Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " B­ước đầu tìm hiểu Nhịp điệu câu thơ mới bảy chữ." ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.75 KB, 10 trang )




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4B-2007




33
Bớc đầu tìm hiểu Nhịp điệu câu thơ mới bảy chữ

Nguyễn Hoài Nguyên
(a)
,
Nguyễn tHị ĐàO
(b)


Tóm tắt. Bất cứ thể thơ nào cũng có một cấu trúc nhịp điệu nhất định. Nhng nếu
nhịp trong thơ thất ngôn truyền thống nhìn chung là tẻ nhạt thì thơ mới bảy chữ đã
hoán cải nhịp điệu ấy để trở thành đa dạng, độc đáo, mới lạ. Khảo sát thơ mới bảy chữ,
chúng tôi xác lập đợc 42 loại nhịp. Đây là một sự đột phá về nhịp điệu đầy cá tính và
bản lĩnh của các nhà thơ để phô diễn thế giới nội tâm ngày càng đa dạng, tinh tế của
con ngời, của thời đại mới. Tính đa dạng về nhịp điệu của thơ mới bảy chữ có khi là
dấu hiệu nhận diện một cá tính sáng tạo của nhà thơ, có khi là do yêu cầu cú pháp của
câu thơ và/hoặc đảm bảo sự mạch lạc về ngữ nghĩa của câu thơ nhng cũng có khi chỉ
đem đến một sự đa dạng trong cách đọc câu thơ. Bài viết này ở một mức độ nhất định
chứng tỏ những vấn đề đó.

1. Dẫn nhập
1.1. Nhịp điệu là một trong ba yếu


tố cơ bản (cùng với thanh điệu và vần)
tạo nên nhạc tính cho thơ, và nhạc tính
chính là cơ sở để khu biệt ngôn ngữ thơ
với ngôn ngữ văn xuôi. Hơn nữa, sự
ngắt nhịp câu thơ không đơn thuần chỉ
là hình thức mà nó cũng là nội dung bởi
lẽ nhịp thơ là nhịp cảm xúc, là biểu
hiện của những cung bậc tình cảm khác
nhau. Trong nhiều trờng hợp, có
những câu thơ có thể ngắt nhịp theo
những cách khác nhau, biểu hiện
những cảm xúc, thi hứng khác nhau.
1.2. Thơ mới mà ở đây là thơ mới
bảy chữ là đối lập với thơ cũ, khởi phát
từ phong trào thơ mới 1932-1945. Ngôn
ngữ thơ mới đã chuyển biến theo
khuynh hớng tự do hoá, hiện đại hoá.
Bấy giờ, từ trong những thể loại thơ cũ
chúng ta bắt gặp những cách gieo vần,
bố trí thanh điệu và cách ngắt nhịp mới.
Đối với thơ mới bảy chữ, Hoài Thanh có
một nhận xét hết sức xác đáng Thất
ngôn và ngũ ngôn rất thịnh ( ) thất
ngôn và ngũ ngôn bây giờ lại do Đờng
luật giản và nới ra, cho nên êm tai hơn
/Thi nhân Việt Nam, Nxb Hội nhà văn,
H. 2000, tr. 49-50/. ý kiến của Hoài
Thanh là một gợi ý cho chúng tôi tìm
hiểu về luật thơ mới, khảo sát những sự
kế thừa và cách tân của các nhà thơ

mới, xét ở mặt hình thức biểu hiện của
thơ, về ngôn ngữ thơ.
1.3. Thơ mới bảy chữ là sự kế thừa
và cách tân thơ thất ngôn Đờng luật.
Nh đã biết, bất cứ thể thơ nào cũng có
một cấu trúc nhịp điệu nhất định.
Nhng nếu nhịp điệu trong thơ thất
ngôn truyền thống nhìn chung là tẻ
nhạt thì thơ mới bảy chữ đã hoán cải cái
nhịp điệu ấy để trở thành đa dạng, độc
đáo, mới lạ. Vấn đề này đã đợc một số
nhà Việt ngữ học đặt vấn đề nghiên cứu
trong thời gian gần đây. Chẳng hạn,
GS. Đinh Văn Đức và các tác giả [2] khi
nghiên cứu ngôn ngữ thơ mới bảy chữ
tiếng Việt trong quá trình tự do hoá đã
khảo sát nhịp điệu thơ mới bảy chữ qua
các tập thơ Gửi hơng cho gió của Xuân
Diệu, Từ ấy của Tố Hữu, một số bài thơ

Nhận bài ngày 22/11/2007. Sửa chữa xong ngày 17/12/2007.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4B-2007




