Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN CỦA TỈNH BẾN TRE pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.07 KB, 14 trang )

KHÁI QUÁT ĐỊA LÝ TỰ
NHIÊN CỦA TỈNH BẾN TRE

Diện tích: 2.315 km2
Dân số: 1.254.589 người
Đơn vị HC: 1 thành phố & 8 huyện
Dân tộc: Kinh

Khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, các
tháng còn lại là mùa khô. Nhiệt độ trung bình năm từ 26 - 27oC.
Lượng mưa trung bình năm từ 1.250 - 1.500 mm.



Bến Tre là một trong 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích
tự nhiên là: 2.315 km2, được hình thành bởi cù lao An Hoá, cù lao
Bảo, cù lao Minh và do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long bồi tụ mà
thành (gồm sông Tiền dài 83 km, sông Ba Lai 59 km, sông Hàm
Luông 71 km, sông Cổ Chiên 82 km). Điểm cực bắc của Bến Tre nằm
trên vĩ độ 9048' bắc, điểm cực nam nằm trên vĩ độ 10020' bắc, điểm
cực đông nằm trên kinh độ 106048' đông, điểm cực tây nằm trên
kinh độ 105057' đông.

Địa hình của Bến Tre bằng phẳng, rải rác những giồng cát xen kẽ với
ruộng vườn, không có rừng cây lớn, chỉ có một số rừng chồi và
những dải rừng ngập mặn ở ven biển và các cửa sông. Nhìn từ trên
cao xuống, Bến Tre có hình giẻ quạt, đầu nhọn nằm ở thượng nguồn,
các nhánh sông lớn như hình nan quạt xòe rộng ở phía đông. Phía
bắc giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền, phía nam
giáp tỉnh Trà Vinh, phía tây giáp tỉnh Vĩnh Long, có ranh giới chung
là sông Cổ Chiên, phía đông giáp biển Đông, với chiều dài bờ biển là


65 km. Những con sông lớn nối từ biển Đông qua các cửa sông chính
(cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên), ngược về phía
thượng nguồn đến tận Campuchia; cùng hệ thống kênh rạch chằng
chịt khoảng 6.000 km đan vào nhau chở nặng phù sa chảy khắp ba
dải cù lao là một lợi thế của Bến Tre trong phát triển giao thông
thủy, hệ thống thủy lợi, phát triển kinh tế biển, kinh tế vườn, trao đổi
hàng hoá với các tỉnh lân cận. Từ Bến Tre, tàu bè có thể đến thành
phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Tây. Ngược lại, tàu bè từ thành
phố Hồ Chí Minh về các tỉnh miền Tây đều phải qua Bến Tre.

Song song với giao thông thủy, ở Bến Tre, hệ thống giao thông
đường bộ cũng có một vị trí rất đặc biệt. Thị xã Bến Tre nối liền với
thành phố Hồ Chí Minh (qua Tiền Giang, Long An) dài 86 km. Quốc lộ
60 từ phà Rạch Miễu qua thị xã Bến Tre, qua sông Hàm Luông, thị
trấn Mỏ Cày, đến phà Cổ Chiên, sang tỉnh Trà Vinh. Quốc lộ 57 từ thị
trấn Mỏ Cày, qua thị trấn Chợ Lách đến phà Đình Khao sang Vĩnh
Long. Tỉnh lộ 888 nối thị trấn Mỏ Cày với thị trấn Thạnh Phú. Tỉnh lộ
885 nối thị xã Bến Tre với thị trấn Ba Tri, qua thị trấn Giồng Trôm.
Tỉnh lộ 884 từ ngã ba Tân Thành đến bến phà Tân Phú. Tỉnh lộ 882
nối quốc lộ 60 với quốc lộ 57. Tỉnh lộ 883 nối quốc lộ 60 qua thị trấn
Bình Đại đến xã Thới Thuận. Tỉnh lộ 887 từ cầu Bến Tre xuống ngã
ba Sơn Đốc.

Dự kiến vào năm 2007, cầu Rạch Miễu - công trình thế kỷ, là niềm
mong ước của bao thế hệ người dân trong tỉnh - đang được gấp rút
hoàn thành sẽ gối đầu lên hai bờ sông Tiền; cầu Hàm Luông nối liền
cù lao Bảo, cù lao Minh. Từ đây, cùng với hệ thống cầu đường nội
tỉnh, ba dải cù lao An Hoá - Bảo - Minh thông thương là điều kiện
giúp cho những tiềm năng kinh tế - văn hoá - xã hội của Bến Tre
được khơi dậy và phát triển mạnh mẽ.

Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt, mà đầu nhọn nằm ở
thượng nguồn, các nhánh sông lớn giống như nan quạt xòe rộng ra ở
phía đông. Diện tích tự nhiên của tỉnh có 2.315,01 km2, phía bắc
giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền, phía tây và
nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh, có ranh giới chung là sông
Cổ Chiên, phía đông giáp biển Đông với chiều dài bờ biển 65 km. Bốn
con sông lớn: Tiền Giang, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên bao bọc và
chia Bến Tre thành ba phần: cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh
phù sa màu mỡ, cây trái sum suê
1. Điểm cực Nam nằm trên vĩ độ 9o48’ Bắc.
2. Điểm cực Bắc nằm trên vĩ độ 10o20’ Bắc.
3. Điểm cực Đông nằm trên kinh độ 106o48’ Đông.
4. Điểm cực Tây nằm trên kinh độ 105o57’ Đông
Tỉnh Bến Tre: Khí hậu, thực vật, động vật



* Khí hậu
Bến Tre nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo,
nhưng lại nằm ngoài ảnh hưởng của gió mùa cực đới, nên nhiệt độ
cao, ít biến đổi trong năm, nhiệt độ trung bình hằng năm từ 26oC –
27oC. Trong năm không có nhiệt độ tháng nào trung bình dưới 20oC.
Hằng năm, mặt trời đi qua thiên đỉnh 2 lần (16 tháng 4 và 27 tháng
7). Lượng bức xạ khá dồi dào, trung bình đạt tới 160kcal/cm2. Với vị
trí nằm tiếp giáp với biển Đông, nhưng Bến Tre ít chịu ảnh hưởng
của bão, vì nằm ngoài vĩ độ thấp (bão thường xảy ra từ vĩ độ 15o bắc
trở lên). Ngoài ra, nhờ có gió đất liền, nên biên độ dao động ngày
đêm giữa các khu vực bị giảm bớt.

Tỉnh Bến Tre chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc từ tháng 12 đến

tháng 4 năm sau và gió mùa tây nam từ tháng 5 đến tháng 11, giữa 2
mùa gió tây nam và đông bắc là 2 thời kỳ chuyển tiếp có hướng gió
thay đổi vào các tháng 11 và tháng 4 tạo nên 2 mùa rõ rệt. Mùa gió
đông bắc là thời kỳ khô hạn, mùa gió tây nam là thời kỳ mưa ẩm.
Lượng mưa trung bình hằng năm từ 1.250 mm – 1.500 mm. Trong
mùa khô, lượng mưa vào khoảng 2 đến 6% tổng lượng mưa cả năm.

Khí hậu Bến Tre cũng cho thấy thích hợp với nhiều loại cây trồng.
Ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm thuận lợi cho sự quang hợp và phát dục
của cây trồng, vật nuôi. Tuy nhiên, ngoài thuận lợi trên, Bến Tre cũng
gặp những khó khăn do thời tiết nóng ẩm nên thường có nạn sâu
bệnh, dịch bệnh, và nấm mốc phát sinh, phát triển quanh năm.

Trở ngại đáng kể trong nông nghiệp là vào mùa khô, lượng nước từ
thượng nguồn đổ về giảm nhiều và gió chướng mạnh đưa nước biển
sâu vào nội địa, làm ảnh hưởng đến năng suất cây trồng đối với các
huyện gần phía biển và ven biển

* Thực vật



Xưa kia, trước khi con người đến định cư, Bến Tre là một vùng
hoang vu bao phủ bới rừng dày, rậm xen lẫn các trảng lau, sậy hoặc
đầm lầy cỏ lác, sen súng v.v Khởi đầu, những cư dân đến định cư
thường tập trung nơi đất cao trên các giồng các ven biển, hoặc dọc
theo các đê sông, rạch, thuận tiện cho việc đi lại, sinh sống và tránh
lũ lụt. Họ bắt đầu chặt cây phá rừng ở xung quanh để xây dựng nhà
cửa, lập vườn và lấy đất canh tác, biến rừng thành các thôn xóm,
vườn cây ăn trái và những cánh đồng lúa, rau màu, song song với

việc đánh bắt tôm cá, săn bắt thú hoang dại để phục vụ cho nhu cầu
sinh sống. Số người đến định cư ngày càng đông, đồng thời với sự
gia tăng dân số, thì diện tích rừng ngày càng thu hẹp và ngay cả
những khu rừng ngập mặn cũng không thoát khỏi sự đốn phá để
khai thác củi gỗ, thiết lập vuông tôm. Đó là chưa kể đến bom đạn và
chất độc hoá học trong chiến tranh cũng đã tàn phá một diện tích
rộng lớn rừng ngập mặn và vườn cây trong tỉnh.

