Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

KHÁI QUÁT ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN TP HỒ CHÍ MINH pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.18 KB, 19 trang )

KHÁI QUÁT ĐỊA LÍ TỰ
NHIÊN TP HỒ CHÍ MINH


Vị trí địa lý



Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong toạ độ địa lý khoảng 10 0 10’ – 10
0 38 vĩ độ bắc và 106 0 22’ – 106 054 ’ kinh độ đông . Phía Bắc giáp
tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh , Đông và Đông Bắc
giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, Tây và
Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.


Thành phố Hồ Chí Minh cách thủ đô Hà Nội gần 1.730km đường bộ,
nằm ở ngã tư quốc tế giữa các con đường hàng hải từ Bắc xuống
Nam , từ đông sang tây, là tâm điểm của khu vực Đông Nam Á. Trung
tâm thành phố cách bờ biển Đông 50 km đường chim bay. Đây là đầu
mối giao thông nối liền các tỉnh trong vùng và là cửa ngõ quốc tế .
Với hệ thống cảng và sân bay lớn nhất cả nước , cảng Sài Gòn với
năng lực hoạt động 10 triệu tấn /năm. Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất
với hàng chục đường bay chỉ cách trung tâm thành phố 7km.

Ðịa hình

Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Ðông
Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Ðịa hình tổng quát có dạng
thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Ðông sang Tây. Nó có thể chia
thành 3 tiểu vùng địa hình


Vùng cao nằm ở phía Bắc - Ðông Bắc và một phần Tây Bắc (thuộc bắc
huyện Củ Chi, đông bắc quận Thủ Ðức và quận 9), với dạng địa hình
lượn sóng, độ cao trung bình 10-25 m và xen kẽ có những đồi gò độ
cao cao nhất tới 32m, như đồi Long Bình (quận 9).

Vùng thấp trũng ở phía Nam-Tây Nam và Ðông Nam thành phố
(thuộc các quận 9, 8,7 và các huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ).
Vùng này có độ cao trung bình trên dưới 1m và cao nhất 2m, thấp
nhất 0,5m.

Vùng trung bình, phân bố ở khu vực Trung tâm Thành phố, gồm
phần lớn nội thành cũ, một phần các quận 2, Thủ Ðức, toàn bộ quận
12 và huyện Hóc Môn. Vùng này có độ cao trung bình 5-10m.

Nhìn chung, địa hình Thành phố Hồ Chí Minh không phức tạp, song
cũng khá đa dạng, có điều kiện để phát triển nhiều mặt.

Khí hậu, thời tiết

Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích
đạo. Cũng như các tỉnh ở Nam bộ, đặc điểm chung của khí hậu-thời
tiết TPHCM là nhiệt độ cao đều trong năm và có hai mùa mưa - khô
rõ ràng làm tác động chi phối môi trường cảnh quan sâu sắc. Mùa
mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm
sau. Theo tài liệu quan trắc nhiều năm của trạm Tân Sơn Nhất, qua
các yếu tố khí tượng chủ yếu; cho thấy những đặc trưng khí hậu
Thành Phố Hồ Chí Minh như sau:

- Lượng bức xạ dồi dào, trung bình khoảng 140 Kcal/cm2/năm. Số
giờ nắng trung bình/tháng 160-270 giờ. Nhiệt độ không khí trung

bình 270C. Nhiệt độ cao tuyệt đối 400C, nhiệt độ thấp tuyệt đối
13,80C. Tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất là tháng 4 (28,80C),
tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất là khoảng giữa tháng 12 và
tháng 1 (25,70C). Hàng năm có tới trên 330 ngày có nhiệt độ trung
bình 25-280C. Ðiều kiện nhiệt độ và ánh sáng thuận lợi cho sự phát
triển các chủng loại cây trồng và vật nuôi đạt năng suất sinh học cao;
đồng thời đẩy nhanh quá trình phân hủy chất hữu cơ chứa trong các
chất thải, góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường đô thị.

