Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Một Vài Vấn Đề về Nhạc Cổ Truyền Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.98 KB, 15 trang )

Một Vài Vấn Đề về Nhạc Cổ Truyền Việt Nam

Nhạc cổ truyền đối với chúng ta là một loại nhạc xưa được truyền tụng cho tới
ngày nay. Tân nhạc là loại nhạc mới. Mới ở đây là nghĩa gì? Có phải là loại nhạc
soạn theo nhạc ngữ Âu Mỹ, hay nói một cách khác, là các bài nhạc được soạn
trong khoảng 70 năm nay (từ năm 1930) theo kiểu Tây phương nghĩa là có hòa
âm, dùng các nốt nhạc như Do-Re-Mi-Fa-Sol-La-Si-Do mà không dùng Hò, Xự,
Xang, Xê, Cống, Líu như trước thời Pháp thuộc? Có những bài ca như Vọng cổ,
Tứ Đại Oán, vàrất nhiều bài bản được sáng tác cho hát cải lương miền Nam có
phải là cổ nhạc hay tân nhạc, vìcác bài này được sáng tác từ khoảng đầu thế kỷ thứ
20 trở đi? Vấn đề "Cổ" và "Tân " hoàn toàn tương đối tùy theo quan niệm, nhận
xét của người nghiên cứu.
Nếu chúng ta nhìn vào lịch sử âm nhạc thế giới, thì giai đoạn âm nhạc cận đại của
nhạc ngữ Tây phương bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ 19. Do đó, ranh giới định rõ cổ và
tân nhạc rất là lu mờ.
Để tránh mọi ngộ nhận phức tạp, chúng ta tạm gọi như sau. "Cổ nhạc" là loại nhạc
được lưu truyền từ ngàn xưa đến nay theo phương pháp truyền khẩu, dính liền vào
đời sống hàng ngày của người dân quê hay thị thành hoàn toàn tiêm nhiễm văn
hóa Đông Phương. "Tân nhạc" dùng để chỉ loại nhạc được các nhạc khí Tây
Phương trình bày như nhạc phòng trà, nhạc được sáng tác theo phương pháp Tây
Phương.
Trở về nhạc cổ truyền Việt Nam, phần đông người Việt thường lầm lẫn giữa
"Vọng cổ", "Cải lương", và "Cổ nhạc". Chúng tôi thường nghe người mình nói với
nhau khi đi xem đại nhạc hội do các hội tổ chức cho người Việt tỵ nạn xem :
"Chà! kỳ này hát toàn tân nhạc không, còn cổ nhạc sao không thấy đâu hết !", mặc
dù trong chương trình buổi đó có nhiều tiết mục dân ca, hát bội, vv Ä Đa số
người Việt tỵ nạn chỉ biết có "Vọng cổ" mà thôi và chỉ thích nghe một bài Vọng
cổ, chứ ngoài ra không để ý đến những bài khác dùng trong hát cải lương. Những
người đặt tuồng lại không thấu triệt vốn liếng cổ nhạc nên số bài bản được sử dụng
trong các tuồng cải lương ngày nay ở hải ngoại rất bị giới hạn, và số nghệ sĩ cải
lương chỉ ráng học 6 câu xuống cho thật mùi làăn tiền, chứ không cần học hỏi


