SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị: TRƯỜNG THCS & THPT BÀU HÀM
Mã số:
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP
KHI TIẾN HÀNH MỘT SỐ THÍ NGHIỆM HÓA
HỌC Ở THCS
Người thực hiện: Lê Quốc Thông
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục
- Phương pháp dạy học bộ môn: . Hóa học
- Lĩnh vực khác:
(Ghi rõ tên lĩnh vực)
Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN
Mô hình Phần mềm Phim ảnh Hiện vật khác
Năm học: 2012 - 2013
BM 01- Bia SKKN
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Lê Quốc Thông
2. Ngày tháng năm sinh: 22/09/1978
3. Nam, nữ: Nam
4. Địa chỉ: Số 78 Đường Sông Thao – Bàu Hàm - Ấp Hưng Bình, Xã Hưng
Thịnh, Huyện Trảng Bom, Tỉnh Đồng nai
5. Điện thoại: (CQ)/ (NR); ĐTDĐ: 0906311790
6. Fax: E-mail:
7. Chức vụ: Chủ Tịch Công Đoàn
8. Đơn vị công tác: Trường THCS & THPT Bàu Hàm
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử Nhân Hóa học
- Năm nhận bằng: 2000
- Chuyên ngành đào tạo: Hóa học
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Hóa, lí
Số năm có kinh nghiệm: 13
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
+ Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 8 giải tốt một số bài tập định lượng
+ Một số kinh nghiệm khi sử dụng microsoft power point trong thiết kế giáo án
điện tử môn hóa”
+ Xây dựng graph vào hướng dẫn học sinh giải bài tập hóa hóc thcs
+ Một số điểm cần lưu ý khi tiến hành một số thí nghiệm hóa học ở lớp 8, 9
+ Một số kinh nghiệm giúp học sinh THCS giải tốt bài tập tính theo phương
trình hóa học
BM02- LLKHSKKN
LLKHSKKN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ
PHƯƠNG PHÁP KHI TIẾN HÀNH MỘT SỐ THÍ
NGHIỆM HÓA HỌC Ở THCS
A/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nền giáo dục của ta hiện nay là giáo dục toàn diện, học sinh phải được trang bị đầy
đủ kiến thức các bộ môn kể cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Trong đó có
bộ môn hoá học.
Hoá học là khoa học thực nghiệm, trong đó thí nghiệm hoá học giữ vai trò
đặc biệt quan trọng như một bộ phận không thể tách rời của quá trình dạy-học. Thí
nghiệm hoá học được sử dụng trong toàn bộ quá trình nhận thức, phát triển, giáo
dục của học sinh. Vì vậy, có thể nói thí nghiệm là cơ sở của việc học hoá học và để
rèn luyện kĩ năng, tư duy, thực hành, củng cố niềm tin khoa học của học sinh, giúp
học sinh hình thành những tính tốt của người lao động trong thời đại mới: thận
trọng, ngăn nắp, gọn gàng.
Là một trường đầu vào là học sinh yếu, mất căn bản, ham chơi hơn ham
học, tiếp thu bài chậm, khả năng tư duy và suy luận còn hạn chế. Học sinh đến lớp
với thái độ thụ động, ít tập trung trong các giờ học, từ đó dẫn đến chất lượng học
tập còn kém. Do đó thực hành thí nghiệm là cơ sở để học sinh rèn luyện kĩ năng, kĩ
xảo và kĩ thuật tiến hành thí nghiệm, qua đó củng cố những kiến thức đang học
hoặc đã lĩnh hội được trong các giờ học trước đó.
Thông qua các thí nghiệm, học sinh hứng thú học tập bộ môn hoá học, giải
thích được một số hiện tượng tự nhiên, biết được một số ứng dụng của hoá học
trong đời sống sản xuất. Từ đó kiến thức của các em sẽ được khắc sâu khi các em
tự tay thực hiện các thí nghiệm hoá học.
Với xu hướng hiện nay quan niệm “Học đi đôi với hành” học sinh tự tìm
tòi và giành lấy kiến thức nên việc thực hiện, nâng cao chất lượng các tiết dạy, các
tiết thực hành là điều rất quan trọng.
Xuất phát từ vấn đề trên, tôi mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc đổi mới
phương pháp dạy học, nhằm giúp giáo viên và học sinh thực hiện tốt hơn trong các
giờ học có thí nghiệm và các giờ thực hành thí nghiệm, cũng vì lẽ đó nên tôi đã
chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghiệm về phương pháp khi tiến hành một
số thí nghiệm hóa học ở THCS”
B/ TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I/ Cơ sở lý luận
Hiện nay, đứng trước một thế kỷ đang phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt, thì trong
quá trình dạy và học môn hóa học, ngoài việc lĩnh hội những kiến thức học sinh
còn được tận tay thực hiện các thí nghiệm qua các tiết học và các bài thực hành. Do
BM03
-
TMSKKN
đó việc vận dụng các thí nghiệm vào nội dung tiết học chính là yếu tố quan trọng
giúp cho học sinh hiểu bài sâu hơn và bài giảng thành công hơn.
1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban Giám Hiệu nhà trường đến việc giảng
dạy bộ môn.
- Nhà trường đã được trang bị đầy đủ sách giáo khoa và sách giáo viên cho
các giáo viên.
- Giáo viên dạy hoá học đã được tập huấn thay sách giáo khoa mới do Sở
Giáo Dục tổ chức.
- Trường đã được cung cấp tương đối đầy đủ dụng cụ thí nghiệm và hoá chất.
- Trường đã có phòng thí nghiệm thực hành riêng, và có giáo viên chuyên
trách thí nghiệm nên rất thuận tiện trong việc thực hành thí nghiệm
- Trong các tiết học có thí nghiệm hay trong các giờ thực hành thí nghiệm
học sinh hứng thú học tập
2/ Khó khăn
- Do trường nằm trên địa bàn xã đặc biệt khó khăn và học sinh là con em
dân tộc trên 80% nên việc tiếp thu bài của học sinh còn nhiều khó khăn .
- Trình độ tiếp thu của học sinh không đồng đều
- Nhiều học sinh không có sách giáo khoa
- Trong quá trình làm thí nghiệm hay thí nghiệm thực hành, thì đối với học
sinh khối 8 lần đầu tiếp xúc với thí nghiệm hay táy máy tự làm thí nghiệm không
theo đúng sự hướng dẫn của giáo viên .
II/ Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài :
1/ Những thao tác cơ bản cần thiết để đảm bảo an toàn khi làm thí nghiệm
hoá học:
Đối với học sinh THCS thì hoá học là môn học mới, mà học sinh phần lớn
các em rất hiếu động, do đó tiết đầu tiên của môn hoá học hay đầu giờ các tiết thực
hành và trong khi tiến hành thí nghiệm giáo viên phải nhắc nhở các thao tác, kĩ
năng cơ bản của thí nghiệm để hình thành thói quen cho học sinh. Sau đây là một
số thao tác cơ bản mà giáo viên cần hình thành cho học sinh:
1.1. Sử dụng các hoá chất :
- Khi lấy hoá chất cần đọc kĩ nhãn và xem hoá chất đó có đúng yêu cầu
của thí nghiệm không.
