạo ra những
phong cách cắm hoa tuyệt mỹ, điển
hình là nghệ nhân Senkei (thế kỷ XV)
[4, tr 35]. Để nghệ thuật này phát triển,
ngời Nhật Bản đã dày công trau dồi,
sáng tạo nhằm cảm nhận hết mọi vẻ
đẹp của tạo hoá trong mỗi bông hoa,
mỗi cành hoa, mỗi loài hoa, từ đó mà
làm cho loại hình nghệ thuật độc đáo
này không bị mai một qua nhiều biến
động của thời gian và hoàn cảnh xã hội.
Tóm lại, Nhật Bản có một nền văn
hoá phong phú đa dạng, độc đáo. Tuy
nhiên trong tiến trình lịch sử, Nhật
Bản cũng chịu ảnh hởng của văn hoá
châu á lục địa, nhất là văn hoá Trung
Hoa, Triều Tiên, ấn độ và sau này là
văn hoá phơng Tây, nhng ngời Nhật
Bản đã biết tiếp thu có chọn lọc những

tinh hoa văn hoá ngoại lai kết hợp với
văn hoá bản địa tạo nên những nét đẹp
riêng mang bản sắc Nhật Bản. Trong
quá trình lịch sử ngời Nhật Bản đã
biết gìn giữ nét đẹp văn hoá dân tộc
mình trong lối sống hoà nhập với thiên
nhiên, hài hoà với đất trời, mang đậm
nét nhân văn và thẻ hiện rõ sự hội tụ,
hoà quyện cổ, kim, Đông, Tây. Điều đó
đợc biểu hiện đầy đủ, phong phú trong
văn hoá truyền thống nh lối sống,
quan niệm thẩm mỹ, văn hoá ẩm thực,
phong tục tập quán Những nét đẹp
trong văn hoá truyền thống đó chắc
chắn sẽ đợc ngời Nhật giữ gìn bảo
lu lâu dài và sẽ tạo nên sức mạnh tinh
thần để đa đất nớc Nhật Bản tiếp tục
phát triển.


Tài liệu tham khảo

[1] Hồ Hoàng Hoa, Lễ hội một nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội 1998.
[2] Hồ Hoàng Hoa, Tiến trình văn hoá Nhật Bản, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
1999.
[3] Hồ Hoàng Hoa (chủ biên), Văn hoá Nhật những chặng đờng phát triển, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội 1989.
[4] Cung Hữu Khánh, Nét văn hoá thể hiện trong lối sống của ngời Nhật. Tạp chí
Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á, số 3 (45), 6-2003.

[5] Cung Hữu Khánh, Ngời Nhật với các tôn giáo, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và
Đông Bắc á, số 2 (38) 4-2002.
[6] Nguyễn Minh Lợi, Nghi lễ thần đạo ở Nhật Bản, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản,
số 11, 1997.
[7] Hữu Ngọc, Chân dung văn hoá đất nớc mặt trời mọc, NXB Thế giới, 1993.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXIV, số 3b-2007



80
[8] G. B. Sansom, Lợc sử văn hoá Nhật Bản, Tập I,II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
1989.
[9] Phạm Hồng Thái, Tín ngỡng truyền thống của ngời Nhật-nguồn gốc và một số
quan niệm cơ bản, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á, số 1 (43 ) 2-
2003.
[10] Hoàng Anh Thi, Vài nét so sánh điểm khác biệt giữa văn hoá Nhật Bản và văn
hoá Việt Nam thể hiện trong ngôn ngữ giao tiếp, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản,
số 1 (9)-1997.




Summary

The beauty of Japanese traditional culture



The wonder of Japanese economy and its achievements in cultural and social
development attracts a lot of researchers attentions and interest from every corner
of the world. At present, Viet Nam and Japan has fruitful cooperative relation in
various fields such as economy, culture, technical science, ect. Exploring and making
a study on Japanese history in general, and its culture in particular have practical
and scientific significance. Japan is gifted a diversified culture with its unique
identity based on the harmony of alien and native cultures. Japanese traditional
culture is home to its own characteristics that can be seen nowadays. In this article
we deal with the beauty of the Japanese communication ways, dietetic culture and
traditional customs.

(a)
Khoa lịch sử, trờng Đại học Vinh

×