34

bảy chữ Nguyễn Bính. Tác giả Nguyễn
Phơng Thuỳ [5] cũng đã đặt vấn đề
nghiên cứu vần, thanh điệu, nhịp điệu
trong câu thơ mới bảy chữ. Những
nghiên cứu này mới chỉ phác vạch một
số dấu hiệu đổi mới về nhịp điệu trong
thơ mới bảy chữ còn bức tranh chung
vẫn cha đợc đề cập đến. Trong bài
báo này, ở một mức độ nhất định, chúng
tôi cố gắng khảo sát cấu trúc nhịp điệu
câu thơ mới bảy chữ, góp phần chứng tỏ
ngôn ngữ thơ mới bảy chữ phát triển
theo khuynh hớng tự do hoá, hiện đại
hoá.
2. Cấu trúc nhịp điệu câu
thơ mới bảy chữ
2.1. T liệu khảo sát
2.1.1. Hầu hết các nhà thơ mới đều
sáng tác thơ mới bảy chữ. Thơ mới bảy
chữ có nhiều bài thực sự tài hoa, mẫu
mực. Khác với thất ngôn truyền thống
và thơ ca truyền thống nói chung, thơ
mới bảy chữ tổ chức bài thơ thành từng
khổ khác nhau về số câu, mỗi khổ thơ là
một chỉnh thể trọn vẹn. Do đó, những
tìm kiếm về luật thơ mới có thể quan
tâm tới khuôn phép chung của cả bài
thơ, của mỗi khổ thơ rồi mới bàn luận
đến từng câu thơ. ở đây, do điều kiện
cha cho phép, chúng tôi mới chỉ bàn

nhịp điệu thơ mới bảy chữ ở phạm vi
câu thơ. T liệu khảo sát là câu thơ bảy
chữ của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn
Mặc Tử, Nguyễn Bính, Tố Hữu. ở mỗi
nhà thơ, chúng tôi chỉ thu thập những
câu thơ trong các bài thơ bảy chữ không
xen những câu thuộc các thể thơ khác.
Cụ thể nh Bảng 1.
2.1.2. Để xác định nhịp điệu trong
7149 câu thơ bảy chữ chúng tôi dựa vào
cơ sở ngôn ngữ học của việc ngắt nhịp
thơ. Cụ thể: 1) Ngắt nhịp dựa vào các
dấu hiệu nhận dạng trên bề mặt hình
thức câu thơ (các dấu câu); 2) Ngắt nhịp
dựa theo cú đoạn hoặc ngữ đoạn; 3)
Ngắt nhịp dựa vào các vế trong câu so
sánh; 4) Ngắt nhịp theo vế đứng trớc
hoặc đứng sau từ có vai trò liên kết; 5)
Ngắt nhịp dựa vào phần đảo ngữ đợc
xếp vào nhịp đầu tiên Sau đây là cách
tổ chức nhịp điệu câu thơ mới bảy chữ
tiếng Việt.
Bảng 1.
Số lợng
TT Các nhà thơ
Bài thơ Câu thơ
1 Xuân Diệu 144 3375
2 Chế Lan Viên 96 745
3 Hàn Mặc Tử 46 608
4 Nguyễn Bính 38 1103

5 Tố Hữu 64 1318

5 nhà thơ 388 bài 7149 câu




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4B-2007




35
Bảng 2.
Tổng
TT

Số lợng câu thơ
của tác giả
Loại nhịp

Xuân
Diệu

Chế
Lan
Viên
Hàn
Mặc
Tử

Nguyễn
Bính
Tố
Hữu

Số
lợng

Tỷ lệ %

1

4/3 2143

314 478 898 721 4550
63,64

2

2/5 390 93 44 116 164 807
11,28

3

3/4 384 95 42 32 292 845
11,81

4

2/2/3 294 144 24 31 36 529

7,39
5

5/2 53 26 2 18 39 138
1,93
6

2/3/2 37 19 2 2 7 67
0,93
7

1/3/3 13 6 2 1 9 31
0,43
8

4/1/2 13 3 1 1 1 19
0,26
9

4/2/1 12 2 2 16
0,22
10

3/2/2 11 23 23 57
0,79
11

2/2/1/2 6 4 10
0,13
12


3/3/1 3 2 5
0,06
13

2/4/1 3 5 8
0,11
14

1/4/2 3 2 1 6
0,08
15

3/2/1/1 2 2
0,02
16

3/1/1/2 2 1 3
0,04
17

2/2/1/1/1 2 2
0,02
18

3/1/3 1 2 2 1 6
0,08
19

1/2/4 1 1 3 5 11

0,15
20

2/1/4 1 1 3 1 6
0,08
21

1/5/1 1 1 2
0,02
22

1/2/2/2 1 1
0,01
23

2/2/2/1 1 3 1 5
0,06
24

1/3/1/2 1 1
0,01
25

2/1/1/3 1 1 2
0,02
26

1/1/2/3 1 1
0,01
27


4/1/1/1 1 1 2
0,02
28

1/1/1/2/2 1 2 3
0,04
29

1/1/2/1/2 1 1
0,01
30

1/1/2/2/1 1 1
0,01
31

3/1/1/1/1 1 1 2
0,02
32

1/1/1/1/3 1 1
0,01
33

2/1/2/2 1 1
0,01
34

2/1/1/1/2 1 1

0,01
35

1/1/1/2/1/1 2 2
0,02
36

1/1/5 1 1
0,01
37

5/1/1 1 1
0,01
38

1/1/1/4 1 1
0,01
39

1/2/1/3 4 4
0,05
40

2/3/1/1 1 1
0,01
41

1/6 5 5
0,06
42


6/1 1 1
0,01

42 loại nhịp 3375

745 608 1103 1318

7149 100%




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4B-2007




36
2.2. Miêu tả các loại nhịp
2.2.1. Cách ngắt nhịp truyền thống
Mỗi thể thơ truyền thống đều có một
khuôn thi điệu quen thuộc, cố định.
Khuôn thi điệu quen thuộc của thất
ngôn là 4/3. Trong thơ thất ngôn của
Trung Quốc và Việt Nam cũng có một
vài câu nhịp 3/4 nhng tần số quá thấp
nên không thành khuôn sáo thi điệu.
Thực ra nhịp 3/4 là sự hoán đổi nhịp 4/3
truyền thống nhng vì trong hát nói,

