Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Nuôi dưỡng và phát huy sức mạnh dân tộc pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.79 KB, 10 trang )

Nuôi dưỡng và phát huy sức mạnh dân tộc


Sứ mệnh thiêng liêng của thế hệ Việt Nam ngày nay là phải giữ gìn độc lập, tự
chủ và toàn vẹn lãnh thổ trong một thế giới đầy biến động. Bản lĩnh của
người lãnh đạo là phải biết khơi dậy, nuôi dưỡng và phát huy sức mạnh dân
tộc được khởi nguồn từ mệnh lệnh trái tim của mỗi người dân Việt Nam.

Từ ngọn lửa yêu nước và khí phách anh hùng của ông cha
Có lẽ bài học vỡ lòng về yêu nước và khí phách anh hùng cho nhiều thế hệ Việt
Nam xưa nay là chuyện Trần Quốc Toản đời nhà Trần thế kỷ XIII. Do không được
cùng các vương hầu bàn việc quân cơ tìm kế sách chống quân xâm lược, trang
thiếu niên anh hùng ấy đã giận dữ bóp nát quả cam đang cầm trong tay lúc nào
không biết.
Chưa được dự bàn tại hội Bình Than vì tuổi nhỏ, không có nghĩa là không được
thực hiện lòng yêu nước. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư chép về chuyện này như
sau: "Trần Quốc Toản tủi phận lui về huy động hơn nghìn gia nô và thân thuộc,
sắm vũ khí, đóng chiến thuyền, viết lên cờ sáu chữ “Phá Cường Địch, Báo Hoàng
Ân”… khi đối trận tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải lui tránh,
không dám đối địch”
[1]
.
Tuổi nhỏ, chí lớn, trang thiếu niên đã giành lấy quyền được yêu nước rồi dũng
cảm thể hiện bằng hành động cái quyền thiêng liêng ấy. Hành động được lưu danh
sử sách, từng làm xúc động bao nhiêu tấm lòng Việt Nam, nhen nhúm ngọn lửa
yêu nước và khí phách anh hùng trong họ.
Sở dĩ cậu bé tuổi chỉ 15, 16 mà có khí phách lớn đến vậy là do đã được nuôi
dưỡng trong hào khí của ông cha, hun đúc nên từ ý chí quật cường không chịu
khuất phục trước sức mạnh cũng như tham vọng và mọi thủ đoạn đe dọa của kẻ
thù. Không có một khí phách của Trần Thủ Độ: “Đầu thần chưa rơi, xin bệ hạ
đừng lo”, khí phách của Trần Quốc Tuấn: “Bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu


tôi trước đã”
[1]
, khí phách của Trần Bình Trọng: “Ta thà làm ma nước Nam chứ
không thèm làm vương đất Bắc”
[1]
thì làm sao có được khí phách của trang thiếu
niên anh hùng Trần Quốc Toản?
Mà đâu chỉ các vương hầu với khí phách Đông A của dòng họ Trần. Nó còn tượng
hình rõ trên hai chữ “Sát Thát” thích trên cánh tay của quân sĩ đời Trần quyết
“cảm tử cho tổ quốc quyết sinh” trước quân xâm lược.
Cần nhớ rằng đế quốc Nguyên Mông thời ấy đã từng kiểm soát một vùng lãnh thổ
rộng lớn trải dài từ bờ Thái Bình Dương đến bên kia Hắc Hải chưa hề có trong lịch
sử thế giới mới càng hiểu khí phách ấy là lớn đến ngần nào.
Chẳng thế mà, sau khi lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống xâm lược,
vua Trần Nhân Tông, nhường ngôi cho con, lên tu ở núi Yên Tử, sách “Trúc Lâm
tông chỉ nguyên thanh” có một cách giải thích độc đáo nhằm nhấn mạnh ý thức
cảnh giác của vị vua anh hùng khi gọi ngài là “một vị Vô Lượng Lực Đại Thế Chí
Bồ Tát” để chỉ việc “dựng lên ngôi chùa, thời thường dạo chơi để xem động tĩnh,
cốt để ngừa cái mối lo nước ngoài xâm phạm”!
Cách giải thích có phần khiên cưỡng ấy phải chăng nhằm đề cao lòng yêu nước và
tinh thần cảnh giác để đối lập với những kẻ ươn hèn hốt hoảng núp bóng ngoại
bang như Trần Di Ái, Trần Ích Tắc. Những con chiên ghẻ này đã bôi nhọ tinh thần
Đông Á, phản nước, phản dân muôn đời bị nguyền rủa. Sử chép: “Ích Tắc đã từng
gửi thư riêng cho khách buôn ở Vân Đồn xin quân Nguyên xuống nam. Đến nay,
người Nguyên vào cướp, Ích tắc xin hàng chúng để mong được làm vua. Người
Nguyên phong làm An Nam Quốc Vương. Sau khi quân Nguyên thất bại, Ích Tắc
trong lòng hổ thẹn, chết ở đất Bắc!”
[1]
.