- Không nếm, ngửi trực tiếp hoặc sờ tay vào hoá chất. Khi ngửi hoá chất
phải theo đúng thao tác qui định: để lọ hoá chất ở xa dùng tay phẩy nhẹ cho hơi bay
ra dần vào mũi và ngửi nhẹ. Trong quá trình dạy tôi thấy đây là một thao tác mà
một số học sinh hiếu động hay mắc phải, các em hay lấy hoá chất đưa lên mũi
ngửi, hoặc hoá chất rắn các em lại sờ tay vào, mà ta đã biết hoá chất rất độc hại. Vì
vậy giáo viên cần nhắc nhở thường xuyên khi học sinh làm thí nghiệm.
- Không để hoá chất này vào hoá chất khác (ngoài chỉ dẫn).
- Hoá chất dùng xong nếu còn thừa, không được đổ lại bình chứa. Do đó
khi tiến hành thí nghiệm yêu cầu học sinh chỉ nên lấy hoá chất vừa đủ, tiết kiệm,
không được lãng phí.
- Không dùng hoá chất khi chưa biết tên hóa chất.
- Khi gạn đổ hoá chất lỏng phải dùng phễu, ống nhỏ giọt, không đổ hoá
chất nóng vào dụng cụ thuỷ tinh để tránh hiện tượng ống nghiệm hay lọ bị rạn nứt
và bể.
- Muốn cho các hoá chất rắn hoặc bột vào ống nghiệm mà không dính lên
thành ống nghiệm, phải sử dụng ống nghiệm khô và sạch. Nên làm một máng nhỏ
bằng mảnh giấy dài gập đôi lại theo chiều dọc, chiều rộng mảnh giấy nhỏ hơn
đường kính ống nghiệm, cầm ống nghiệm hơi nghiêng rồi luồng máng đến tận đáy
của ống nghiệm mới đổ hoá chất vào. Sau đó dựng đứng ống nghiệm và đập nhẹ
vào thành ống cho hoá chất rơi xuống đáy ống nghiệm.
- Không đổ hoá chất lỏng quá ¼ ống nghiệm, khi pha chế dung dịch chỉ
pha chế lượng vừa đủ. Các em thường lấy hoá chất rất nhiều khi làm thí nghiệm vì
các em nghĩ lấy hoá chất càng nhiều thì phản ứng xảy ra càng nhanh, nhưng khi
giáo viên nhắc nhở các em thường đổ ngược hoá chất vào lại bình chứa thì không
đúng nguyên tắc đảm bảo an toàn. Do đó khi yêu cầu học sinh lấy hoá chất để cho
vào ống nghiệm giáo viên cần phải nói rõ lấy một lượng là bao nhiêu để tránh lãng
phí. (Ví dụ: Đối với chất lỏng là bao nhiêu ml, với chất rắn lấy lượng bằng hạt ngô,
hay mấy thìa…).
- Khi mở các nút lọ hoá chất phải đặt ngửa nút lên bàn. Học sinh có thói
quen khi mở các nút lọ hay dùng xong các ống nhỏ giọt các em thường đặt đại lên
trên bàn. Do đó giáo viên phải nhắc nhở các em vì để như vậy khi đậy nút lọ lại
hoặc dùng ống nhỏ giọt lấy hoá chất sẽ làm cho hoá chất trong lọ không đảm bảo
độ tinh khiết.
- Khi rót hoá chất cần chú ý hướng nhãn hoá chất lên phía trên để tránh
hoá chất có thể chảy theo thành lọ làm hỏng nhãn.
- Đối với các thí nghiệm tạo thành chất độc hại thì phải tiến hành ở cuối
chiều gió, phòng học phải thông thoáng.
1.2. Sử dụng đồ dùng thí nghiệm:
- Chuẩn bị trước các đồ dùng thí nghiệm cần thiết cho bài thực hành. Sử
dụng, khai thác tối đa các dụng cụ, hoá chất đã có. Bên cạnh đó có các thí nghiệm
giáo viên có thể sử dụng các dụng cụ gọn nhẹ, đơn giản, dùng lượng hoá chất nhỏ
và phải đảm bảo an toàn cho học sinh.
- Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cẩn thận khi sử dụng đồ dùng thí
nghiệm như: ống nghiệm, cốc thuỷ tinh, đèn cồn, giá đỡ, kẹp…
Ví dụ: Khi sử dụng kẹp gỗ cần chú ý cho ống nghiệm vào cặp rồi chỉ nên
nắm chắc phần nhánh dài và dùng ngón tay cái đặt nhẹ lên nhánh ngắn, không
dùng bàn tay nắm cả hai nhánh của kẹp gỗ.
Ví dụ: Khi đun nóng các chất trong ống nghiệm: nếu ống nghiệm đã được
gắn cố định thì ta phải di chuyển đèn cồn dọc ống nghiệm, nếu ống nghiệm được
giữ bằng kẹp gỗ thì ta lướt nhẹ toàn bộ ống nghiệm trên ngọn lửa cho nóng đều sau
đó mới cho ngọn lửa tập trung ở phần có hoá chất và chỉ để ống nghiệm ở 2/3 ngọn
lửa đèn cồn, không để ống nghiệm chạm vào tim đèn. Đối với ống nghiệm đựng
hoá chất rắn khi đun nóng có thể đặt ống nghiệm nằm ngang,với ống nghiệm đựng
hoá chất lỏng khi đun nóng ta để ống nghiệm hơi nghiêng (khoảng 45
o
) và miệng
ống nghiệm hướng ra phía không có người để tránh xảy ra tai nạn khi hoá chất sôi
đột ngột phụt mạnh ra ngoài,…
Ví dụ: Khi sử dụng đèn cồn tuyệt đối không được lấy ngọn lửa đèn cồn này
châm trực tiếp sang ngọn lửa đèn cồn kia vì làm như vậy dễ bị dốc nghiêng, cồn sẽ
trào ra ngoài và bốc cháy. Muốn tắt đèn cồn thì dùng nắp đèn cồn chụp vào ngọn
lửa, không được thổi bằng miệng rất nguy hiểm.
- Cần chọn các nút đậy hoá chất cho phù hợp như: lọ đựng dung dịch kiềm
không được dùng nút nhám thuỷ tinh…
- Học sinh phải biết cách rửa dụng cụ thí nghiệm bằng nước và chổi rửa,
khi rửa cho các dụng cụ thí nghiệm cần xả qua nước trước, sau đó cho chổi vào và
xoay nhẹ chổi kéo lên kéo xuống nhiều lần để chổi cọ xát vào thành và đáy ống
nghiệm, xả lại bằng nước sạch sau đó úp lên giá thí nghiệm. Nhắc nhở học sinh
không được xả các dụng cụ qua nước rồi cất, vì như thế ống nghiệm không được
sạch, thì thí nghiệm sau khó thành công như ý muốn.
Lưu ý học sinh khi rửa dụng cụ thí nghiệm phải đeo găng tay cao su.
2/ Kĩ thuật bảo hiểm khi làm thí nghiệm.
Kĩ thuật bảo hiểm khi làm thí nghiệm mà tôi đưa ra đây, đa số giáo viên đã
nắm được. Đối với học sinh THCS tuy rất hiếu động, óc tò mò cao nhưng khi tiến
hành thí nghiệm mà nghe giáo viên nói có độc hoặc nguy hiểm cũng làm cho các
em lo sợ, dẫn đến không dám làm thí nghiệm. Vì vậy giáo viên cần phải nói cho
học sinh biết các kĩ thuật bảo hiểm để tạo sự tự tin, chủ động cho các em khi làm
thí nghiệm, kể cả khi có các sự cố xảy ra. Giáo viên cũng nên hướng dẫn học sinh
biết được các chất có thể dùng để sơ cứu khi làm thí nghiệm mà bị thương nằm ở vị
trí nào trong phòng thí nghiệm .