trong song thất lục bát có nhịp 3/4 nên
chúng tôi tạm xếp nhịp 3/4 trong thơ
mới bảy chữ cũng là nhịp truyền thống.
2.2.1.1. Nhịp 4/3
Nhịp 4/3 là nhịp truyền thống của
thất ngôn Đờng luật. Cách tổ chức
nhịp 4/3 trong thơ cổ có lẽ xuất phát từ
quan điểm thẩm mỹ của ngời xa là
a vẻ đẹp đăng đối, hài hoà. Tuy cách tổ
chức nhịp 4/3 khó có thể tạo ra đợc sự
đột phá, khó có thể chuyển tải những
cung bậc tình cảm đa dạng nhng lại có
u thế tạo ra sự nhịp nhàng, cân đối.
Cũng bởi chính u thế của nó mà các
nhà thơ mới đã kế thừa nhịp 4/3 truyền
thống một cách có ý thức. Khảo sát
7149 câu thơ mới bảy chữ trong 388 bài
thơ của năm tác giả thì có 4550 câu thơ
ngắt nhịp 4/3, chiếm 63,64%.
Chẳng hạn: Tiếc lúc trăng vàng/ soi
bóng chiếc
(Xuân Diệu, Nguyện, câu 1, khổ 2, tr.
496)
Anh trút tình thơng/ trong sắc biếc
(Chế Lan Viên, Tra, câu 3, khổ 1, tr.
181, t. 1)
2.2.1.2. Nhịp 3/4
Nhịp 3/4 có trong hát nói và trong
hai câu thất của thể song thất lục bát.
Trong thơ mới bảy chữ, nhịp 3/4 có

trong 845 câu thơ, chiếm 11,81%.
Chẳng hạn: Cả trời say/ nhuộm một
màu trăng
(Hàn Mặc Tử, Đà Lạt trăng mờ, câu 1,
khổ 4, tr. 75)
Xuân đã đem/ mong nhớ trở về
(Nguyễn Bính, Cô lái đò, câu 1, khổ 1,
tr. 35)
2.2.2. Cách ngắt nhịp không theo
truyền thống
2.2.2.1. Các nhịp hoán vị
Đó là các nhịp 2/5 và 5/2, nhịp 1/6
và 6/1. Trong các nhịp này, nhịp 2/5 là
nhiều nhất, có trong 807 câu thơ, chiếm
11,28%. Nhịp 5/2 là sự hoán đổi nhịp
2/5 có số lợng ít hơn. Nhịp 6/1 là sự
hoán đổi từ nhịp 1/6. Hai loại nhịp này
xuất hiện ít.
Chẳng hạn: Không em,/ tết có vị gì
đâu
(Xuân Diệu, Chầm chậm đừng quên,
câu 4, khổ 7, tr. 993)
Buồn nh làn mây hiền/ mùa thu.
(Hàn Mặc Tử, Tiên đầu, câu 6, khổ 1,
tr. 152)
Sống,/ có những niềm vui đơn giản.
(Tố Hữu, Chân trời mới, câu 1, khổ 1,
tr. 652)
Cu Ba đạp sóng trùng dơng/ tiến.
(Tố Hữu, Từ Cu ba, câu 3 khổ 9, tr. 364)

2.2.2.2. Các loại nhịp có ba nhịp
/câu
Từ nhịp 4/3 truyền thống tách
thành nhịp 2/2/3 nhịp 4/2/1, nhịp 4/1/2,
nhịp 3/1/3, nhịp 1/3/3. Trong năm loại
nhịp này, nhịp 2/2/3 có số lợng nhiều
nhất, 529 câu; nhịp 3/1/3 là ít nhất.
Chẳng hạn: Nhịp 2/2/3: Âm điệu,/ thần
tiên/ thấm tâm hồn.
(Xuân Diệu, Huyền diệu, câu 4, khổ 1,
tr. 50)
Nhịp 4/2/1: Đỏ hồng hoa giấy/ vàng
mai/ cúc.



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4B-2007




37
(Chế Lan Viên, Vờn quê, câu 3, khổ 1,
tr. 654, t. 2)
Nhịp 4/1/2 : Bỡ ngỡ rồi la:/ "cha,/
cha ơi"
(Tố Hữu, Ngời về, câu 4, khổ 3, tr. 133)
Nhịp 3/1/3: Những bàn tay/ vẫy/
những bàn tay.
(Nguyễn Bính, Những bóng ngời trên