thêm bài bản như các nghệ sĩ tiền bối của giai đoạn 1940.
Với mục đích trình bày cùng độc giả một kho tàng phong phú của nền cổ nhạc
Việt Nam, và một số vốn đáng kể về bài bản trong hát cải lương, cũng như sự hình
thành về sự phát triển của bài ca Vọng cổ, chúng tôi tạm chia bài tiểu luận này làm
ba phần:
Vọng cổ là gì?
Cải lương là gì?
Cổ nhạc là gì?
VỌNG CỔ LÀ GÌ?
Ai sáng tác bài "Vọng cổ"? Theo đa số các nhà nghiên cứu Việt Nam, ông Sáu
Lầu (tên thật là Cao Văn Lầu), người gốc gác tỉnh Bạc Liêu, nhân nghe trống điểm
văng vẳng từ một chòi canh gần thôn xóm nhà, thấy tâm hồn xúc động mà nẩy ra ý
nhạc viết thành bài "Dạ Cổ Hoài Lang" (nghĩa là nghe trống canh khuya nhớ
chồng). Ông Sáu Lầu, sau khi chung sống với vợ 8 năm mà không có một mụn
con, ba má của ông mới bắt ông phải kiếm một người vợ khác để hy vọng có con
nối dõi tông đường. Vào nă m 1920 ông Sáu Lầu mới dùng cây đờn cò để sáng tác
bài "Hoài Lang" (nhớ tới người yêu của mình". Sau đó ông Sáu Lầu mới đờn bài
này cho ông Tần Xuân Thơ (gọi là Thống, thầy tuồng của gánh Tân Minh Kế ở
Bạc Liêu) nghe. Chính ông Tần Xuân Thơ viết lời cho bài "Hoài Lang" được sửa
lại là "Dạ Cổ hoài lang", nhịp hai. Khi hát cải lương thành hình trong thập niên 20,
bài "Dạ Cổ hoài lang" được các ông thầy tuồng đưa vào các vở cải lương và dần
dần thay thế bản Tứ đại oán.
Chuyện gia đình của ông Sáu Lầu được thu xếp ổn thỏa. Vợ chồng ông Sáu Lầu
được yên bề và sau đó hai người sanh được mấy mụn con. Ông Tần Xuân Thơ mới
đề nghị cùng ông Sáu Lầu đổi tên bài lại thành "Vọng cổ" (tức nhớ chuyện dĩ
vãng).
Khoảng năm 1925-27, bài "Dạ Cổ hoài lang" được phổ biến rộng rãi trong giới cải
lương. Nhịp hai không đủ chỗ để viết lời cho nên bài "Vọng cổ" được tăng lên
thành nhịp 4. Bài "Tiếng nhạn kêu sương" của ông Tư Chơi (Huỳnh Thủ Trung)
có thể là bài đầu tiên viết theo bản "Dạ Cổ hoài lang nhịp tư".

Thầy Giác là người khởi xướng bài "Dạ Cổ hoài lang nhịp 8 " vào khoảng nă m
1929-1930. Nhưng phải đợi tới năm 1935-37 nghệ sĩ Năm Nghĩa chính thức phổ
biến trong giới yêu cải lương qua bài "Văng vẳng tiếng chuông chùa".
Bài "Vọng cổ nhịp 16" được chính thức thành hình vào năm 1938 qua tiếng đờn
của nhạc sĩ Bảy Hàm với tiếng hát của cô Tư Sạng trong bài "Tình Mẫu Tử".
Nhưng phải đợi vài năm sau (sau thế chiế n thứ 2) với tiếng hát điêu luyện của
nghệ sĩ Út Trà Ôn trong bài "Tôn Tẩn Giả Điên", bài "Vọng cổ nhịp 16" mới được
phổ biến rộng rãi hơn.
Từ năm 1954 trở đi, bản "Vọng cổ nhịp 32" xuất hiện qua các dĩa há t do các hãng
dĩa Asia, Hồng Hoa, Lam Sơn, Hoành Sơn xuất bản. Bài "Đội Gạo Đường Xa"
của Kiên Giang do nghệ sĩ Hữu Phước hát được kể là tiêu biểu nhứt.

Viễn Châu (T) và Út Trà Ôn (P)
Từ năm 1964, soạn giả Viễn Châu mới đưa tân nhạc vào tạo thành loại hát "tân cổ
giao duyên". Cách đưa tân nhạc vô bài Vọng cổ bắt buộc phải rút ngắn bản Vọng
cổ làm bài Vọng cổ 6 câu còn lại 4 câu thôi.
Vềsau có người đưa bài Vọng cổ lên thành Vọng cổ nhịp 64 và Vọng cổ nhịp 128
nhưng không thành công. Cho nên tới hôm nay, sau gần 50 năm bản Vọng cổ nhịp
32 vẫn còn "ăn khách" và được phổ biến mạnh mẽ.
Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, chưa bao giờ chúng ta được thấy một bài nhạc
biến chuyển và phổ biến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam và trong lòng của
đại đa số người Việt trong cũng như ngoài nước. Tuy là một bài buồn nghe muốn
"đứt ruột, nhức xương ", làm cho người xa nhà, nhớ quê hương, mà cũng có thể
làm cho người lính hy sinh tánh mạng nơi chiến trường để giữ vững bờ cõi, hay
nung nấu lòng phục quốc của người di tản hiện nay. Thường thì bài buồn dùng âm
điệu buồn, bài vui dùng âm điệu vui như chúng ta biết trong cách sử dụng viết
nhạc. Đây là một trường hợp ngoại lệ, mà nếu có dịp, tôi sẽ phân tích tường tận
hơn.
Vọng cổ chỉ là một bài trong phần nhạc cải lương. Biết hát vọng cổ chưa có thể
nói là biết hát cổ nhạc, biết hát cải lương. Hát vọng cổ theo loại nhạc thính phòng