2.1. Khi bị thương:
- Khi bị đứt tay chảy máu dùng bông thấm máu, sau đó dùng bông bôi
thuốc sát trùng vào vết thương như: cồn 90
o
, dung dịch thuốc tím loãng, hoặc dùng
dung dịch FeCl
3
để cầm máu sau đó băng lại.
2.2. Khi bị bỏng:
- Bị bỏng bởi vật nóng cần đắp ngay bông tẩm dung dịch thuốc tím loãng
vào vết bỏng.
- Bị bỏng do axit thì phải dội nước rửa nhiều lần sau đó rửa lại bằng dung
dịch NaHCO
3
không được rửa bằng xà phòng.
- Bị bỏng do kiềm đặc ta cũng dội nước rửa nhiều lần sau đó rửa lại bằng
dung dịch axit axêtic loãng hay giấm.
2.3. Hít phải khí độc:
- Khi bị ngộ độc vì các chất khí cần ngưng ngay thí nghiệm, mở ngay các
cửa, đưa nạn nhân ra chỗ thoáng gió, cần xoa mặt và đầu người bị ngộ độc bằng
nước lã.
- Nếu ngộ độc do hít phải khí clo, brôm…cần cho nạn nhân nằm ở chỗ
thoáng, nới dây thắt lưng, cho thở không khí có một lượng nhỏ amoniăc hoặc có thể
dùng hỗn hợp cồn 90
o
với amoniăc.
- Ngộ độc do hít phải quá nhiều amoniăc, cần cho nạn nhân hít hơi nước
nóng. Sau đó cho uống nước chanh hoặc giấm loãng.
3. Rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh trong khi tiến hành thí nghiệm hoá
học:
3.1. Kĩ năng thực hành hoá học:
Kĩ năng là khả năng thực hiện một cách hợp lý những hành động trí tuệ và
tay chân trong những tình huống khác nhau.
Dấu hiệu đặc trưng của kĩ năng là nhận thức được đầy đủ về mục đích của
hoạt động và biết lựa chọn con đường đúng đắn, ngắn nhất.
Những kĩ năng thí nghiệm cần chú ý rèn luyện cho học sinh: sử dụng dụng
cụ đúng cách và tiến hành đúng những thí nghiệm.
Biết dự đoán hiện tượng của phản ứng sẽ xảy ra, biết quan sát hiện tượng,
biết giải thích trên cơ sở lý thuyết.
3.2. Kĩ xảo thực hành hoá học là khả năng thực hành hoá học một cách
nhanh chóng thoải mái những hành động trí tuệ trong việc tiến hành thí
nghiệm hoá học
Để có kĩ năng thí nghiệm trước hết học sinh phải nắm được kiến thức. thực
hiện các động tác thí nghiệm đúng theo hướng dẫn, phối hợp các động tác thích
hợp. Vậy kiến thức là cơ sở để có kĩ năng.
Khi các phương pháp thực hiện đã trở thành tự động hoá do kĩ năng được lặp
đi lặp lại nhiều lần thì khi ấy học sinh sẽ có kĩ năng kĩ xảo thí nghiệm.
Trong từng bài thực hành giáo viên phải rèn luyện cho học sinh những thao
tác kĩ thuật chuẩn xác thông qua đó khái quát cho học sinh những thao tác thực
hành chung như hoà tan chất rắn vào nước, điều chế và thu các chất khí, pha chế
dung dịch…
Khi hoà tan chất rắn vào chất lỏng thì trước khi tiến hành giáo viên phải
lưu ý cho học sinh:
- Chất rắn có tinh thể lớn phải nghiền nhỏ thành bột trước khi hoà tan. Chỉ
dùng nước cất hoặc nước mưa để hoà tan các chất không được dùng nước máy vì
có lẫn tạp chất.
- Nếu hoà tan một lựơng lớn chất tan trong bình cầu thì ta nên lắc tròn.
- Nếu hoà tan trong ống nghiệm thì nên lắc ngang, không lắc dọc ống nghiệm
- Đa số chất rắn khi đun nóng sẽ tan nhanh hơn. Vì vậy khi hoà tan các chất
rắn ta có thể đun nóng.
Pha chế dung dịch, làm chất chỉ thị
Ví dụ : Pha chế dung dịch hồ tinh bột:
Muốn pha chế 200ml dung dịch hồ tinh bột thì ta lấy 0,5g tinh bột đã
nghiền thật nhỏ cho vào khoảng 50ml nước lạnh làm thành bột loãng. Vừa khuấy
đều vừa đổ từ từ bột loãng đó vào khoảng 150 ml nước đun sôi ta sẽ được hồ tinh
bột.
Ví dụ : Pha chế dung dịch nước vôi trong:
Hoà tan vôi tôi vào nước do độ tan của vôi tôi rất nhỏ nên ta có thể tiến hành
pha như sau : cho một ít vôi tôi vào bình cầu, đổ nước cho đầy đến gần cổ bình để
diện tích tiếp xúc giữa chất lỏng với không khí là nhỏ nhất . Đậy nút kín và để lắng
hỗn hợp trong vài giờ trở lên sau đó ta lọc lấy phần nước trong
Chú ý cần phải đậy nút thật kín vì nước vôi trong tác dụng với khí
cacbonđioxit có trong không khí.
Ví dụ: Cách làm chất chỉ thị từ hoa dâm bụt
Nếu không có các chất chỉ thị trên đây để thử môi trường axit, bazơ ta
có thể chế lấy chất chỉ thị rất đơn giản, dễ dàng sử dụng như sau :
+ Thái nhỏ cánh hoa dâm bụt tươi hoặc đã khô, ngâm vào cồn trong một lọ có
nút mài. Càng nhiều cánh hoa, chất chỉ thị càng đặc.
+ Đậy nút kín, ngâm sau vài ngày.
+ Dung dịch có màu tím càng ngày càng đậm.
+ Khi cần sau 2 giờ có thể dùng làm chất chỉ thị axit, bazơ.
+ Khi dùng chúng ta chắt dung dịch ra.
+ Chất chỉ thị này trong môi trường axit sẽ có màu hồng (đỏ). Trong môi trường
trung tính không có màu (tím). Trong môi trường kiềm có màu xanh nhưng
không bền vì nó nhanh chóng biến đổi sang màu vàng.
3.3. Một số kĩ năng, kĩ xảo trong quá trình tiến hành thí nghiệm
Qua nhiều năm giảng dạy và tiến hành nhiều thí nghiệm trong sách giáo
khoa. Tôi nhận thấy các thí nghiệm theo sách giáo khoa đều có thể thực hiện thành
công. Nhưng có nhiều thí nghiệm nếu ta cứ tiến hành theo sách giáo khoa hướng
dẫn phản ứng có thể xảy ra chậm. Do đó giáo viên cần có một số kĩ năng, kĩ xảo để
khi tiến hành thí nghiệm phản ứng xảy ra nhanh hơn, đảm bảo thời gian của tiết học
Ví dụ : Thí nghiệm chứng minh phản ứng giữa CuO với H
2
SO
4
. Ta chỉ nên sử
dụng H
2
SO
4
loãng thì chất tạo thành mới có màu xanh như lí thuyết (dung dịch
CuSO
4
có màu xanh lam), nếu sử dụng H
2
SO
4
hơi đặc ( thiếu nước) thì tạo thành
dung dịch có màu xanh đen.