sân ga, câu 2 khổ 8, tr. 49)
Nhịp 1/3/3 : ồ/ bằng trân châu/ hay
quỳnh dao?
(Hàn Mặc Tử, Tiêu sầu, câu 14, khổ 1,
trang 152)
Từ nhịp 3/4 truyền thống tách
thành nhịp 3/2/2, nhịp 3/3/1, nhịp 1/2/4,
nhịp 2/1/4. Chẳng hạn: Nhịp 3/2/2: Cái
cơn mơ/ những lộc/ những chồi.
(Chế Lan Viên, Cây giữa chu kỳ, câu 2,
khổ 3, tr. 474)
Nhịp 3/3/1: Bầy chó dữ/ những con
ngời-/ thú.
(Tố Hữu, Miền Nam, câu 3, khổ 11,
tr. 355)
Nhịp 1/2/4: Ôi!/ đêm nay/ trời trong
nh gơng.
(Hàn Mạc Tử, Tiêu sầu, câu 1, khổ 1, tr.
151)
Nhịp 2/1/4: Gậy trúc/ dắt/ bà già tóc
bạc.
(Nguyễn Bính, Xuân về, câu 3, khổ 4,
tr. 53)
- Tách nhịp 2/5 thành nhịp 2/3/2,
nhịp 2/4/1, nhịp 1/1/5. Chẳng hạn:
Nhịp 2/3/2: Khối tình/ nặng cả
mây/ cùng nớc.
(Xuân Diệu, Em chờ anh, câu 1, khổ 5,
tr. 421)
Nhịp 2/4/1: Qua sông, / đờng vẫn

bạt ngàn-/đi.
(Xuân Diệu, Đờng vào Nam,câu
4,khổ 8, tr. 448)
Nhịp 1/1/5 : Bắt!/ bắt!/ thơ bay
trong gió loạn.
(Hàn Mặc Tử, ớc ao, câu 3, khổ 1,
tr. 112)
- Tách nhịp 5/2 thành nhịp 1/4/2,
nhịp 5/1/1. Chẳng hạn:
Nhịp 1/4/2: Ôi!/ cái vui đồng chí,/
đồng bào.
(Tố Hữu, Xin gửi Miền Nam, câu 1, khổ
6, tr. 478)
Nhịp 5/1/1: Anh sốt ruột muốn
kêu:/em,/quá!
(Hàn Mặc Tử, Cuối xuân cới vợ, câu 4,
khổ 2, tr. 141)
- Nhịp 1/5/1, có thể đợc tách ra từ
nhịp 1/6 hoặc nhịp 6/1. Chẳng hạn:
Gớm!/ cứ loè nhau chi thế,/ cụ.
(Xuân Diệu, Một cuộc biểu tình, câu 10,
khổ 7, tr. 246)
2.2.2.3. Các loại nhịp biến thiên có
bốn nhịp/ câu
- Nhịp 2/2/1/2, chẳng hạn: Em
buồn,/ em nhớ,/ chao!/ em nhớ.
(Xuân Diệu, Đơn sơ, câu 3, khổ 1, tr. 76)
- Nhịp 3/2/1/1, chẳng hạn: Lạnh
lùng bay/ giữa gió,/ sơng,/ ma.
(Xuân Diệu, Muộn màng, câu 2, khổ 5,

tr. 90)
- Nhịp 3/1/1/2, chẳng hạn: Trái bởi
kia/ vàng/ ngọt/ với ai.
(Tố Hữu, Bác ơi, câu 1, khổ 4, tr. 429)
- Nhịp 1/2/2/2, chẳng hạn: Nhớ/ thì
đếm/ từng ngày,/ từng tháng.
(Xuân Diệu, Em chờ anh, câu 1, khổ 11,
tr. 422)
- Nhịp 2/2/2/1, chẳng hạn: Tìm ai,/
con hỏi,/ mẹ rằng:/ im!
(Tố Hữu, Quê mẹ, câu 2, khổ 10, tr. 254)
- Nhịp 1/3/1/2, chẳng hạn: Thèm,/
ăn măng trúc;/ đói,/ cơm khô
(Xuân Diệu, Ngọn Quốc kỳ, phần III,
câu 33, tr. 189)
- Nhịp 2/1/1/3, chẳng hạn: Sâu
bớm/ nhiều-/ hoa/ lại nối vòng
(Chế Lan Viên, Lại thấy thời gian, câu
1, khổ 2, tr. 120, tập 1)



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4B-2007




38
- Nhịp 1/1/2/3, chẳng hạn: ít,/
nhiều:/ với mẹ/ vẫn là con!

(Xuân Diệu, Hội nghị non sông, phần
III, tr. 211)
- Nhịp 4/1/1/1, chẳng hạn: Con ta
bập bẹ:/" ba,/ ba,/ má"
(Nguyễn Bính, Xuân nhớ Miền
nam, câu 9, khổ 2, tr. 137)
- Nhịp 2/1/2/2, chẳng hạn: (Trở về.
Nắng sáng cũng mong. Cây)
Cũng nhớ./ Ngõ/ cũng chờ./ Và
bớm
(Chế Lan Viên, Tập qua hàng, câu 3, tr.
609, tập 1)
- Nhịp 1/1/1/4, chẳng hạn: Không,/
không,/ không,/ tôi chẳng bán trăng.
(Hàn Mặc Tử, Trăng vàng trăng ngọc,
câu 1, khổ 2, tr. 90)
- Nhịp 1/2/1/3, chẳng hạn: Đi,/ bạn
ơi,/ đi!/ Biệt tháng ngày.
(Tố Hữu, Đi, câu 1, khổ 1, tr. 154)
- Nhịp 2/3/1/1, chẳng hạn: Tất cả/
chỉ trông vào / đốt, / giết!
(Xuân Diệu Ngời thợ rèn nghe chuyện
MN, câu 4, khổ, tr. 565)
2.2.2.4. Các loại nhịp phá cách, có 5
nhịp/ câu
- Nhịp 2/2/1/1/1, chẳng hạn: Nam
Định,/ Thái Bình,/ Cao,/ Lạng,/ Tuyên.
(Xuân Diệu, Mã Pí Lèng, câu 2, khổ 8,
tr. 510)
- Nhịp 1/1/1/2/2, chẳng hạn: Rơi,/