Nhưng cùng với những chuyện đó, sử cũng lại chép chuyện một hiền thần không
phải là quý tộc họ Trần từng khiến tướng giặc Ô Mã Nhi phải thốt lên “Người này
…có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa thể mưu
tính được”. Đó là chuyện Đỗ Khắc Chung tại trại giặc. Khi Ô Mã Nhi hỏi: “Quốc
Vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ Sát Thát, khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy to
lắm”. Khắc Chung đáp: “Vì lòng trung phẫn mà họ tự thích chữ thôi, Quốc vương
tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần, tại sao lại không có”. Nói rồi giơ cánh tay
cho xem [Ô Mã Nhi] sai người đuổi theo Khắc Chung nhưng không kịp”.
[1]

Quả vậy, tên tướng xâm lược đã hiểu ra một chân lý: Khi một nước “còn có người
giỏi, [thì] chưa thể mưu tính được”. Và thật dễ hiểu, để “mưu tính” thì phải làm
cho nước ấy hết người giỏi, mua chuộc người giỏi không được thì phải tìm cách
trừ khử, đó là thủ đoạn muôn đời!
Nhắc đến chuyện đời Trần để lưu ý rằng, lịch sử là một nhân tố mà thiếu nó thì
không một ý thức dân tộc nào có thể đứng vững được. Vì vậy, học lại bài học lịch
sử để thường xuyên hun đúc và phát huy tinh thần dân tộc thể hiện trong lòng yêu
nước và khí phách Trần Quốc Toản cho thế hệ trẻ là điều cực kỳ quan trọng để
biết trân trọng từng thước đất ông cha để lại, không ngần ngại hy sinh chiến đấu để
bảo vệ và xây dựng tổ quốc thân yêu của mình.
Đến sứ mệnh thiêng liêng của thế hệ Việt Nam ngày nay
Non sông gấm vóc ta có được đến bây giờ từng thấm đẫm bao nhiêu mồ hôi,
xương máu của ông cha. Sứ mệnh thiêng liêng của thế hệ Việt Nam ngày nay là
phải giữ gìn độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ trong một thế giới đầy biến động.
Điều ấy đòi hỏi phải thể hiện khí phách ấy trong những ứng xử linh hoạt, tinh tế và
tỉnh táo trên cơ sở dựa chắc vào bản lĩnh của cả dân tộc, phát huy tinh thần yêu
nước, trước hết là của tuổi trẻ Việt Nam, tạo điều kiện cho họ thực hiện quyền yêu
nước của mình.
Những sự kiện lịch sử được nhắc đến ở trên có ý nghĩa như những thông điệp của
ông cha truyền gửi cho con cháu muôn đời. Những thông điệp kiểu như vậy từ