Ví dụ : Biết khí CO
2
làm đục nước vôi trong Ca(OH)
2
, nhưng nếu lọ nước vôi
trong đậy kín để lâu ngày thì khi lấy phần dung dịch phía trên để tiến hành thí
nghiệm sục khí CO
2
thì vẫn không thấy có hiện tượng nước vôi trong bị vẩn đục,
nhưng để thí nghiệm vẫn thành công, thì ta chỉ cần trước khi tiến hành thí
nghiệmlắc nhẹ bình rồi rồi mới lấy nước vôi trong ra để sục khí CO
2
, vì để lâu ngày
Ca(OH)
2
bị lắng xuống đáy bình. Để thí nghiệm dễ thành công hơn ta nên sử dụng
nước vôi trong vừa mới pha chế .
4/ Những yêu cầu sư phạm đối với thực hành thí nghiệm hoá học.
4.1. Tăng cường đảm bảo an toàn trong thí nghiệm.
- Để đảm bảo an toàn về sức khoẻ và tính mạng của học sinh. Trước hết
giáo viên cần loại bỏ các thí nghiệm có sử dụng các chất độc hại như: thuỷ ngân,…
Các thí nghiệm có tạo ra sản phẩm là các chất độc hại như: khí clo, khí
sunfurơ,…cần phải thực hiện trong hệ thống thiết bị kín an toàn. Các thí nghiệm
đốt cháy một số chất để tạo hỗn hợp nổ với oxi của không khí thì phải thử độ tinh
khiết của chất đó như đốt khí hiđro, khí axêtilen…
- Đối với các thí nghiệm có sử dụng dung dịch axit, dung dịch kiềm giáo
viên cần nhắc nhở học sinh cẩn thận khi thí nghiệm để hoá chất không rơi vào
người.
4.2. Phải đảm bảo thành công trong thí nghiệm:
- Kết quả của thí nghiệm sẽ tác động trực tiếp đến chất lượng dạy- học và
củng cố niềm tin của học sinh vào khoa học. Muốn đảm bảo kết quả thí nghiệm
trước hết giáo viên phải nắm vững kĩ thuật tiến hành thí nghiệm, trước khi tiến
hành thí nghiệm biểu diễn, giáo viên cần thực hiện trước khi lên lớp nhiều lần. Các
dụng cụ, hoá chất phải được chuẩn bị chu đáo, đồng bộ.
- Nếu chẳng may thí nghiệm không thành công, giáo viên cần phải bình tĩnh
kiểm tra lại các bước tiến hành, tìm hiểu nguyên nhân và giải thích cho học sinh.
4.3. Phải đảm bảo tính trực quan:
- Để đảm bảo tính trực quan, khi chuẩn bị thí nghiệm giáo viên cần lựa chọn
các dụng cụ đảm bảo tính khoa học, sư phạm, mĩ thuật và sử dụng lượng hoá chất
thích hợp.
- Đối với giáo viên khi tiến hành thí nghiệm biểu diễn, thì bàn biểu diễn thí
nghiệm phải có độ cao cần thiết, các dụng cụ thí nghiệm cần phải bố trí sao cho
mỗi học sinh ngồi trong lớp có thể thấy rõ thí nghiệm, đối với một số thí nghiệm có
sự thay dổi màu sắc hay có kết tủa tạo thành thì nên dùng phông màu đặt phía sau
dụng cụ thí nghiệm.
4.4. Phải có sự lựa chọn thí nghiệm:
- Khi làm thí nghiệm giáo viên nên lựa chọn thí nghiệm có tính chất đơn
giản, đảm bảo khoa học và quan trọng là phải đảm bảo an toàn đối với học sinh. Do
thời gian tiết học có hạn, giáo viên phải bố trí thật hợp lí thời gian, cải tiến một số
thí nghiệm theo hướng đơn giản để học sinh dễ thực hiện nhưng vẫn thành công mà
vẫn tiết kiệm được thời gian.
Ví dụ : Nhận biết tính chất của khí Clo ẩm .
Cho vào ống nghiệm một lượng KClO
3
bằng hạt ngô (nếu dùng KMnO
4
thì
cần một lượng lớn hơn ) đặt một mẩu giấy màu ẩm lên thành ống nghiệm. Đậy
miệng ống nghiệm bằng nút cao su có kèm ống nhỏ giọt chứa dung dịch axit HCl,
cắm ống nghiệm lên đế gỗ. Bóp nhẹ ống nhỏ giọt cho dung dịch axit HCl nhỏ vào
ống nghiệm tác dụng với KClO
3
(hoặc KMnO
4
) tạo khí Clo bay lên, khí Clo làm
mất màu mẩu giấy màu ẩm. Khử lượng Clo dư bằng cách cho cả ống nghiệm vào
chậu nước, rồi mở từ từ nút cao su ra. Khí Clo sẽ tan trong nước.
Các thí nghiệm thực hành phải gắn với thực tiễn cuộc sống và sản xuất, qua đó
giúp cho học sinh nắm được kiến thức hứng thú hơn, sâu sắc hơn, kích thích học
sinh vận dụng những điều đã học để giải thích một số hiện tượng trong thực tiễn
vào cuộc sống, góp phần giáo dục hướng nghiệp thông qua môn học.
Ví dụ : Hiện tượng sắt để lâu trong không khí bị gỉ do tính chất hoá học của sắt
tác dụng với oxi tạo ra oxit sắt có màu nâu đỏ chính là lớp gỉ bọc bên ngoài.
Ví dụ: Cacbon có tính hấp phụ mạnh là có khả năng giữ trên bề mặt của nó các
chất khí, chất hơi… do vậy người ta thường dùng tính chất này để giải thích cho
hiện tượng khi nấu cơm bị khê thì người ta thường bỏ than gỗ vào nồi cơm để mất
mùi khê.
Ví dụ : Do khí hiđro có tính chất nhẹ hơn không khí nên khí hidro có thể được
bơm vào bong bóng thả trong các ngày lễ hội, bơm vào khí cầu…
4.5. Những thí nghiệm thực hành giáo viên cần chú ý:
Do nhu cầu của chương trình dạy theo phương pháp mới và góp phần phát
huy tính tích cực, phát huy trí tuệ của học sinh. Giáo viên cần phải lựa chọn thí
nghiệm có nội dung và phương pháp tiến hành đáp ứng với yêu cầu cơ bản của
chương trình. Sau đây là các dạng thí nghiệm thực hành cần được quan tâm:
a. Thí nghiệm nghiên cứu về tính chất vật lí của các chất:
Qua các thí nghiệm của học sinh làm hoặc của giáo viên biểu diễn. Học
sinh có thể rút ra được tính chất vật lí của chất đó.
Ví dụ : Tính chất vật lí của axit sunfuric.
Giáo viên cho học sinh quan sát lọ đựng dung dịch axit sunfuric đặc. Sau đó
lấy một cốc thuỷ tinh đựng 10ml nước, cho từ từ dung dịch axit sunfuric đặc vào
cốc nước. Cho học sinh quan sát và sờ nhẹ vào thành cốc. Sau đó cho học sinh rút
ra một số tính chất vật lí của axit sunfuric.
Lưu ý : Khi pha loãng dung dịch axit sunfuric đặc chỉ cho từ từ axit H
2
SO
4
đặc vào nước không được làm ngược lại.
b. Thí nghiệm nghiên cứu về tính chất hoá học của các chất
Ví dụ: Tính chất hoá học của oxi.
1. Tác dụng với lưu huỳnh.
Cho vào muôi sắt một lượng lưu huỳnh bằng hai hạt đậu xanh và hơ
trên lửa đèn cồn.