- Lượng mưa cao, bình quân/năm 1.949 mm. Năm cao nhất 2.718
mm (1908) và năm nhỏ nhất 1.392 mm (1958). Số ngày mưa trung
bình/năm là 159 ngày. Khoảng 90% lượng mưa hàng năm tập trung
vào các tháng mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11; trong đó hai tháng
6 và 9 thường có lượng mưa cao nhất. Các tháng 1,2,3 mưa rất ít,
lượng mưa không đáng kể. Trên phạm vi không gian thành phố,
lượng mưa phân bố không đều, có khuynh hướng tăng dần theo trục
Tây Nam - Ðông Bắc. Ðại bộ phận các quận nội thành và các huyện
phía Bắc thường có lượng mưa cao hơn các quận huyện phía Nam và
Tây Nam.

- Ðộ ẩm tương đối của không khí bình quân/năm 79,5%; bình quân
mùa mưa 80% và trị số cao tuyệt đối tới 100%; bình quân mùa khô
74,5% và mức thấp tuyệt đối xuống tới 20%.

- Về gió, Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió
chính và chủ yếu là gió mùa Tây - Tây Nam và Bắc - Ðông Bắc. Gió
Tây -Tây Nam từ Ấn Ðộ Dương thổi vào trong mùa mưa, khoảng từ
tháng 6 đến tháng 10, tốc độ trung bình 3,6m/s và gió thổi mạnh
nhất vào tháng 8, tốc độ trung bình 4,5 m/s. Gió Bắc- Ðông Bắc từ
biển Đông thổi vào trong mùa khô, khoảng từ tháng 11 đến tháng 2,

tốc độ trung bình 2,4 m/s. Ngoài ra có gió tín phong, hướng Nam -
Ðông Nam, khoảng từ tháng 3 đến tháng 5 tốc độ trung bình 3,7 m/s.
Về cơ bản TPHCM thuộc vùng không có gió bão. Năm 1997, do biến
động bởi hiện tượng El-Nino gây nên cơn bão số 5, chỉ một phần
huyện Cần Giờ bị ảnh hưởng ở mức độ nhẹ.

Ðịa chất - đất đai

Ðất đai Thành phố Hồ Chí Minh được hình thành trên hai tướng
trầm tích-trầm tích Pleieixtoxen và trầm tích Holoxen.

Trầm tích Pleixtoxen (trầm tích phù sa cổ): chiếm hầu hết phần phía
Bắc, Tây Bắc và Ðông Bắc thành phố, gồm phần lớn các huyện Củ Chi,
Hóc môn, Bắc Bình Chánh, quận Thủ Ðức, Bắc-Ðông Bắc quận 9 và
đại bộ phận khu vực nội thành cũ.

Ðiểm chung của tướng trầm tích này, thường là địa hình đồi gò hoặc
lượn sóng, cao từ 20-25m và xuống tới 3-4m, mặt nghiêng về hướng
Ðông Nam. Dưới tác động tổng hợp của nhiều yếu tố tự nhiên như
sinh vật, khí hậu, thời gian và hoạt động của con người, qua quá
trình xói mòn và rữa trôi , trầm tích phù sa cổ đã phát triển thành
nhóm đất mang những đặc trưng riêng. Nhóm đất xám, với qui mô
hơn 45.000 ha, tức chiếm tỷ lệ 23,4% diện tích đất thành phố.

Ở thành phố Hồ Chí Minh, đất xám có ba loại: đất xám cao, có nơi bị
bạc màu; đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng và đất xám gley; trong đó,
hai loại đầu chiếm phần lớn diện tích. Ð?t xám nói chung có thành
phần cơ giới chủ yếu là cát pha đến thịt nhẹ, khả năng giữ nước kém;
mực nước ngầm tùy nơi và tùy mùa biến động sâu từ 1-2m đến 15m.
Ðất chua, độ pH khoảng 4,0-5,0. Ðất xám tuy nghèo dinh dưỡng,

nhưng đất có tầng dày, nên thích hợp cho sự phát triển của nhiều
loại cây trồng nông lâm nghiệp, có khả năng cho năng suất và hiệu
qủa kinh tế cao, nếu áp dụng biện pháp luân canh, thâm canh tốt.
Nền đất xám, phù hợp đối với sử dụng bố trí các công trình xây dựng
cơ bản.