Tất cả những hoạt động liên tục của con người qua hàng trăm năm
nay đã làm thay đổi được thảm thực vật nguyên thủy một cách sâu
đậm. Thay vào đó là những cảnh quan nhân tạo, mà một số vết tích
của các khu rừng khi xưa vẫn chưa xóa sạch. Ngày nay, khảo sát thực
vật tự nhiên còn sót lại trong tỉnh, ta thấy dấu vết của các quần thể
thực vật sau đây

* Động vật



Bến Tre là vùng đất trẻ có nhiều cửa biển, nằm ở cuối nguồn hệ sông
lớn Cửu Long. Những cù lao lớn – cũng có nghĩa là phần lớn đất
chính của Bến Tre – luôn luôn được phù sa bồi đắp và hàng năm
vươn dài ra biển. Nằm ở giữa môi trường sông và biển, chịu ảnh
hưởng của khí hậu gió mùa nhiệt đới nên cảnh quan tự nhiên của
Bến Tre mang đặc trưng của miền địa lý động vật của miền Tây Nam
Bộ.

So với những tỉnh có vùng ven biển ở gần như Bà Rịa – Vũng Tàu,
Long An, Tiền Giang, Bến Tre ở khá xa rừng núi cao, nơi có nhiều loài
động vật tập trung sinh sống, đặc biệt là các thú lớn và chim. Đồng

thời, những dòng sông lớn cũng là những chướng ngại đáng kể đối
với sự giao lưu, di chuyển của các loài thú, dù rằng phần lớn do bẩm
sinh chúng thường biết lội.

Đó là xét trên cơ sở hiện trạng bộ mặt thế giới động vật ngày nay của
Bến Tre vốn đã từng trải qua những biến đổi to lớn, do sự tác động
và khai thác liên tục của con người trong mấy thế kỷ qua. Ngược
dòng lịch sử, các thư tịch cổ đã cho biết tương đối rõ nét về cảnh
quan ở đây vào thời kỳ trước thế kỷ XVII và giai đoạn buổi đầu, khi
những cư dân người Việt đến định cư. Rừng rậm chiếm diện tích
hàng trăm dặm, trải dài từ các cửa biển đi về phía thượng nguồn,
trong đó ngoài cây gỗ đủ các loại, còn có nhiều loại thú rừng to lớn
như voi, tê giác, trâu rừng, cọp, nai đến các chú thỏ như khỉ, cầy, sáo,
sóc, chuột v.v

Như vậy, chỉ trong vòng mấy thế kỷ qua, thế giới động vật ở Bến Tre
đã trải qua những biến đổi ghê gớm. Các loài thú lớn coi như đã hoàn
toàn biến mất, khi những dải rừng hoang trở thành đồng ruộng, đất
thổ cư và những làng xóm, thị trấn, thị xã đông đúc dân cư. Người
Bến Tre ngày nay, nếu chưa ra khỏi vùng đất này thì chỉ biết các loài
thú như voi, cọp, cá sấu qua hình ảnh trong sách vở hay trong các
câu chuyện kể.
* Tỉnh Bến Tre: Sông rạch, thủy văn, địa danh

+ Sông rạch



Sông Cửu Long khi chảy vào nước ta, chia làm hai nhánh ở phía đông
gọi là sông Tiền, nhánh ở phía tây gọi là sông Hậu. Sông Tiền, trước

khi đổ ra biển lại tách ra làm bốn nhánh như hình nan quạt, ôm gọn
ba dải cù lao Bến Tre. Đó là các sông Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông và
Cổ Chiên. Tất cả đều chảy theo hướng tây bắc – đông nam và đổ ra
biển hàng trăm tỷ mét khối nước mỗi năm. Trải qua hàng chục thế
kỷ, dòng sông đã cần mẫn chuyên chở phù sa từ phía thượng nguồn,
bồi tụ nên vùng Nam Bộ phì nhiêu, trong đó có đất Bến Tre. Bốn con
sông này đã giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, văn
hoá của nhân dân trong tỉnh: cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và
cho nông nghiệp, những thức ăn giàu đạm như tôm, cá, cua, ốc, góp
phần làm tươi đẹp cảnh quan, điều hoà khí hậu của một vùng đất cù
lao ba bề sông nước. Các con sông có một vị trí quan trọng trong hệ
thống giao thông thủy, không chỉ của tỉnh mà cả miền đồng bằng
rộng lớn. Từ môi trường thuận lợi này, việc giao lưu văn hoá cũng
phát triển mạnh mẽ với các vùng xung quanh.