rơi,/ rơi,/ từng vết/ đỏ bầm
(Chế Lan Viên, Cây giữa chu kỳ, câu 4,
khổ 1, tr. 474, t. 1)
- Nhịp 1/1/2/1/2, chẳng hạn: Cam,/
quýt,/ thêm na, /ổi / rộn ràng.
(Xuân Diệu, Vờn Thuận Vi, câu 1, khổ
3, tr. 512)
- Nhịp 1/1/2/2/1, chẳng hạn: Thắm/
vàng/ tô điểm/ lối non,/ sông.
(Xuân Diệu, Hội nghị non sông, phần 3,
tr. 207)
- Nhịp 3/1/1/1/1, chẳng hạn: Trái
tim lớn/ yêu/ Chân/ Thiện/ Mỹ.
(Tố Hữu, Chào xuân 99!, câu 2, khổ 3,
tr. 704)
- Nhịp 1/1/1/1/3, chẳng hạn: Tề-/
thiên-/ đại- / thánh-/ náo thiên cung.
(Chế Lan Viên, Bay ngang mặt trời, câu
1, khổ 5, tr. 226, t.1)
- Nhịp 2/1/1/1/2, chẳng hạn: Anh
khâu/ đĩa-/ bấc-/ trầm-/ tâm lại.
(Chế Lan Viên, Lại thấy thời gian, câu
3, khổ 4, tr. 474, t. 1)
2.2.2.5. Nhịp phá cách có 6 nhịp/
câu
Loại nhịp này có trong hai câu thơ
mới bảy chữ của Hàn Mặc Tử.
Trăng,/ trăng,/ trăng,/ là trăng/
trăng,/ trăng.
(Hàn Mặc Tử, Trăng vàng trăng ngọc,

câu 1, khổ 1, tr. 90)
2.3. Nhận xét
Từ việc xác định các loại nhịp, tiến
hành tính đếm số lợng và tỷ lệ các loại
nhịp trong câu thơ mới bảy chữ, chúng
tôi bớc đầu có những nhận xét nh
sau:
2.3.1. Nh đã biết, nhịp điệu là
xơng sống của thơ. Bất kỳ một khổ thơ
nào cũng có một cấu trúc nhịp điệu
nhất định bởi không thể có tình trạng
tuỳ hứng về nhịp điệu. Nhịp điệu trong
câu thơ mới bảy chữ trớc hết là nhịp
4/3 của khuôn sáo thi điệu thất ngôn
truyền thống. Qua thống kê và miêu tả
chúng tôi thấy thơ mới bảy chữ có đến
4550 trên tổng số 7149 câu thơ ngắt
nhịp 4/3, chiếm 63,64%. Tính trung
bình cứ 1,5 câu thơ thì có một câu có
nhịp 4/3. Đó là một tỷ lệ hết sức cao nếu
nh ta khảo sát từng nhà thơ cụ thể.
Chẳng hạn, Nguyễn Bính có 898 câu



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4B-2007





39
thơ trong tổng số 1103 câu, chiếm
78,61% sử dụng nhịp 4/3. Nếu khảo sát
trong từng khổ thơ, từng bài thơ thì có
nhiều khổ thơ, bài thơ chỉ sử dụng nhịp
4/3. Chẳng hạn, Hàn Mặc Tử có đến 14
bài trên tổng số 46 bài thơ dùng duy
nhất nhịp 4/3 nh Hồn cúc, Đàn nguyệt,
Chuyến đò ngang, Thức khuya, Chùa
hoang, Đà lạt trăng mờ, Lu luyến
Thêm nữa, nếu xếp nhịp 3/4 cũng là
nhịp truyền thống của thất ngôn(có
trong thể song thất lục bát) thì loại
nhịp này đợc các nhà thơ sử dụng khá
phổ biến. Nhịp 3/4 có trong 845 câu thơ,
chiếm gần 11,85%. Sỡ dĩ các nhà thơ
mới kế thừa nhịp thơ truyền thống một
mặt do tâm lý sáng tác theo khuôn
mẫu, tuân thủ nguyên tắc của thơ
Đờng luật nhng mặt khác theo chúng
tôi đây là một sự kế thừa có dụng ý, có
tính khuynh hớng rõ ràng. Các nhà
thơ mới nhận thấy nhịp điệu truyền
thống của thất ngôn nói chung là khá tẻ
nhạt. Nếu không hoán cải cái nhịp điệu
ấy khiến nó trở thành đa dạng thì thơ
mới bảy chữ cũng không hơn gì thất
ngôn truyền thống. Nhng nhịp của bài
thơ cũng giống nh nhịp của một bản
nhạc, trớc hết phải có nhịp cơ bản và