Trầm tích Holoxen (trầm tích phù sa trẻ): tại thành phố Hồ Chí Minh,
trầm tích này có nhiều nguồn gốc-ven biển, vũng vịnh, sông biển,
aluvi lòng sông và bãi bồi nên đã hình thành nhiều loại đất khác
nhau: nhóm đất phù sa có diện tích 15.100 ha (7,8%), nhóm đất
phèn 40.800 ha (21,2%) và đất phèn mặn (45.500 ha (23,6). Ngoài
ra có một diện tích nhỏ khoảng hơn 400 ha (0,2%) là "giồng" cát gần
biển và đất feralite vàng nâu bị xói mòn trơ sỏi đá ở vùng đồi gò.

+ Nhóm đất phù sa không hoặc bị nhiễm phèn, phân bố ở những nơi
địa hình hơi cao khoảng 1,5-2,0m. Nó tập trung tại vùng giữa của
phía Nam huyện Bình Chánh, Ðông Quận 7, Bắc huyện Nhà Bè và
một ít nơi ở Củ Chi, Hóc Môn.

Nhóm đất phù sa hai loại: đ?t phù sa không được bồi, có tầng loang
lổ; đất phù sa không được bồi, gley. Trong đó hai loại đầu chiếm diện
tích lớn hơn; loại sau, là đất phù sa ngọt, đất rất tốt, chỉ có khoảng
5.200 ha (2,7%). Ð?t phù sa nói chung có thành phần cơ giới từ sét
trung bình tới sét nặng. Ðất có phản ứng chua, độ pH khoảng 4,2-4,5
ở tầng đất mặt và xuống sâu 0,5-1,2m độ chua giảm nhiều, pH nâng
lên tới 5,5-6,0. Hàm lượng mùn trung bình, các chất dinh dưỡng khá.
Là loại đất màu mỡ, thuận lợi cho phát triển trồng lúa cao sản, chất
lượng tốt.

+ Nhóm đất phèn, có hai loại: đất phèn nhiều và đất phèn trung bình.

Chúng phân bố tập trung chủ yếu ở hai vùng. Vùng đất phèn Tây
Nam Thành phố, kéo dài từ Tam Tân-Thái Mỹ huyện Củ Chi xuống
khu vực Tây Nam huyện Bình Chánh -các xã Tân Tạo, Phạm Văn Hai,
Lê Minh Xuân Vùng này hầu hết thuộc loại đất phèn nhiều (phèn
nặng); đất rất chua, độ pH khoảng 2,3-3,0. Nó cùng điều kiện thành
tạo và tính chất giống như đất phèn vùng Ðồng Tháp Mười. Vùng đất
phèn ven sông Sài Gòn-Rạch Tra và bưng Sáu xã quận 9. ở đây hầu
hết diện tích thuộc loại đất phèn trung bình và ít, phản ứng của đất
chua nhẹ ở tầng đất mặt, độ pH khoảng 4,5-5,0; song giảm mạnh ở
tầng đất dưới, đất rất chua, độ pH xuống tới 3,0-3,5.

Ðất phèn có thành phần cơ giới từ sét đến sét nặng, đất chặt và bí.
Dưới độ sâu khoảng từ 1m trở xuống, có nhiều xác hữu cơ nên đất
xốp hơn. Ðất khá giàu mùn, chất dinh dưỡng trung bình; song hàm
lượng các ion độc tố cao, nên trên đất phèn không thích hợp với
trồng lúa. Tuy nhiên, tăng cường biện pháp thủy lợi tưới tiêu tự chảy
để rửa phèn, có thể chuyển đất canh tác từ một vụ sang hai vụ lúa .
Ngoài ra, đất phèn rất phù hợp với các cây khóm, mía, điều và các
cây lâm nghiệp như tràm, bạch đàn và một số loài keo Acasia.