Yêu cầu học sinh quan sát và nhận xét ? ( Lưu huỳnh cháy với ngọn lửa
màu xanh mờ)
Đưa nhanh lưu huỳnh đang cháy vào lọ chứa
oxi.
Học sinh quan sát và nhận xét hiện tượng?
(Lưu huỳnh cháy trong khí oxi mãnh liệt hơn, với ngọn
lửa màu xanh, sinh ra chất khí không màu.
Giáo viên giới thiệu khí sinh ra là lưu huỳnh
đioxit ( SO
2
)
Học sinh rút ra được tính chất và viết được
phương trình hoá học .
S ( r ) + O
2
( k)
0
t
SO
2
( k)
Chú ý : khi cho lưu huỳnh vào lọ oxi phải đậy nút kín vì SO
2
rất độc.
2. Tác dụng với photpho.
Cho vào muôi sắt một lượng photpho đỏ bằng
hạt đậu xanh rồi đặt lên ngọn lửa đèn cồn .
Yêu cầu học sinh quan sát và nhận xét?
(Photpho cháy với ngọn lửa xanh mờ)
Đưa nhanh Photpho đang cháy vào lọ đựng
khí oxi.
Học sinh quan sát và nhận xét hiện tượng?
( Photpho cháy mạnh trong oxi với ngọn lửa sáng chói,
tạo ra khói dày đặc bám vào thành lọ dưới dạng bột).
Giáo viên giới thiệu chất sinh ra là điphotpho pentaoxit (P
2
O
5
).
Học sinh rút ra được tính chất và viết được phương trình hoá học .
4P
( r )
+ 5O
2
(k )
0
t
2P
2
O
5
( r )
3. Oxi tác dụng với kim loại:
Uốn đoạn dây sắt theo dạng lò xo đưa vào trong bình oxi. Có dấu hiệu
của phản ứng không? ( Không có dấu hiệu chứng tỏ có phản ứng hoá học xảy ra)
Quấn vào đầu dây sắt một mẩu than gỗ. Dùng cặp sắt đốt đoạn dây sắt
đó trên ngọn lửa đèn cồn cho đến khi mẩu than cháy hồng rồi đưa nhanh vào lọ khí
oxi.
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét hiện tượng? (Sắt
cháy mạnh, sáng chói, không có ngọn lửa, không có khói,
tạo ra các hạt nhỏ, nóng chảy, màu nâu) .
Giáo viên giới thiệu các hạt nhỏ màu nâu đó là oxit sắt từ
( Fe
3
O
4
)
Học sinh rút ra được tính chất và viết được phương
trình hoá học .
3Fe
(r )
+ 2 O
2
( k)
0
t
Fe
3
O
4
( r)
Chú ý : dưới đáy lọ đựng oxi nên để ít nước hoặc
cát để tránh dây sắt cháy rớt xuống nóng làm bể lọ.
c. Thí nghiệm điều chế các chất
Ví dụ : Điều chế khí oxi
Cho một lượng thuốc tím KMnO
4
vào ống nghiệm với chiều cao chừng 2cm.
Đậy miệng ống nghiệm bằng nút cao su có ống dẫn khí, lắp ống nghiệm nằm ngang
và miệng ống nghiệm hơi chúc xuống.
Trước khi đậy nút cao su cần cho vào trong ống nghiệm (ngay miệng ống
nghiệm) một ít bông để hạn chế bụi thuốc tím bay sang ống dẫn khí khi phản ứng
hoá học xảy ra.
Dùng đèn cồn hơ dọc ống nghiệm sau đó
tập trung ngọn lửa ở vị trí có KMnO
4
. Khí oxi
sinh ra được thu vào trong ống nghiệm chứa
đầy nước và úp ngược trong chậu thuỷ tinh. Khí
oxi thoát ra đẩy nước ra khỏi ống nghiệm (dựa
vào tính chất oxi tan ít trong nước).
Lưu ý học sinh cách lấy nước đầy ống
nghiệm hay đầy lọ để thu khí oxi không bị lẫn không khí :
+ Với ống nghiệm phải lấy chậu nước sao cho ống nghiệm có thể chìm
trong nước sau đó nâng nhẹ đáy ống nghiệm lên.
+ Với lọ ( bình) tương tự như trên đổ nước vào chậu sao cho ngập lọ
hay đổ nước đầy lọ rồi dùng tấm bìa đậy miệng lọ giữ chặt và úp vào chậu.
d. Thí nghiệm về một số ứng dụng quan trọng của các chất trong thực tiễn và
lao động sản xuất.
Ví dụ: Tính chất canxi oxit (CaO) phản ứng với axit.
Cho một mẩu CaO bằng hạt đậu xanh vào một ống nghiệm, nhỏ tiếp vào
ống nghiệm vài giọt dung dịch axit HCl.
Học sinh quan sát và nhận xét hiện tượng xảy ra:
CaO màu trắng đã tan trong dung dịch axit HCl tạo ra chất
tan được trong nước là muối CaCl
2
không màu.
Viết phương trình hoá học:
CaO
(r )
+ 2HCl
(dd)
CaCl
2(dd)
+ H
2
O
(lỏng )
(trắng) (không màu)
Qua tính chất này học sinh rút ra được CaO được dùng để khử chua đất trồng
trọt, xử lí chất thải công nghiệp.
5/ Một số điểm cần lưu ý khi tiến hành thí nghiệm hoá học ở trường THCS
Trong dạy học hoá học ở trường THCS, người ta phân loại các thí nghiệm hoá
học như sau: thí nghiệm biểu diễn của giáo viên và thí nghiệm do học sinh tự làm.
5.1. Thí nghiệm biểu diễn:
- Là cơ sở cụ thể hoá những khái niệm về chất và phản ứng hoá học.
Trong các thí nghiệm biểu diễn giáo viên là người thực hiện các thao tác, điều
khiển các quá trình biến đổi của chất, học sinh chỉ theo dõi, quan sát và nhận xét
các quá trình đó.
- Thí nghiệm biểu diễn có thể tiến hành bằng hai phương pháp chính:
phương pháp minh hoạ và phương pháp nghiên cứu. Trong đó phương pháp nghiên
cứu có giá trị tích cực, có tác dụng kích thích, tạo được hứng thú học tập cho học
sinh.
- Các thí nghiệm giáo viên biểu diễn thường là các thí nghiệm nguy hiểm,
khó thực hiện, hoá chất khan hiếm, đắt tiền, các phản ứng xảy ra có chất độc, do đó
khi giáo viên biểu diễn thì học sinh quan sát để rút ra nhận xét.
Ví dụ: Tính háo nước của axit sunfuric đặc.
Cho 6g đường cát trắng vào đáy cốc thuỷ tinh rồi
cho từ từ 5ml dung dịch H
2
SO
4
đặc vào. Màu trắng của
đường chuyển sang màu vàng, sau đó chuyển sang màu
nâu và cuối cùng thành khối màu đen xốp (than )bị bọt
khí đẩy lên khỏi miệng cốc và toả nhiều nhiệt. Qua đó
học sinh rút ra được axit sunfuric có tính háo nước.
Trong phản ứng này giáo viên cần lưu ý để phản
ứng xảy ra nhanh và cho khối xốp có hình dạng như
trong sách giáo khoa hay hình dạng hơi kì lạ.Giáo viên
nên sử dụng cốc thuỷ tinh cao và hẹp, khi cho axit vào
cốc chứa đường nên dùng đũa thuỷ tinh trộn nhanh các
chất này.