Trên đôi bờ của các con sông là những cánh đồng đất đai màu mỡ,
những vườn cây ăn trái sum suê, những xóm làng đông đúc dân cư,
những bến sông, bến phà, chợ búa tấp nhập thuyền bè, tạo nên cảnh
sắc của một vùng quê rộng lớn, trù phú và thơ mộng.

Ngoài bốn con sông chính trên, Bến Tre còn có một mạng lưới sông,
rạch, kênh đào chằng chịt nối liền nhau, tạo thành một mạng lưới
giao thông và thủy lợi rất thuận tiện. Trung bình đi dọc theo các sông
chính, cứ cách khoảng 1 đến 2 km là có một con rạch hay kênh. Bến
Tre có hàng trăm sông, rạch và kênh, trong khi đó có trên 60 con
sông, rạch, kênh rộng từ 50 – 100 m. Đáng chú ý có các sông rạch,
kênh quan trọng sau đây:

Sông Bến Tre: dài khoảng 30 km, chảy từ trung tâm cù lao Bảo (Tân
Hào - Giồng Trôm), một nhánh nối với kênh Chẹt Sậy qua sông Ba

Lai, một nhánh qua thị xã, đổ ra sông Hàm Luông. Đây là con đường
thủy quan trọng của tỉnh.
Rạch Cái Mơn: dài 11 km, chảy qua vùng cây ăn trái nổi tiếng trù phú
Vĩnh Thành, Vĩnh Hòa (huyện Chợ Lách) đổ ra sông Hàm Luông.

Rạch Mỏ Cày: chảy qua thị trấn Mỏ Cày (thông với kênh Mỏ Cày –
Thom) ra Hòa Lộc, nhập với rạch Giồng Keo, đổ ra sông Hàm Luông.

Kênh Mỏ Cày – Thom: được đào từ năm 1905, nối rạch Mỏ Cày với
rạch Thom, tạo thành con đường lưu thông giữa sông Hàm Luông và
sông Cổ Chiên, dài 15 km. Con kênh này cũng với kênh Chẹt Sậy – An
Hóa bên cù lao Minh làm thành con đường thủy quan trọng nối liền
Mỹ Tho (Tiền Giang), Bến Tre, Mỏ Cày và Trà Vinh.
Rạch Băng Cung: là một nhánh của sông Hàm Luông chảy từ Đại
Điền, Mỹ Hưng, An Thạnh đến Giao Thạnh, đổ ra sông Hàm Luông
như một cánh cung dài 23 km, một nhánh đổ ra sông Cổ Chiên.
Rạch Ba Tri: chảy từ Phú Lễ, Phú Ngãi qua thị trấn Ba Tri rồi ra sông
Hàm Luông, dài 8 km vừa có giá trị giao thông, vừa có giá trị tưới
tiêu cho các cánh đồng của huyện Ba Tri.

Kênh Đồng Xuân: được đào từ năm 1888 đến năm 1890, dài 11 km
nối liền rạch Ba Tri với rạch Tân Xuân.

Kênh Chẹt Sậy – An Hóa: được đào năm 1878, dài 6 km nối liền sông
Bến Tre với sông Ba Lai. Đến năm 1905, đoạn kênh An Hóa dài 3,5
km nối sông Ba Lai với sông Mỹ Tho được đào tiếp, tạo nên con
đường thủy quan trọng từ sông Hàm Luông qua thị xã Bến Tre đến
sông Mỹ Tho và đi các tỉnh bạn.