trên cái nền nhịp cơ bản ấy tạo ra
những biến thiên khác để đem đến tính
đa dạng. Do đó, các nhà thơ mới cũng
phải kế thừa nhịp 4/3 và 3/4 trong các
câu thơ, bài thơ để tạo nên cái nền thể
loại. Và trên cái nền ấy, các nhà thơ lại
thoả sức tìm kiếm cách tổ chức nhịp
nhằm đạt đợc sự đa dạng tối đa về
nhịp điệu cho câu thơ mới bảy chữ.
2.3.2. Thơ mới bảy chữ thực sự đã
thực hiện đợc một sự đổi mới trong
việc kế thừa, đẩy sự kế thừa lên một
bớc mới trong tổ chức nhịp điệu câu
thơ. Nếu nh ở thơ thất ngôn truyền
thống có hai loại nhịp là 4/3 và nhịp 3/4
thì câu thơ mới bảy chữ có đến 42 loại
nhịp. Nh vậy, nhịp điệu trong câu thơ
mới bảy chữ đã vợt ra khỏi những luật
lệ cứng nhắc, những khuôn sáo nhịp
điệu truyền thống. Bây giờ nhịp thơ đã
là nhịp cảm xúc, đã biến thiên phong
phú, đa dạng cùng với nhiều cung bậc
tình cảm, nhiều biến thái tinh tế trong
đời sống nội tâm của nhà thơ. Sự đổi
mới và phát triển nhịp thơ trong câu
thơ mới bảy chữ hết sức linh hoạt,
nhiều vẻ. Các nhà thơ đã có ý thức về
công cụ mình sử dụng mà ở đây là nhịp
điệu. Hình thức đơn giản nhất là hoán
đổi nhịp điệu từ khuôn nhịp truyền

thống nh từ nhịp 4/3, các nhà thơ đã
hoán vị thành các loại nhịp 2/2/3, 4/2/1,
4/1/2, 3/1/3, 1/3/3; từ nhịp 3/4 hoán vị
thành các loại nhịp 3/2/2, 3/3/1, 1/2/4,
2/1/4. Thực hiện một sự cách tân nhịp
điệu, các nhà thơ đã tạo ra các loại nhịp
biến thiên có 4 nhịp/câu, 5 nhịp/câu,
thậm chí 6 nhịp/câu. Đó là các loại nhịp
2/2/1/2, 3/2/1/1, 3/1/1/2, 1/2/2/2 , các
loại nhịp 2/2/1/1/1, 1/1/1/2/2, 1/1/2/1/2 ,
đặc biệt có loại nhịp 1/1/1/2/1/1 trong
câu thơ Trăng,/ trăng,/ trăng,/ là
trăng/ trăng,/ trăng của Hàn Mặc Tử
[6, tr. 90]. Sự đột phá mạnh mẽ về nhịp
điệu thể hiện sự sáng tạo, cách tân của
nhà thơ trong việc tổ chức tiếng nói âm
nhạc làm cho câu thơ thích ứng với tính
đa dạng của nội dung, tức là đa dạng về
cảm xúc, tình cảm. Sự phá cách tới mức
tách ngắt câu thơ thành năm nhịp, sáu
nhịp để làm nổi bật dụng ý nghệ thuật
của mình so với nhịp 4/3 truyền thống
là một bớc đột phá đầy cá tính và bản
lĩnh, đi quá xa khuôn khổ nhịp thơ
truyền thống. Với 42 loại nhịp, câu thơ
mới bảy chữ đã tạo đợc sự đa dạng và
độc đáo, sự biến hoá và phóng túng
trong việc thể hiện thi hứng, cảm xúc,
tâm trạng của nhà thơ. Cố nhiên, cách




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4B-2007




40
tổ chức nhịp điệu trong câu thơ mới bảy
chữ ở từng nhà thơ là có sự khác nhau
vế số lợng và chất lợng. Kết quả khảo
sát cho thấy trong các nhà thơ thì Xuân
Diệu là ngời tiên phong cho sự đổi mới,
cách tân nhịp điệu với 31 loại nhịp
trong câu thơ bảy chữ. Sau Xuân Diệu
là Tố Hữu với 23 loại nhịp. Trong số các
nhà thơ chọn khảo sát, Nguyễn Bính là
nhà thơ thiên về tiếp thu nhịp thơ
truyền thống nên câu thơ bảy chữ của
ông chỉ có 8 loại nhịp và tối đa là ba
nhịp/câu. Nhng nhìn tổng thể, cách tổ
chức nhịp điệu trong câu thơ mới bảy
chữ thể hiện rõ nét sự vận động và phát
triển theo khuynh hớng tự do hoá của
ngôn ngữ thơ.
2.3.3. Khác với thất ngôn truyền
thống, cách tổ chức nhịp điệu trong câu
thơ mới bảy chữ quan hệ mật thiết với
thanh điệu và vần thơ. Trong câu thơ
mới bảy chữ, vị trí của tiếng hiệp vần