hay loại nhạc "xa-long" (tiếng Pháp là "Salon") hoàn toàn khác với hát vọng cổ
trong cải lương. Người hát vọng cổ theo loại nhạc thính phòng cố gắng hát cho
thật hay trong cách ngân nga, luồng giọng cho ngọt, nhịp nhàng cho chắc. Người
đệm đàn cho bài vọng cổ trong loại nhạc thính phòng chỉ cần giữ nhịp cho chắc,
và có thể nhấn vuốt tùy theo tài nghệ của người đánh đờn. Hát vọng cổ trong cải
lương có khi chỉ hát hai câu, 4 câu, hoặc 5 câu, ít khi hát 6 câu từ đầu đến cuối. Sự
khác biệt giữa hai cách hát rất quan trọng. Có người chỉ biết hát hoặc hoặc đờn
vọng cổ cho loại nhạc thính phòng mà không thể hát hay đờn vọng cổ cho hát cải
lương.
CẢI LƯƠNG LÀ GÌ?
Ngày nay chúng ta ai ai cũng ghiền nghe và coi hát cải lương, vìcải lương, sau trên
80 năm xuất hiện, hình thành và phát triển ở miền Nam trước và trên toàn lãnh thổ
sau đó, phản ảnh đời sống hàng ngày của chúng ta, nói lên những gìmàchúng ta
không thể nói được.
Nhà khảo cổ và nghiên cứu hát bội và hát cải lương Vương Hồng Sển, trong quyển
"Hồi ký 50 năm mê hát: 50 năm cải lương", tủ sách Nam Chi, do Phạm Quang
Khai, cơ sở xuất bản năm 1968, Saigon, không chắc chắn ngày khai sanh của bộ
môn hát mới này. Ở Saigon, có tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm thành lập hát cải lương
vào năm 1966, nghĩa là hát cải lương được mở mắt chào đời vào năm 1916. Vì
không có tài liệu viết trên giấy trắng mực đen, nên không thể khẳng định ngày giờ
chắc chắn của sự xuất hiện của cải lương.
Theo sự hiểu biết của tôi, hát cải lương đầu tiên được xuất hiện dưới hình thức ca
tài tử tại tư gia khoảng năm 1915. Các tài tử còn ca các bài cũ kiểu "độc thoại " và
chưa có ra bộ tịch gì hết. Lúc đó đã có thấy xuất bản một quyển "Bản đờn tranh và
bài ca" do Phụng Hoàng Sang soạn, và Đinh Thái Sơn xuất bản, Saigon, in lần thứ
ba, năm 1907. Như thế có đoán là lần in thứ nhất có thể vào khoảng 1900. Qua
quyển này chúng ta được biết vào thời đó, giới cầm ca hát đờn những bài sau đây :
"Lưu Thủy Trường", "Phú Lục", "Bình Bán chấn", "Xuân Tình", "Bình Bán Vắn",
" Bát Man Tấn Cống", "Tứ Đại", Phụng Hoàng", "Nam Xuân", "Nam Ai", "Tứ
Đại Cảnh". Có người cho rằng ông thầy Ký Trần Quang Quờn đã sáng tác bài "Tứ