Từ sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, chính quyền cách mạng

tỉnh Bến Tre đã chủ trương trục vớt các tàu giặc bị đánh chìm và các
chướng ngại vật khác trên các sông trong thời chiến tranh, khơi
thông dòng chảy, tạo sự an toàn thuận lợi cho tàu thuyền đi lại, đồng
thời tu sửa, nạo vét các kênh cũ, vừa để phục vụ giao thông, vừa
phục vụ thủy lợi. Một số kênh mới được đào thêm sau ngày giải
phóng, có trạm bơm điện đặt ở đầu mối để phục vụ cho yêu cầu phát
triển sản xuất nông nghiệp như:
1. Kênh chính A và B (Giồng Trôm – Ba Tri)
2. Kênh Hữu Định – Chẹt Sậy (Châu Thành)
3. Kênh An Hóa - Thới Lai (Bình Đại)
4. Kênh Hưng Khánh Trung – Vĩnh Thành (Chợ Lách)
5. Kênh An Định – Tân Trung (Mỏ Cày)
+ Thủy văn:



Nằm ở hạ lưu sông Mekong, giáp với biển Đông, nơi mà 4 trong 9
"con rồng" nhả nước ra biển. Bến Tre có một mạng lưới sông ngòi
chằng chịt với tổng chiều dài xấp xỉ 6.000 km, trong đó có sông Cổ
Chiên 82 km, sông Hàm Luông 71 km, sông Ba Lai 59 km, sông Mỹ
Tho 83 km. Mật độ sông ngòi dày đặt này đã khiến cho giao thông
thủy thuận lợi, nguồn thủy sản phong phú, nước tưới cho cây trồng
ít gặp khó khăn, tuy nhiên cũng gây trở ngại đáng kể cho giao thông
bộ, cũng như việc cấp nước vào mùa khô, khi thủy triều biển Đông
đưa mặn vào sâu trong kênh rạch vào mùa gió chướng.

Lịch sử các dòng chảy

Theo những kết quả nghiên cứu, trong khoảng 100 ngàn năm qua có
2 lần nước biển tràn ngập vùng châu thổ này. Lần thứ nhất cách đây

100 ngàn năm, lần thứ 2 cách đây 6 ngàn năm. Giữa hai thời kỳ này,
toàn bộ châu thổ là lục địa (trừ Đồng Tháp Mười).

Khi nước biển tràn ngập lần thứ hai, dòng Mekong đổ nước ra biển ở
một cửa sông nằm giáp ranh với Bảy Núi thuộc khu vực Châu Đốc.
Cửa sông này có nhiều phù sa lắng đọng và nhiều bãi lầy. Lúc đó các
đồi ở Long Xuyên còn là các hải đảo. Vì cửa biển Châu Đốc quá rộng,
do tác động của biến tiến, biển lùi, dòng Mekong phải trải qua 4 ngàn
năm mới cải tiến các đảo thành bán đảo, và lúc này dòng sông chẻ
làm hai thành sông Tiền và sông Hậu. Vùng Cai Lậy, Bến Tre, đại bộ
phận được hình thành cách đây 1000 năm. Càng về phía biển, đất
càng trẻ. Sau đó, dòng sông Tiền lại chẻ thành sông Vĩnh Long, và
sông Mỹ Tho, rồi sông Mỹ Tho lại chẻ thêm một nhánh nữa là sông
Hàm Luông, phát triển cho đến nay thành các sông Mỹ Tho, Ba Lai,
Hàm Luông, Cổ Chiên, với các cửa: cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa
Hàm Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu.

+ Địa danh

Ở phần “Địa danh trong tỉnh” chỉ chọn giải thích một số địa danh tiêu
biểu có liên quan đến lịch sử, con người, sự kiện, hay mang một giá
trị thẩm mỹ nhất định.

Vì khuôn khổ có hạn, những địa danh còn có nhiều ý kiến tranh luận
khác nhau, thì chỉ chọn ý kiến thích hợp, có sức thuyết phục nhất,
không nêu tất cả các ý kiến.

Tên địa danh
Đôn Nhơn, Đồ Chiểu, Đại Điền, An Bảo, An Hóa, An Thới, Bà Thủ,Ba
Châu, Ba Lai, Ba Tri, Ba Tri Cá Trạ, Bàu Dơi, Ba Vát, Bình Đại, Bãi

Ngao, Băng Cung, Bang Tra, Bến Rớ, Bến Tre, Bần Mít, Bảo An, Bảo
Hựu, Bảo Thạnh, Cái Cối, Cái Mơn, Cồn Ốc, Cồn Đất, Cồn Bà Tư, Cồn
Lợi, Cồn Phụng, Cồn Qui, Cồn Tàu, Cồn Tiên,Cồn Trẹt, Cù lao Bảo, Cù
lao Lá, Cù lao Minh, Cầu Bà Mụ, Cầu Cá Lóc, Cầu Hòa, Chợ Lách, Chợ
Thủ, Chợ Thom, Châu Thành, Chẹt Sậy, Duy Minh, Gò Trụ,Giồng Ông
Tố, Giồng Đầu Trâu, Giồng Gạch.

×