Bên cạnh đấy trong chương trình có những thí nghiệm chỉ có giáo viên biểu
diễn mà học sinh không được làm thường là các thí nghiệm đối với các chất tham
gia khan hiếm, đắt tiền, có độc, khi thực hiện có thể xảy ra các tình huống sư phạm,
mà khi giáo viên tiến hành thì có thể giải quyết các tình huống đó một cách chủ
động hơn.
Ví dụ: Bài “ Không khí –Sự cháy”.
Giáo viên tiến hành thí nghiệm xác định thành phần không khí.
Lấy lượng P đỏ bằng hạt ngô cho vào muôi sắt, đốt trên ngọn lửa đèn cồn.
Rồi đưa nhanh vào ống hình trụ ( đã chia vạch và đặt sẵn trong chậu nước).
Ở thí nghiệm này khi giáo viên tiến hành vẫn có thể xảy ra sự cố là nước
trong ống hình trụ không dâng lên. Vậy điều đó do đâu? Đó là do nắp đậy không
chặt dẫn đến không khí vẫn có thể tràn vào ống hình trụ. Vì vậy để thí nghiệm này
xảy ra nhanh chóng thì trước khi đậy nắp giáo viên bôi một lớp nước lên miệng
ống hình trụ (hoặc nắp đậy), hay bôi một lớp nước vào nút cao su trước khi đậy vào
ống hình trụ thì khi tiến hành thí nghiệm xảy ra nhanh và chính xác.
Các thí nghiệm do giáo viên làm thì thí nghiệm thành công nhanh, tốn ít
thời gian, dụng cụ, hoá chất hơn. Giáo viên có thể sử dụng một số kĩ năng, kĩ xảo
trong quá trình tiến hành.
Ví dụ : Nhận biết tính chất vật lí “ Khí Hiđro nhẹ hơn không khí”
Theo như SGV hướng dẫn giáo viên dùng quả bong bóng bay để chứng
minh. Theo tôi nếu sử dụng quả bong bóng đã bơm sẵn khí hiđro thì: một là giáo
viên phải điều chế khí hiđro và dẫn vào quả bong bóng, hai là giáo viên phải mua
sẵn quả bong bóng bay nhưng nếu để lâu (qua ngày) bong bóng sẽ bị xẹp dần, dẫn
đến giáo viên phải mua quả bong bóng khác không đảm bảo kinh tế.
Để đơn giản dụng cụ chỉ cần ống nghiệm có nhánh, ống nhỏ giọt gắn vào
nút cao su, ống dẫn khí có đầu vuốt hơi nhọn.
Pha dung dịch nước xà phòng đặc vào chén sứ. Nhúng đầu ống dẫn khí vào
dung dịch nước xà phòng đặc, bong bóng xuất hiện ở đầu ống dẫn khí và lớn dần.
Sau đó chỉ cần gõ nhẹ vào ống dẫn, bong bóng sẽ bay lên. Ở thí nghiệm này khi
tiến hành biểu diễn giáo viên có thể gặp tình huống không tạo ra được bong bóng ở
đầu ống dẫn hoặc bong bóng tạo ra chưa kịp bay lên đã bể. Do đó khi tiến hành thí
nghiệm giáo viên cần lưu ý nhúng đầu ống dẫn vào nước xà phòng phải nhắc lên
ngay, để miệng ống hơi nghiêng lên phía trên. Trong dung dịch nước xà phòng đặc
hoà thêm một vài giọt glixêrin để tạo cho bong bóng có độ bền hơn.
Ví dụ: Tính chất khí hiđro tác dụng với oxi ( đốt khí hiđro và quan sát ngọn
lửa)
Khi đã điều chế hiđro bằng cách cho Zn vào dung dịch axit HCl. Nối ống dẫn
khí hiđro bằng nút cao su có gắn ống thuỷ tinh vuốt nhọn.
Giáo viên tiến hành thử độ tinh khiết của khí hiđro rồi mới đốt khí hidro.
Khi thử độ tinh khiết của khí hiđro giáo viên phải khéo léo trong cách đặt
ống nghiệm để đốt hiđro ta sẽ nghe được tiếng nổ khác nhau:
+ Nếu để miệng ống nghiệm hơi chúc xuống và đưa miệng ống nghiệm
đến gần ngọn lửa thì nghe tiếng nổ nhỏ.
+ Nếu để ống nghiệm thẳng đứng, miệng ống nghiệm úp xuống và đưa
miệng ống nghiệm đến gần ngọn lửa thì nghe tiếng nổ lớn.
Sau đó giáo viên tiến hành đốt khí hiđro để học sinh quan sát và biết là khí
hiđro cháy được và cho ngọn lửa màu xanh nhạt.
Trong quá trình thí nghiệm giáo viên có thể dùng ngôn ngữ, cách tiến hành
để gây hứng thú, kích thích óc tò mò và tìm tòi của học sinh: Các em quan sát bây
giờ cô đưa từ từ ngọn lửa đến đầu ống dẫn khí hiđro ( vừa nói giáo viên vừa tiến
hành một cách khéo léo tạo cho học sinh tò mò không biết chuyện gì sẽ xảy ra ).
Các em sẽ chú ý quan sát, sau đó HS nhận xét hiện tượng xảy ra một cách thích thú,
dẫn đến HS khắc sâu được kiến thức hơn.
- Trong quá trình biểu diễn thí nghiệm để giảng dạy bài mới giáo viên cần
phải khai thác kiến thức để truyền thụ cho học sinh sao cho hiệu quả. Hướng dẫn
các em quan sát hiện tượng xảy ra để lĩnh hội kiến thức.
5.2. Thí nghiệm do học sinh tự làm:
Trong thí nghiệm hoá học ở THCS không nhất thiết thí nghiệm nào giáo
viên cũng biểu diễn, mà có những thí nghiệm cần phải cho học sinh tự tay làm để
gây sự hứng thú, kích thích tư duy học tập của học sinh. Thí nghiệm do học sinh
làm cũng có nhiều dạng. Sau đây tôi xin giới thiệu một số dạng mà trong chương
trình THCS thường gặp. Gồm:
a. Thí nghiệm nghiên cứu bài mới :
- Với xu hướng hiện nay học sinh tự làm, tự tìm ra và lĩnh hội kiến thức
mới, do đó những thí nghiệm của học sinh làm để nghiên cứu bài mới rất quan
trọng trong quá trình dạy và học. Là một phương pháp quan trọng, có hiệu quả
trong việc hình thành hệ thống khái niệm, là phương pháp dạy cho học sinh cách tư
duy hợp lí, rèn luyện óc độc lập suy nghĩ.
- Hiển nhiên khi học sinh được trao dụng cụ tận tay và được chính tay thực
hiện các thí nghiệm thì việc lĩnh hội của các em sẽ nhanh hơn tốt hơn. Qua đó có
khả năng phát triển một cách tốt nhất năng lực trí tuệ của học sinh, kích thích hứng
thú say mê học tập bộ môn, và nó rèn luyện cho học sinh nhận thức và phân tích
những dấu hiệu, hiện tượng cụ thể bằng kinh nghiệm riêng của chính mình và thu
hút mọi khả năng của học sinh vào nhận thức đối tượng.
- Phương pháp thí nghiệm theo nhóm là phương pháp mới, do đó khi học
sinh tiến hành thí nghiệm nghiên cứu bài mới, giáo viên cần phải hướng dẫn kĩ các
bước tiến hành thí nghiệm, cụ thể rõ ràng, hướng dẫn tới đâu học sinh tiến hành tới
đó để không bị nhầm lẫn hoá chất .