Nhóm đất phèn mặn: Ở thành phố Hồ Chí Minh, nhóm đất phèn mặn
là nhóm có diện tích lớn nhất. Nó phân bố tập trung ở đại bộ phận
lãnh thổ huyện Nhà Bè và hầu như toàn bộ huyện Cần Giờ. Theo độ
mặn và thời gian ngập mặn, nhóm đất mặn được chia làm hai loại:
đất phèn mặn theo mùa và đất phèn mặn thường xuyên (còn gọi là
đất mặn dưới rừng ngập mặn).

Ðất phèn mặn theo mùa có diện tích 10.500 ha, phân bố ở Nhà Bè và
bắc huyện Cần Giờ. Thời gian bị mặn kéo dài từ tháng 12 đến tháng 6
hoặc tháng 7 năm sau. Ð?t thịt, giàu mùn, chứa nhiều xác hữu cơ

dưới môi trường yếm khí, chất dinh dưỡng khá; phản ứng của đất từ
chua đến rất chua, pH ở độ sâu tầng sinh phèn xuống tới 2,4-2,7. Tuy
nhiên, về mùa lũ, mặn bị đẩy ra xa và nước được pha loãng trong
thời gian dài 4-5 tháng; đồng thời đất có lớp phủ phù sa dày tới 20-
30 cm, nên vẫn cấy được một vụ lúa với năng suất khoảng 2,0-2,0
tấn/ha. Ðể đạt hiệu quả kinh tế cao hơn, vùng này đã và đang chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và phương thức canh tác-các loài cây
ăn quả, cây rừng, nuôi tôm theo các mô hình nông-lâm-ngư kết
hợp.

Ðất mặn dưới rừng ngập mặn: Loại đất này rộng 35.000 ha, chiếm
phần lớn diện tích huyện Cần Giờ. Ðất thịt trung bình, màu xám đen,
nhiều mùn nhão lẫn xác hữu cơ bán phân giải, bị ngập triều thường
ngày, nói chung đất còn ở dạng bùn lỏng chưa cố định, giàu chất dinh
dưỡng, độ pH tầng đất trên 5,8-6,5. Ðất ngập mặn, phù hợp với duy
trì và phát triển các loại cây rừng ngập mặn, nhằm giữ bờ lấn biển,
bảo vệ môi trường cảnh quan, phục vụ phát triển du lịch sinh thái và
nuôi dưỡng hệ sinh thái giàu tiềm năng ở vùng ven biển phía nam
của thành phố.

Nhược điểm chung của hai loại đất phèn mặn là nền đất yếu, nhất là
đất phèn mặn thường xuyên; do đó có mặt hạn chế trong xây dựng
cơ bản, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Tuy nhiên, lại rất thuận lợi
đối với phát triển giao thông đường thủy, bởi hệ thống sông rạch tự
nhiên mật độ rất dày, chiếm tới gần 1/3 diện tích lãnh thổ của cả
nhóm đất.

Nguồn nước và thủy văn

Về nguồn nước, nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài

Gòn, thành phố Hồ Chí minh có mạng lưới sông ngòi kênh rạch rất
phát triển.