những “tọa độ” có sức âm vang lịch sử như thế, sẽ góp phần nung nấu, giục giã ý
thức dân tộc, điểm nhạy cảm nhất trong tâm tư tình cảm người Việt Nam ta.
Nói như vậy không phải tự vỗ ngực để cho rằng ý thức dân tộc là sản phẩm riêng
của người Việt Nam. Nhưng cũng sẽ rất nông cạn và đánh mất một động lực cực
lớn nếu không thấy hết nét đặc trưng làm nên điểm nhạy cảm độc đáo trong tâm
thức người Việt.
Chẳng hạn như, nếu Tôn Trung Sơn, nhà tư tưởng lớn của lịch sử Trung Quốc
hiện đại từng nghiêm khắc đưa ra nhận định có tính phê phán nhằm chấn hưng dân
khí Trung Hoa: “Ở nước ta gia tộc và tông tộc được đồng bào sùng bái nhất, cho
nên có thể nói nước ta chỉ có chủ nghĩa gia tộc, chủ nghĩa tông tộc nhưng thiếu
hẳn chủ nghĩa dân tộc”, thì với Việt Nam lại không như thế.
Do đặc điểm hình thành trong cái thế kẹt của “trứng nằm dưới đá”, lòng yêu nước
và tinh thần dân tộc là vũ khí sống còn của người Việt chống lại ách đô hộ và âm
mưu đồng hóa để có thể tồn tại và phát triển. Không có cái đó, sẽ không có Việt
Nam hôm nay.
Chính vì vậy mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từ những năm 20 của thế kỷ XX đã khẳng
định “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn nhất của đất nước”
[2]
. Mỗi khi động lực
ấy được khởi động, thì “nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn”.
[3]

Đây là luận điểm đưa ra tại Đại hội lần thứ II của Đảng họp tại Việt Bắc năm
1951, đổi tên Đảng thành Đảng Lao Động Việt Nam. Tinh thần dân tộc là cội
nguồn của sức mạnh Việt Nam, của nền văn hóa Việt Nam được Hồ chí Minh diễn
đạt bằng khái niệm lòng yêu nước.
Mỗi khi nền độc lập của đất nước bị uy hiếp thì lòng yêu nước ấy lại bùng phát
mãnh liệt: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý
báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy

hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. …Tinh thần
yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong
bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương,
trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được
đưa ra trưng bày…”.
Những lời bất hủ ấy đã khơi dậy và thổi bùng ngọn lửa yêu nước, thiêu cháy mọi
sự ươn hèn khiếp hãi trước sức mạnh và thủ đoạn thâm độc, nham hiểm của kẻ
thù, giục giã tinh thần và ý chí mỗi người Việt Nam hành động theo mệnh lệnh của
trái tim để “kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Mọi thế lực xâm lược trong lịch sử đều bị đánh cho tan tác vì chúng không hiểu
được một thực tế Việt Nam, rất Việt Nam là: Họa xâm lăng, nguy cơ mất nước là
ngọn lửa thử vàng làm lộ rõ bản lĩnh của từng con người Việt Nam, gắn kết họ lại
thành một khối vững chắc vì đã loại bỏ được chuyện vàng thau lẫn lộn do một sự
trải nghiệm thật nghiêm khắc: “Thật vàng không sợ lửa”.
Mệnh lệnh của trái tim và sự dẫn dắt của cái đầu biết tư duy
Xin dẫn ra một ví dụ từ lịch sử về ý chí Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam, giải pháp
Việt Nam thể hiện rất nổi bật và rất điển hình trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng
quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng
ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia
tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực
dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không
có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc…"
[4]

Mệnh lệnh ấy chính là mệnh lệnh của trái tim Việt Nam. Theo “mệnh lệnh” ấy thì
mới có thể muôn người như một “Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm,