hết sức đa dạng. Việc lặp lại phần vần
giữa các tiếng trong câu thơ ngoài giá
trị biểu cảm còn là dấu hiệu nhịp điệu
của câu thơ. Mặt khác, cách ngắt nhịp
trong câu thơ cũng là một trong những
cơ sở để quy định vị trí của các tiếng
hiệp vần. Chẳng hạn, nhận ra đợc
nhịp 4/3 là dựa vào vần của các tiếng
trong câu thơ nh Hãy đến sông Hồng/
ngóng nứa xuôi [9, tr. 117, t. 1]. Hoặc
quan hệ giữa vần với nhịp 3/2/2 nh
Cây thông minh/hữu tình/ gió thổi [10,
tr. 535]
Trong câu thơ mới bảy chữ, nhịp
điệu còn có quan hệ với thanh điệu, tức
là thanh bằng, thanh trắc. Thơ thất
ngôn truyền thống có sự phân bố bằng
trắc tơng đối đều đặn tạo sự hài hoà,
cân xứng. Ngợc lại, do nhịp điệu câu
thơ mới bảy chữ biến thiên đa dạng nên
kéo theo sự biến thiên về thanh điệu
theo những cách thức tơng ứng. Câu
thơ mới bảy chữ có khi tập trung nhiều
thanh bằng, chỉ có hai thanh trắc đứng
sát nhau làm dấu hiệu nhịp điệu:
Xơng xây màu bạc/ dấu trăng vàng
(BBBT/TBB) [9, tr. 134, tr.1]. Có khi
thanh điệu giống nhau ở các tiếng luân
phiên nhịp điệu: Đổi trao,/ nhờng
nhịn/ giữa em,/ anh (TB/BT/TB/B) [10,

tr. 323]. Có khi các tiếng ở cuối các nhịp
luân phiên thanh điệu bằng trắc nh
Phòng lặng / rèm buông/ tắt ánh đèn
(BT/ BB/ TTB) [7, tr. 429]. Tóm lại,
trong câu thơ mới bảy chữ, nhịp điệu
đợc xác lập trong quan hệ với vần thơ
và thanh điệu. Sự tơng tác giữa chúng
tạo nên nhạc điệu cho câu thơ mới bảy
chữ, góp phần đổi mới ngôn ngữ thơ.
2.3.4. Nhịp điệu là một yếu tố mang
tính biểu trng ngữ nghĩa. Trong thơ,
nhịp điệu có tính chất mĩ học, do con
ngời sáng tạo nên để biểu đạt t
tởng, tình cảm. Trong trờng hợp tứ
thơ không siêu việt, câu thơ cha hay
về nội dung thì nhịp điệu lại đóng vai
trò hết sức quan trọng. Trong thơ mới
bảy chữ, các nhà thơ đã khoác lên câu
thơ thất ngôn truyền thống một dáng vẻ
mới, một hơi thở nồng nàn của cuộc
sống qua cách tổ chức nhịp điệu.
Bên cạnh tiếp thu truyền thống, sự
phá cách nhịp điệu trong câu thơ mới
bảy chữ là để diễn tả thế giới nội tâm
ngày càng đa dạng, tinh tế của con
ngời. Nhịp điệu trong câu thơ không
còn giữ vẻ đăng đối, hài hoà mà có sự
cải biến theo cá tính sáng tạo mang vẻ
đẹp khác lạ, ấn tợng. Để diễn tả những
cung bậc tình cảm biến thiên không

ngừng cần phải có các nhịp cách tân,
đột phá Anh chỉ là/ con chim bơ vơ.
Lạnh lùng bay/ giữa gió,/ sơng,/ ma
[10, tr. 90]. Khi nội dung câu thơ là kể
hay miêu tả cuộc sống bình thờng thì
các nhà thơ sử dụng nhịp bình thờng



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4B-2007




41
nhng để bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, thi
hứng tuôn trào phải cần đến nhịp điệu
đa dạng. Chẳng hạn: Gieo thoi/ gieo
thoi/ lại gieo thoi [8, tr.47]. Có khi nhịp
thơ chính là nỗi lòng ngổn ngang, là
nhịp tim thổn thức, là nhịp chân dồn
dập nh Trăng,/ trăng,/ trăng,/ là
trăng,/ trăng,/ trăng [6, tr.90]. Tính đa
dạng về nhịp điệu có khi là để giới thiệu
một lời nói, thể hiện một nội dung
thông báo gãy gọn nh Rằng:/ thơ với
Đảng/ nặng duyên tơ [7, tr.406], hay
Gậy trúc/ dắt/ bà già tóc bạc [8, tr.53].
Có một số trờng hợp sự đa dạng của
nhịp điệu chỉ đem đến sự đa dạng trong

cách đọc câu thơ bảy chữ mà không có
tác dụng biển cảm. Có những trờng
hợp nhịp điệu trong câu thơ là do yêu
cầu cú pháp, chẳng hạn, nhịp 6/1 trong
câu Cu ba đạp sóng trùng dơng,/ tiến
[7, tr.364].
Tóm lại, nhịp điệu có vai trò to
lớn trong việc biểu hiện và cảm thụ thi
ca. Sự đa dạng về nhịp điệu trong câu
thơ mới bảy chữ đợc tạo nên từ những
cung bậc tình cảm muôn vẻ, từ nguồn
thi hứng ngày càng rộng mở và tinh tế
của các nhà thơ.
3. Kết luận
3.1. Khảo sát 7149 câu thơ trong
388 bài thơ, chúng tôi đã xác lập đợc
42 loại nhịp trong câu thơ mới bảy chữ.
Trừ vài loại nhịp kế thừa thất ngôn
truyền thống còn lại chủ yếu là những
cách ngắt nhịp mới hết sức phong phú,
đa dạng và độc đáo. Từ một vài cách
ngắt nhịp truyền thống, các nhà thơ đã
sáng tạo, cách tân nhịp thơ bảy chữ
nhằm diễn tả sự phong phú của nhịp
điệu tâm hồn, nhịp cảm xúc, thi hứng
của thời đại mới. Tuy nhịp truyền thống
chỉ có một vài loại nhng tần số xuất
hiện lại chiếm u thế và là chỉ đạo, điều
đó chứng tỏ các nhà thơ có ý thức rõ
ràng về sự kế thừa và cách tân, kế thừa