Sông Ðồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Langbiang (Ðà Lạt) và hợp
lưu bởi nhiều sông khác, như sông La Ngà, sông Bé, nên có lưu vực
lớn, khoảng 45.000 km2. Nó có lưu lượng bình quân 20-500 m3/s và
lưu lượng cao nhất trong mùa lũ lên tới 10.000 m3/s, hàng năm
cung cấp 15 tỷ m3 nước và là nguồn nước ngọt chính của thành phố
Hồ Chí Minh. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng Hớn Quản, chảy qua
Thủ Dầu Một đến thành phố với chiều dài 200 km và chảy dọc trên
địa phận thành phố dài 80 km. Hệ thống các chi lưu của sông Sài Gòn
rất nhiều và có lưu lượng trung bình vào khoảng 54 m3/s. Bề rộng
của sông Sài Gòn tại Thành phố thay đổi từ 225m đến 370m và độ
sâu tới 20m. Sông Ðồng Nai nối thông qua sông Sài Gòn ở phần nội
thành mở rộng, bởi hệ thống kênh Rạch Chiếc. Sông Nhà Bè hình
thành từ chỗ hợp lưu của sông Ðồng Nai và sông Sài Gòn, các trung
tâm thành phố khoảng 5km về phía Ðông Nam. Nó chảy ra biển Ðông
bằng hai ngả chính -ngả Soài Rạp dài 59km, bề rộng trung bình 2km,
lòng sông cạn, tốc độ dòng chảy chậm; ngả Lòng Tàu đổ ra vịnh Gành
Rái, dài 56km, bề rộng trung bình 0,5km, lòng sông sâu, là đường
thủy chính cho tàu bè ra vào bến cảng Sài Gòn.

Ngoài trục các sông chính kể trên ra, thành phố còn có mạng lưới
kênh rạch chằng chịt, như ở hệ thống sông Sài Gòn có các rạch Láng
The, Bàu Nông, rạch Tra, Bến Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông,
Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Bến Nghé, Lò Gốm, Kênh Tẻ, Tàu Hũ, Kênh Ðôi
và ở phần phía Nam Thành phố thuộc địa bàn các huyện Nhà Bè, Cần
Giờ mật độ kênh rạch dày đặc; cùng với hệ thống kênh cấp 3-4 của

kênh Ðông-Củ Chi và các kênh đào An Hạ, kênh Xáng, Bình Chánh đã
giúp cho việc tưới tiêu kết quả, giao lưu thuận lợi và đang dần dần
từng bước thực hiện các dự án giải tỏa, nạo vét kênh rạch, chỉnh
trang ven bờ, tô điểm vẻ đẹp cảnh quan sông nước, phát huy lợi thế
hiếm có đối với một đô thị lớn.

Nước ngầm ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhìn chung khá phong phú
tập trung ở vùng nửa phần phía Bắc-trên trầm tích Pleixtoxen; càng
xuống phía Nam (Nam Bình Chánh, quận 7, Nhà Bè, Cần Giờ)-trên
trầm tích Holoxen, nước ngầm thường bị nhiễm phèn, nhiễm mặn.

Ðại bộ phận khu vực nội thành cũ có nguồn nước ngầm rất đáng kể,
nhưng chất lượng nước không tốt lắm. Tuy nhiên, trong khu vực
này, nước ngầm vẫn thường được khai thác ở ba tầng chủ yếu: 0-
20m, 60-90m và 170-200m. Khu vực các quận huyện 12, Hóc môn và
Củ Chi có trữ lượng nước ngầm rất dồi dào, chất lượng nước rất tốt,
thường được khai thác ở tầng 60-90m. Ðây là nguồn nước bổ sung
quan trọng của thành phố.

Về thủy văn, hầu hết các sông rạch Thành phố Hồ Chí Minh đều chịu
ảnh hưởng dao động triều bán nhật của biển Ðông. Mỗi ngày, nước
lên xuống hai lần, theo đó thủy triều thâm nhập sâu vào các kênh
rạch trong thành phố, gây nên tác động không nhỏ đối với sản xuất
nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội thành.

Mực nước triều bình quân cao nhất là 1,10m. Tháng có mực nước
cao nhất là tháng 10-11, thấp nhất là các tháng 6-7. Về mùa khô, lưu
lượng của nguồn các sông nhỏ, độ mặn 4% có thể xâm nhập trên
sông Sài Gòn đến quá Lái Thiêu, có năm đến đến tận Thủ Dầu Một và
trên sông Ðồng Nai đến Long Ðại. Mùa mưa lưu lượng của nguồn

lớn, nên mặn bị đẩy lùi ra xa hơn và độ mặn bị pha loãng đi nhiều.