Ví dụ : Thí nghiệm cho dung dịch NaOH tác dụng với dung dịch axit HCl
Các bước tiến hành:
+ GV yêu cầu: Lấy 1 - 2ml dung dịch NaOH cho vào ống nghiệm (học sinh tiến
hành làm)
+ GV yêu cầu: Để dễ quan sát có phản ứng hoá học xảy ra ta nhỏ 1 giọt
phenolphtalêin vào ống nghiệm đựng dung dịch NaOH (học sinh tiến hành làm và
quan sát màu của dung dịch ).
+ GV yêu cầu: Thêm vào ống nghiệm 1 - 2ml dung dịch HCl (học sinh tiến hành
và quan sát )
Qua thí nghiệm học sinh tự rút ra được kết luận: Dung dịch NaOH đã phản
ứng với dung dịch HCl .
Học sinh viết phương trình phản ứng:
NaOH (dd) + HCl(dd) NaCl (dd) +H
2
O (lỏng).
- Thực tiễn chỉ ra rằng, tiến hành thí nghiệm bằng phương pháp nghiên cứu sẽ
kích thích hơn hoạt động tích cực của học sinh trong giờ học hoá học, đồng thời tạo
điều kiện phát triển kĩ năng làm việc độc lập của học sinh.
- Khi học sinh tự thí nghiệm để nghiên cứu bài mới thường hay có các tình
huống xảy ra, làm cho thời gian thí nghiệm kéo dài, kéo theo không đủ thời gian
cho tiết học. Do đó giáo viên cần lựa chọn thí nghiệm để học sinh làm. Có một số
thí nghiệm dễ tiến hành nhưng trong quá trình phản ứng lại xảy ra hơi chậm. Vậy
khi gặp các thí nghiệm đó giáo viên nên làm cách nào mà vẫn đảm bảo thời gian
cho một tiết dạy. Sau đây tôi xin giới thiệu một số thí nghiệm sau:
Ví dụ : Tính chất “Sắt tác dụng với dung dịch axit HCl”
Đây là một thí nghiệm mà khi phản ứng xảy ra hiển nhiên sẽ tạo ra khí
hiđro. Nhưng khi có một số nhóm tiến hành cho cây đinh sắt vào dung dịch axit thì
lại không có phản ứng xảy ra hoặc phản ứng xảy ra quá chậm, vì sao?
Giáo viên có thể xử lí tình huống bằng cách giải thích cho học sinh biết : Có
thể do cây đinh sắt đó dể lâu ngày tạo một lớp oxit sắt bên ngoài do đó phản ứng
xảy ra chậm.
Do đó để tiến hành thí nghiệm nhanh và thành công, giáo viên yêu cầu học
sinh nên chọn cây đinh còn mới chưa sử dụng. Trước khi tiến hành thí nghiệm các
em nên dùng giấy nhám chà sạch bề mặt của cây đinh, thì khi thí nghiệm phản ứng
xảy ra nhanh và thấy rõ khí hidro thoát ra .
Chú ý : Cây đinh đã làm thí nghiệm rồi cũng không nên sử dụng lại vì nó
cũng sẽ gây ra các tình huống trên.
Ví dụ : Nhôm tác dụng với dung dịch muối đồng (II) clorua
Trước khi tiến hành thí nghiệm giáo viên yêu cầu học sinh phải dùng giấy
nhám chà sạch bề mặt kim loại Al, đồng thời buộc sợi chỉ vào miếng Al (để học
sinh có thể lấy miếng Al ra quan sát) rồi mới cho vào dung dịch CuCl
2
, khi cho vào
phản ứng xảy ra rất nhanh và có chất màu đỏ bám trên lá nhôm.
Đối với các kim loại khác (như Zn , Cu, Fe … )khi phản ứng với dung dịch
muối ta cũng làm tương tự.
- Ngoài ra đối với các em do chưa được làm thí nghiệm nhiều nên khi tiến
hành các thí nghiệm nghiên cứu các em còn lúng túng, các thao tác chưa nhuần
nhuyễn có thể xảy ra các tình huống cho giáo viên .
Ví dụ: Điều chế khí Oxi từ KMnO
4
Khi nung ống nghiệm đựng KMnO
4
trên ngọn lửa đèn cồn, bất ngờ ống
nghiệm của các em đang làm bị vỡ. Khi gặp tình huống này giáo viên không nên la
mắng học sinh, mà phải giải thích cho học sinh biết tại sao ống nghiệm của các em
đang làm lại bị vỡ.
Giáo viên có thể giải thích: Là do trước khi nung ống nghiệm đựng KMnO
4
các em chưa hơ nóng đều ống nghiệm mà đã tập trung ngọn lửa nơi có KMnO
4
, do
đó thuỷ tinh giãn nở đột ngột nên bị vỡ (nứt ). Có thể là do khi đun các em để ống
nghiệm chạm vào tim đèn cồn…
Như vậy giáo viên vừa giải quyết được tình huống mà vừa khắc sâu cho
học sinh kĩ năng khi thực hành.
b. Thí nghiệm thực hành :
Mục đích và yêu cầu khi tiến hành thí nghiệm thực hành ở trường
THCS :
- Mục đích cơ bản của loại thí nghiệm này là củng cố những kiến thức mà
học sinh đã lĩnh hội trong các giờ học trước, qua tiết thực hành học sinh quan sát
hiện tượng phản ứng xảy ra, dẫn đến học sinh khắc sâu kiến thức hơn, rèn luyện kĩ
năng, kĩ xảo và kĩ thuật tiến hành thí nghiệm .
- Để các thí nghiệm trong bài thực hành được thành công, thì học sinh phải
chuẩn bị trước mục đích của bài thực hành từ ở nhà. Bên cạnh đó giáo viên lựa
chọn một số em ham thích bộ môn hoá học và lập ra nhóm “Yêu hoá học” để phụ
với giáo viên trong việc chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm và tập làm trước một số thí
nghiệm đơn giản để hướng dẫn lại cho các bạn.
- Giáo viên cũng cần phải xác định nội dung và phương pháp thực hiện giờ
thực hành sao cho phù hợp với đặc điểm nội dung và thời gian quy định của tiết
học. Các thí nghiệm được học sinh tiến hành phải đơn giản, đảm bảo an toàn cho
học sinh.
Trình tự của một tiết dạy thực hành thí nghiệm ở trường THCS:
Bước 1: Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh:
- Đầu giờ giáo viên phải kiểm tra sự chuẩn bị của cá nhân học sinh hoặc các
tổ nhóm, giải thích ngắn gọn mục đích của thí nghiệm, phương pháp tiến hành thí
nghiệm, cách quan sát và ghi chép của các nhóm để làm bản tường trình sau thí
nghiệm.
- Giáo viên cần phải lưu ý hướng dẫn chỉ bảo các em trong việc sử dụng đồ
dùng thí nghiệm, các thao tác thí nghiệm, các quy tắc đảm bảo an toàn trong thí
nghiệm, phải có ý thức trách nhiệm cao như: về sức khoẻ, tính mạng của mình và
những người xung quanh…
Bước 2 : Tiến hành thí nghiệm:
- Giáo viên phải hướng dẫn trước thí nghiệm, sau đó theo dõi các nhóm tiến
hành thí nghiệm, uốn nắn những sai sót khi cần thiết, nhưng tránh không làm giúp
cho học sinh.