không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc” đứng lên đánh giặc cứu nước.
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người hiểu rõ cái giá của hòa bình xây dựng, của tình
hữu nghị để cùng phát triển. Nhẫn nại, kiên trì theo đuổi con đường đàm phán, cố
gắng tránh chiến tranh, đổ máu, thậm chí không ngần ngại dùng “chính sách Câu
Tiễn” để cứu vãn hòa bình đang mong manh như sợi chỉ mành trước gió, mặc dầu
hiểu rất rõ bản chất của kẻ thù “ta càng nhân nhượng, địch càng lấn tới” .
Nhưng vì biết như vậy, nên Hồ Chí Minh và Đảng của mình luôn giành thế chủ
động trong đấu tranh. Và đấy là bản lĩnh làm nên thắng lợi.
Đương nhiên, lòng yêu nước không chỉ biểu hiện bằng “gươm súng, cuốc thuổng,
gậy gộc”, mà có khi chỉ là lá cờ Tổ quốc được giương lên để biểu thị một ý chí,
một thái độ, một cảm xúc.
Chẳng hạn, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng che kín một mảng lớn khán đài sân vận
động Mỹ Đình trong trận chung kết Việt Nam - Thái Lan. Chẳng ai “lập trình”,
“lên kế hoạch”, “phân công, tổ chức” cho những lời gào thét bùng nổ niềm phấn
khích vô hạn cũng như “điều hành, xin ý kiến chỉ đạo” những giọt nước sung
sướng của Tấn Tài, cũng như của bao người khác trên sân vận động hoặc trước
màn hình khi cái đầu kỳ diệu của Công Vinh biến giấc mơ thành hiện thực, đưa
bóng đá Việt Nam lên ngôi vô địch.
Nhưng chính vì vậy mà những buồn vui, những háo hức say mê, những gào thét,
phấn khích, những giọt nước mắt giàn dụa tuôn trào, mới thật sự nói lên cường độ
mãnh liệt và ý nghĩa trong suốt của mệnh lệnh trái tim, những mệnh lệnh được ban
ra từ trái tim của mỗi người yêu nước.
Chính những mệnh lệnh được ban ra từ trái tim ấy mới thật sự là sức mạnh vô bờ,
khác nào sức mạnh của dòng sông tuôn về biển lớn mà quyết định tốc độ tuôn trào
ấy là sức cuộn chảy từ bên dưới chứ không phải những váng bẩn, bèo bọt nổi lên
trên.
Ở những đoạn sông chảy xiết, nhất là ở những khúc quanh đột ngột mở ra một
hướng mới, đưa dòng nước xuôi về biển, váng bẩn sẽ càng nổi lên nhiều. Những
đôi mắt cận thị bị những lợi ích vụn vặt trước mắt che lấp tầm nhìn, sẽ chỉ thấy
được những bèo bọt, những váng bẩn mà không sao thấy được sức cuộn chảy từ

bên dưới.
Ấy vậy mà, chính sức cuộn chảy từ bên dưới ấy mới làm nên lịch sử! Vì lịch sử là
một sự vận động trong thế tương quan giữa nhiều lực lượng nhằm tìm ra một hợp
lực, vạch ra con đường đi của nó. Ngay từ đầu, và cho đến bây giờ và mãi mãi,
những hợp lực ấy vẫn do các cá nhân hiện thực tạo ra mà vẫn không là phụ thuộc
vào cá nhân họ.
Phải chăng vì thế mà Hegel cho rằng động cơ của những nhân vật lịch sử, thật ra,
không phải là những nguyên nhân cuối cùng của lịch sử. Cái hợp lực tạo ra sức
mạnh của một dân tộc, viết nên những trang hào hùng của lịch sử dân tộc, chính là
quần chúng nhân dân. Những người theo mệnh lệnh của trái tim đã có mặt đúng
lúc, đúng thời điểm cần có họ. Ở đây, mệnh lệnh của trái tim được dẫn dắt bởi sức
mạnh của cái đầu, cái đầu biết tư duy.
Trên ý nghĩa đó mà hiểu sâu về những mệnh lệnh của trái tim yêu nước đẩy tới
những hành động, những sự kiện mà chỉ nhìn từ bên ngoài, chỉ là những biểu hiện
đơn lẻ, bình thường, rời rạc nhưng phải thấy cho ra cái bản chất tiềm ẩn kín đáo
bên trong của lòng yêu nước, điều mà Bác Hồ đòi hỏi “bổn phận của chúng ta là
làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày…”.
Biết khơi dậy, nuôi dưỡng và phát huy sức mạnh được khởi nguồn từ mệnh lệnh
trái tim ấy chính là bản lĩnh của người lãnh đạo. Làm phôi pha, thất thoát sức
mạnh có thể “kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn” ấy là có tội với
dân tộc, với lịch sử.

×