là để cách tân. Kết quả, trên cái nền
nhịp điệu thể loại, các nhà thơ đã thực
hiện một sự đổi mới trong tổ chức nhịp
điệu nhằm tạo ra sự đa dạng về nhịp
cho câu thơ bảy chữ. Nh vậy, nhịp điệu
trong câu thơ mới bảy chữ đã vợt ra
khỏi những luật lệ cứng nhắc, những
khuôn sáo thi điệu truyền thống, biến
thiên đa dạng để thích ứng với những
cung bậc tình cảm, những biến thái
tinh tế trong đời sống nội tâm của con
ngời thời đại mới nhng vẫn phảng
phất d vị Đờng thi.
3.2. Nhịp điệu trong câu thơ mới
bảy chữ đợc tổ chức trong quan hệ chế
ớc với vần thơ và thanh điệu. Trong
nhiều trờng hợp nhịp điệu đợc xác
lập do sự chi phối của vần thơ, của
thanh điệu bằng trắc. Mặt khác cũng có
những trờng hợp nhịp điệu có vai trò
chế định cách hiệp vần giữa các tiếng
trong câu thơ, cách phân bổ tiếng bằng,
tiếng trắc theo những vị trí nhất định.
Sự chế ớc giữa các yếu tố nhịp điệu,
vần thơ và thanh điệu là cách các nhà
thơ tổ chức tiếng nói âm nhạc, tiếng nói
của cảm xúc nhằm bộc lộ một cách có
hiệu quả nhất nội dung câu thơ. Bởi
vậy, tuy âm hởng vẫn phảng phất
Đờng thi nhng câu thơ mới bảy chữ

trở nên hiện đại hơn, mới lạ hơn, ám
ảnh hơn câu thơ thất ngôn truyền
thống.
3.3. Nhịp điệu câu thơ mới bảy chữ
vừa giá trị hình thức vừa có giá trị nội
dung. Qua khảo sát 42 loại nhịp, chúng
ta nhận thấy vai trò to lớn của nó trong
câu thơ. Một sự đột phá về nhịp điệu
đầy cá tính và bản lĩnh của các nhà thơ
là để phô diễn thế giới nội tâm ngày
càng đa dạng, tinh tế của con ngời, của



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 4B-2007




42
thời đại mới. Tính đa dạng về nhịp điệu
trong câu thơ mới bảy chữ có khi là dấu
hiệu nhận diện một cá tính sáng tạo
của nhà thơ, có khi là do yêu cầu cú
pháp của câu thơ và/ hoặc đảm bảo sự
mạnh lạc về ngữ nghĩa câu thơ nhng
cũng có khi chỉ đem đến sự đa dạng
trong cách đọc câu thơ. Tóm lại, câu thơ
mới bảy chữ đã thực sự đổi mới về nhịp
điệu, đổi mới trên sự kế thừa, góp phần

phát triển ngôn ngữ thơ Việt Nam theo
khuynh hớng tự do hoá.

Tài liệu tham khảo

[1] Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001.
[2] Đinh Văn Đức, Sự biến đổi và phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam thế kỷ
XX, trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004.
[3] Dơng Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2002.
[4] Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại, NXB Đại
học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2003.
[5] Nguyễn Phơng Thuỳ, Vần, thanh điệu, nhịp điệu trong câu thơ mới bảy chữ,
Ngôn ngữ, 11, 2004.
[6] Thơ Hàn Mặc Tử, Sở văn hoá thông tin Nghĩa Bình, Nghĩa Bình, 1987.
[7] Thơ Tố Hữu, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2002.
[8] Tuyển tập thơ Nguyễn Bính, NXB Văn học, Hà Nội, 1986.
[9] Vũ Thị Thờng, Chế Lan Viên toàn tập, tập 1, 2 (thơ), NXB Văn học, Hà Nội,
2002.
[10] Xuân Diệu toàn tập, tập 1 (thơ), NXB Văn học, Hà Nội, 2001.

Summary

initial study of the rhythm of new seven-lined stanza

Any style of poetry has its particular rhythm structure. If the rhythm in
traditional seven-lined stanza is dull, the new seven-lined stanza has changed that
rhythm to be new, unconventional and diverse. Studying the new seven-lined stanza
we have identified 42 types of rhythm. This is a breakthrough with individuality
and ability of poets to display inner, tact, diverse world of new time and man. The
diversity of the rhythm of the seven- lined stanza, sometimes, is the signal to realize

the poets creativeness, or due to the poem sentence structure, or just answers the
demands of poem cohesion and diversity. This paper, to some extend, tried to prove
that idea.

(a)
Khoa Ngữ văn, Trờng đại học Vinh
(b)
CAO HọC 14 Lý LUậN NGÔN NGữ, Trờng đại học Vinh.

×