- Trong tiết thực hành học sinh phải được làm hết các thí nghiệm theo yêu
cầu của bài. Các nhóm thực hành thường có số lượng học sinh đông, thì giáo viên
phải phân công trưởng nhóm để điều hành các học sinh trong nhóm (ví dụ: em lấy
hoá chất, em pha chế hoá chất, em lọc dung dịch, em đun nóng, em ghi chép kết
quả thí nghiệm… )
- Đối với trường hợp cơ sở vật chất còn thiếu, giáo viên có thể khắc phục
bằng cách chia lớp thành hai nhóm và tổ chức thực hành theo phương pháp song
song với các thí nghiệm khác nhau rồi sau đó đổi ngược lại.
- Đặc biệt đối với học sinh lớp 8 khi tiến hành thí nghiệm phải theo sự
hướng dẫn của giáo viên.
Bước 3 : Cuối giờ thực hành
- Mỗi nhóm phải hoàn tất bản tường trình thí nghiệm.
- Mẫu tường trình có thể như sau:
Thứ tự
TN
Tên thí nghiệm Hiện tượng quan sát
Giải thích và nêu kết luận.
Viết phương trình hoá học
1…
2….
…… …… …….
-Giáo viên hướng dẫn đại diện các nhóm rửa sạch dụng cụ thí nghiệm, sắp
xếp ngăn nắp các hoá chất và dụng cụ vào nơi qui định.
- Giáo viên cho học sinh thu dọn vệ sinh và trả các hoá chất về chỗ cũ.
- Giáo viên nhận xét buổi thực hành, đánh giá cách tiến hành thí nghiệm của
một số nhóm.
C/ HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI:
- Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy để hình thành và phát triển kĩ năng làm thí
nghiệm cho học sinh không phải chỉ một đến hai tiết dạy mà là trong suốt quá trình
dạy – học.
- Qua các tiết dạy có đồ dùng thí nghiệm, giáo viên phải luôn nhắc nhở,
hướng dẫn cho học sinh một số thao tác cơ bản để tạo thành thói quen cho các em.
- Qua theo dõi học sinh tiến hành thí nghiệm, từ các buổi mới làm quen với
thí nghiệm cho đến hết học kì I . Tôi nhận thấy một số kết quả sau:
* Ở lớp 8 :
+ Qua bài thực hành số 1: Do mới được tiếp xúc với các chất hoá học và
mới được làm thí nghiệm ,mặc dù đã được giáo viên hướng dẫn , như cách lấy hoá
chất, các thao tác khí thí nghiệm, rửa các dụng cụ của các em còn lúng túng.
+ Qua bài thực hành số 2 : do được nhắc nhở nhiều lần trong quá trình và
thí nghiệm nên thao tác thí nghiệm có nhanh nhẹn hơn, biết cách để các dụng cụ
sao cho thuận tiện khi làm.
+ Qua bài thực hành số 3: Các em có kĩ năng làm thí nghiệm, thao tác
nhanh, lấy hoá chất đúng theo sự hướng dẫn của giáo viên.
* Ở lớp 9: Các em đã được làm thí nghiệm ở lớp 8 nên thao tác kĩ, năng
thành thạo hơn, nhưng giáo viên cũng cần phải nhắc lại các thao tác ngay những bài
đầu chương trình để các em tiến hành thí nghiệm tốt hơn.
D/ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
- Qua thực tế giảng dạy ở trường THCS tôi nhận thấy việc sử dụng đồ dùng thí
nghiệm trong dạy và học môn hoá học đã đem lại hiệu quả thiết thực, vai trò thí
nghiệm càng thể hiện rõ hơn trong việc truyền đạt kiến thức, vận dụng kĩ năng, kĩ
xảo trong quá trình thực hiện thí nghiệm.
- Qua đó học sinh yêu thích môn hoá học ở nhiều khía cạnh, vì ở môn này các
em nhìn thấy được sự biến đổi kì diệu của các chất, sự thay đổi màu sắc một cách
rõ ràng thông qua các thí nghiệm. Từ đó các em có thể lí giải một số hiện tượng mà
các em cho là bí ẩn trong thực tế cuộc sống.
- Kết quả học sinh tham gia tích cực, chủ động xây dựng bài học, phát huy khả
năng tư duy khoa học đáp ứng các nhu cầu của phương pháp dạy học hiện đại.
- Qua các thí nghiệm kích thích hứng thú học tập bộ môn và hình thành lòng
tin vào khoa học cho học sinh.
- Tuy nhiên việc sử dụng thí nghiệm thực hành môn hoá học của giáo viên còn
chưa đồng bộ, đa số còn sử dụng thí nghiệm biểu diễn là chủ yếu, sử dụng thí
nghiệm do học sinh tiến hành còn hạn chế. Mặt khác điều kiện cơ sở vật chất như:
phòng thí nghiệm, dụng cụ thí nghiệm, hoá chất còn thiếu…
- Cần cung cấp thêm các phương tiện, một số băng đĩa hình thí nghiệm, băng
đĩa hình phục vụ cho các bài sản xuất ( quá trình luyện gang thép, sản xuất axit
sunfuric, sản xuất vôi…).
- Các hoá chất của ngành cung cấp về các trường chưa đạt tỉ lệ hợp lí. Có
nhiều hoá chất cần thiết, sử dụng nhiều lại cung cấp quá ít trong khi có nhiều hoá
chất ít sử dụng đến lại cung cấp nhiều. Nên cung cấp hoá chất về trường mỗi học kì
một lần để đảm bảo chất lượng.
- Cung cấp thêm tài liệu về bộ môn hoá học để giáo viên tham khảo.
F/ TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Thí nghiệm thực hành lí luận dạy học hóa học- Tác giả Nguyễn Cương,
Dương Xuân Trinh, Trần Trọng Dương – Nhà xuất bản giáo dục -1880.
- Phương pháp tiến hành thí nghiệm hóa học ở trường THCS- Tác giả Trần
Quốc Đắc – Nhà xuất bản giáo dục - 2005.
- Phương pháp giáo dục tích cực lấy học sinh làm trung tâm -Tác giả GS
Nguyễn Kỳ– Nhà xuất bản giáo dục - 1995.
- SGK hóa học 8 và 9
- Sách giáo viên hóa học 8 và 9
NGƯỜI THỰC HIỆN
Lê Quốc Thông
Nhận xét của hội đồng thẩm định SKKN
1. Đạt hay không đạt :
2. Xếp loại :
3. Nhận xét sáng kiến kinh nghiệm :
Ngày tháng năm 2013
CT. HĐTĐ đơn vị
SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI
Đơn vị THCS & THPT Bàu Hàm
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Trảng Bom., ngày tháng năm 2013
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2012 - 2013
–––––––––––––––––
Tên sáng kiến kinh nghiệm: MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP KHI
TIẾN HÀNH MỘT SỐ THÍ NGHIỆM HÓA HỌC Ở THCS
BM04-NXĐGSKKN
Họ và tên tác giả: LÊ QUỐC THÔNG Chức vụ: CHỦ TỊCH CÔNG ĐOÀN
Đơn vị: TRƯỜNG THCS & THPT BÀU HÀM
Lĩnh vực:
- Quản lý giáo dục - Phương pháp dạy học bộ môn:
- Phương pháp giáo dục - Lĩnh vực khác:
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị Trong Ngành
1. Tính mới
- Có giải pháp hoàn toàn mới
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có
2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại
đơn vị có hiệu quả
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Tốt Khá Đạt
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và
dễ đi vào cuộc sống: Tốt Khá Đạt
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả
trong phạm vi rộng: Tốt Khá Đạt
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)