Từ khi có các công trình thủy điện Trị An và thủy lợi Dầu Tiếng ở
thượng nguồn, chế độ chảy tự nhiên chuyển sang chế độ chảy điều
tiết qua tuốt bin, đập tràn và cống đóng-xả, nên môi trường vùng hạ
du từ Bắc Nhà Bè trở nên chịu ảnh hưởng của nguồn, nói chung đã
được cải thiện theo chiều hướng ngọt hóa. Dòng chảy vào mùa kiệt
tăng lên, đặc biệt trong các tháng từ tháng 2 đến tháng 5 tăng 3-6 lần
so với tự nhiên. Vào mùa mưa, lượng nước được điều tiết giữ lại trên
hồ, làm giảm thiểu khả năng úng lụt đối với những vùng trũng thấp;
nhưng ngược lại, nước mặn lại xâm nhập vào sâu hơn. Tuy nhiên,
nhìn chung, đã mở rộng được diện tích cây trồng bằng việc tăng vụ
mùa canh tác. Ngoài ra, việc phát triển các hệ thống kênh mương, đã
có tác dụng nâng cao mực nước ngầm trên tầng mặt lên 2-3m, tăng
thêm nguồn cung cấp nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của
thành phố.

Thảm thực vật

Trên cơ sở các yếu tố cơ bản của điều kiện tự nhiên ở thành phố Hồ
Chí Minh, như đã trình bày; người ta đã khái quát hóa thành ba kiểu
sinh thái cảnh-kiểu lập địa-mà, tương ứng với nó là ba hệ sinh thái
thảm thực vật rừng tiêu biểu; rừng nhiệt đới ẩm mưa mùa, rừng úng
phèn và rừng ngập mặn. Các thảm thực vật rừng nguyên sinh, hiện
tại hầu như không còn; song sự tìm hiểu nó sẽ giúp ích cho việc đánh
giá tiềm năng điều kiện lập địa, xác định phương hướng phục hồi và
xây dựng các thảm thực vật đạt hiệu quả mong muốn, nhất là về
cảnh quan, môI trường sinh thái ở một Thành phố đông dân cư của
vùng nhiệt đới.


Ba hệ sinh thái rừng

Hệ sinh thái rừng nhiệt đới ẩm mưa mùa Ðông Nam Bộ

Hệ sinh thái rừng này vốn có ở Củ Chi và Thủ Ðức. Theo một số tài
liệu nghiên cứu cho biết, rừng nguyên sinh Củ Chi là rừng kín
thường xanh ưu thế cây họ Dầu (Dipterocarpaceae) và trong cấu
trúc tổ thành hỗn giao có khoảng 20-30% các loài cây rụng lá thuộc
họ Ðậu (Leguminosea), họ Tử vi (Lythraceae), đều ở tầng nhô và
tầng tán rừng. Các cây họ Dầu hiện còn tồn tại ở các đốm rừng thứ
sinh khu địa đạo Bến Ðình, có 5 loài là: Dầu lông (Dipterocarpus
intricatus), Sến mủ (Shorea cochinchinensis), Vên vên (Anisoptera
costata), Sao đen (Hopea odorata), và một loài gỗ quý nổi tiếng như:
Cẩm lai (Dalbergia bariensis), Gõ mật (Sindora siamensis), Trắc
(Dalbergia cochinchinensis), Xoay (Dialium cochinchinensis), Căm
xe (Xylia dolabriformis) và trong họ Tử vi có một loài Bằng lăng ổi
(lagerstroemia tomentosa) rụng lá trong mùa khô. Tầng dưới tán có
cây Mã tiền hay còn gọi là cây Củ Chi (Strychnos nux vomica), Cù đèn
(Croton sp), Bời lời và ở bìa rừng hay dưới lỗ trống có Lim xẹt
(Peltophorum dasyrachi), Cò ke (Grewia paniculata), Lòng mức
(Wrightia annamensis). Do vậy, rừng Củ Chi là kiểu rừng ẩm hơi khô
và tương tự như rừng vùng Samát-Cà Tum (Tây Ninh), trên nền đất
phù sa cổ tỷ lệ cát cao-địa hình đồi gò thấp lượn sóng nhẹ đến bằng.
Còn ở Thủ Ðức, rừng nguyên sinh tương đồng với kiểu rừng ẩm điển
hình ở Ðông Nam Bộ, như những cánh rừng ở khu vực Hố Nai, Trảng
Bom trước đây, hoặc khu vực Mã Ðà (Ðồng Nai) hiện nay, trên địa
hình đồi lượn sóng mạnh có nền đất xen kẽ giữa phù sa cổ, đá phiến
sét và các đá acide khác. Trong đó, tổ thành rừng không thấy xuất
hiện các loài cây Dầu chịu khô ở rừng Củ Chi như Dầu lông
(Dipterocarpus intricatus), mà ưu thế lại là các loài cây Dầu rừng ẩm,

như Dầu rái lá lớn (Dipterocarpus alatus), Dầu Song nàng
(Dipterocarpus dyeri).

Những năm qua, cùng với việc khoanh nuôi bảo vệ những mảnh
rừng thứ sinh còn sót lại, chủ yếu là rừng chồi quanh các khu địa đạo
Bến Dược, Bến Ðình, Hố Bò ở Củ Chi, đã bước đầu tiến hành nghiên
cứu phục chế kiểu rừng kín ẩm thường xanh, trồng rừng gỗ lớn gỗ
quý và gần đây đang mở ra dự án vườn sưu tập thảo mộc, kết hợp
với xây dựng hoàn chỉnh khu rừng lịch sử. Ở khu vưc đ?i Long Binh
Quận 9, có dự án xây dựng khu công viên văn hóa dân tộc với quy
mô trên 400ha, trong đó việc tạo lập thảm thực vật cũng là nội dung
trọng yếu.

Hệ sinh thái rừng úng phèn

Thảm thực vật rừng tự nhiên trên vùng đất phèn Thành phố Hồ Chí
Minh rất nghèo nàn. Các cánh rừng Tràm tự nhiên (Melaleuca
leucadendron) trên giải diện tích rộng lớn khi xưa ở Tây Nam Củ Chi,
Bình Chánh, Hóc môn, Nhà Bè, do khai thác và canh tác của con
người, nay hầu như không còn nữa, chỉ sót lại số ít rặng cây ở dạng
chồi bụi, hoặc một vài ha rừng Tràm trồng còn được bảo tồn ở Trạm
thí nghiệm Tân Tạo (Bình Chánh). Vùng này, nơi đất thấp hiện nay
có cỏ Năng (Heleocharis dulcis), Cỏ Mồm (Ischaemum indicum),
Ráng đại (Acrostichum aureum) và dưới kênh rạch có Bông súng
(Nymphea stellata), Rong trứng (Utricularia flexuosa) Trên những
nơi đất cao, thường gặp Ð? (Saocharum spontaneum), Sậy
(Pharagmitekarta), Bí bái (Acronychia laurifolia), Bình bát (Annona
glabra), Mua (Melastoma affine), Dành dành (Gardenia jasminoides)
và một số loài dây leo ưu phèn.


Từ sau giải phóng (1975), thực hiện chủ trương dãn dân, phát triển
các cụm kinh tế mới và xây dựng các nông trường, đất phèn hoang
dã được đưa vào sử dụng ngày càng nhiều. Ngoài việc mở rộng diện
tích trồng lúa, mía, thơm, hoa màu và các cây ăn quả lưu niên ra,
phong trào trồng rừng và trồng cây phân tán của nhân dân đã phát
triển rất mạnh, với chủ yếu hai loài cây Bạch đàn trắng (Acasia
Auriculiformis), Keo tai tượng (Acasia mangium), So đũa (Sesbania
grandiflora) Nhờ vậy, môi trường sinh thái vùng ngập phèn ngoại
thành đã nhanh chóng được cải thiện và đang từng bước trở thành
trù phú

Hệ sinh thái rừng ngập mặn

Rừng ngập mặn tập trung ở huyện Cần Giờ (phía Nam Thành phố)
vốn là rừng nguyên sinh, xuất hiện đã lâu năm theo lịch sử của quá
trình hình thành bãi bồi cửa sông ven biển; ưu thế loài cây đước
(Rhizophora apiculata) có kích thước lớn; với hệ thực vật khá phong
phú-104 loài thuộc 48 họ. Thời thuộc Pháp, nó là rừng cấm, song,
khoảng từ năm 1961-1970 bị các đợt khai quang rải chất độc hóa
học của Mỹ, nên có tới 80% diện tích rừng vùng này bị hủy diệt,
khiến đại bộ phận đất đai trở thành những trảng cỏ cây bụi thứ sinh.
Từ năm 1978, thành phố Hồ Chí Minh đã đầu tư trồng phục hồi hàng
chục ngàn ha rừng đước, chủ yếu tập trung vào khoảng thời gian
1978-1986. Ngoài ra, ở phía Bắc huyện thuộc vùng nước lợ, rải rác
trồng Dừa nước (Nypa fruticans), trồng Tràm và sau đó phát triển
thêm cây Bạch đàn, cây Ðiều.

Về cấu trúc quần thể thực vật rừng ngập mặn, sự phân bố các quần
xã phụ thuộc rõ rệt vào điều kiện lập địa-mà ở vùng ngập mặn, thì
mức độ ngập thủy triều và độ dẽ chặt của đất là yếu tố chi phối chủ

yếu. Nhìn chung, các quần xã thực vật quen thuộc ở rừng ngập mặn
phía Nam nước ta, hầu như đều hiện diện tại Cần Giờ. Ngoài một số
trên diện tích không lớn đất "giồng" đã được canh tác nông nghiệp
và trồng cây vườn ra, ở Cần Giờ hiện có các quần xã thực vật tự
nhiên chủ yếu, được hình thành và phân bố tuần tự từ nơi đất thấp,
bùn lỏng chưa cố định đến nơi cao ít ngập triều đất đã có định, như:
quần xã Mấm có các hợp tác xã Mấm thuần loại-Mấm trắng
(Avicennia alba), Mấm đen (Avicennia officinalis); các quần xã mấm
hỗn giao với đước hoặc với Bần trắng (Sonneratia alba); quần xã Dà
+ Mấm có các xã hợp Dà + Mấm đen (ceriop tagal + Avicenniaalba);
quần xã Chà là có các xã hợp Chà là thuần loại (Phoenix paludosa),
Chà là + Ráng đại (Acrostichum aureum), Chà là + Giá (Excoecaria
agallocha) và nhiều loài cây khác như Sú, Cóc (Lumnitzera
racemosa) ; thể hiện quy luật diễn thế thảm thực vật rừng ngập
mặn, theo độ cao địa hình một cách rõ rệt và nhạy cảm.

Từ khi phục hồi, môi trường sinh thái vùng ngập mặn Cần Giờ được
cải thiện, chim, thú đã dần dần tái hiện, như cá sấu, khỉ, heo, chồn,
cáo, trăn, rắn và hàng chục loài chim. Ðồng thời, sản lượng tôm cá
vùng rừng ngập mặn cũng ngày càng nâng cao. Tác dụng to lớn của
rừng ngập mặn Cần Giờ, là bảo vệ bờ lấn biển và về lâu dài, còn là
giữ vai trò "lá phổi" điều hòa khí hậu cho Thành phố, cho các vùng
lân cận và tô điểm cảnh quan phục vụ phát triển du lịch.

×