Đại Oán" và "Văn Thiên Tường". Điều chắc chắn là ông Trần Quang Quờn đã
sáng chế nhiều cây đờn như cây đại ba tiêu, tiểu ba tiêu, cây song thương màngày
nay không thấy được phổ biến. Có thể nói đây là giai đoạn tượng hình thai nghén
của hát cải lương.
Bắt đầu năm 1916, loại ca đối thoại xuất hiện, nhiều người hát chung, và gọi đó là
"Ca ra bộ". Bài hát điển hình nhất làbài "Tứ đại oán " (Bùi Kiện thi rớt ) phát khởi
từ Vũng Liêm (Vĩnh Long) tại nhà thầy Phó Mười Hai. Tại Vĩnh Long, chúng ta
có thể nghĩ là nơi phát xuất của hát "ca ra bô", giai đoạn phôi thai của hát cải
lương. Ngoài ông Phó Mười Hai, mỹ danh Tống Hữu Định, ông Trần Quang
Quờn, ông Phạm Đăng Đàng là một danh cầm đất Vãng là những người đóng góp
đắc lực cho sự hình thành của hát cải lương sau này.
Phải đợi tới gần dứt thế chiến thứ nhứt, dưới chế độ toàn quyền Albert Sarrault,
dân được chính phủ bảo hộ nới rộng cho phép lập hội hè hát dân ca nên một số chủ
bút thân hào phú hộ tụ tập nhau lại (Huyện Của, Bùi Quang Chiêu, Đốc Phủ Bảy,
Hồ Văn Trung, Nguyễn Chánh Sắt, Đặng Thúc Liêng, vv ) bè n chia nhau các
vai tuồng, và lên sân khấu lần đầu, hát quyên tiền giúp Pháp chống Đức. Do sự cải
tân từ nghệ thuật hát bội, mới nẩy sinh ra danh từ "Hát bộ" nghĩa là hát ra bộ qua
vở tuồng "Gia Long tẩu quốc, Pháp Việt nhứt gia" diễn tại nhà Hát Tây Saigon
ngày 16 tháng 11, 1918.
Từ đó, ở miền Nam bắt đầu mọc lên như nấm các nhóm ca ra bộ, rồi cải lương như
ở Vĩnh Long có thầy Phó Mười Hai Tống Hữu Định, ở Sa Đéc có gánh xiệc pha ca
ra bộ rồi cải lương của André Thận, ở Sóc Trăng có gánh hát của thầy thuốc Trần
Văn Minh, ở Mỹ Tho có gánh của Thầy Nă m Tú, ở Chợ Lớn có gánh thầy Mười
Vui, ở Saigon có gánh Tân Thinh, ở Long Xuyên có gánh Tập Ích Ban (của
Vương Văn Có), vv
Suy đi nghĩ lại, điểm mà ai cũng đồng ý là hát cải lương bắt nguồn từ hát bội. Lúc
ban sơ, các tuồng hát đều dựa theo tuồng cổ của hát bội như "Trảm Trịnh Ân",
"Ngưu Cao tảo mộ", "Thoại Khanh Châu Tuấn". Ở hát bội, câu ca không cần bị
gòbó theo nhạc đàn, tuy rằng căn bản phải gìn giữ đúng với âm điệu, do đó diễn
viên được tự do sáng tạo, được phát huy sở trường, câu hát cao hay thấp, mau hay

chậm, ngân nga hay kéo dài không bị giới hạn, chỉ cần phải hòa với nhạc đàn ở
những nhịp chính là được. Còn trong cải lương, câu ca phải đúng với điệu đàn,
phải hợp với giai điệu và tiết tấu. Để tránh những cử chỉ tượng trưng quá nhiều và
hát hay thét lớn cùng những tuồng tích xưa, hát cải lương với những bài ca mùi
mẫng, với nhừng tranh dàn cảnh huy hoàng, với những tuồng gần với xã hội Việt
Nam, với lời văn đơn giản của ngôn ngữ thường ngày, với những động tác tự
nhiên đã đổi mới nghệ thuật diễn xuất, nhạc điệu. Về âm nhạc thì bỏ những lối hát
nam, hát khách, bỏ luôn lối xướng, bạch, hường, tán, chỉ giữ và phát triển thêm lối
nói lối cho thật mùi hợp với tiếng đờ n tài tử. Số vốn ca nhạc của sân khấu cải
lương ngày từ buổi đầu cũng đã rất phong phú. Về điệu "Lý ", có "Lý Ngựa Ô",
"Lý Con Sáo ", "Lý Giao Duyên ", "Lý Ngựa Ô Nam", "Lý Thập Tình ", "Lý
Chuồn Chuồn". Về ngâm thì có ngâm Sa Mạc, Bồng Mạc, Ngâm Sổng, hoặc lối
ngâm mới trong cải lương áp dụng theo dây Oán . Có ba bài Nam : "Nam Xuân",
"Nam Ai " và "Nam Đảo", bốn bài oán như "Tứ Đại Oán", "Phụng Hoàng",
"Giang Nam", "Phụng Cầu ", và bốn bài oán phụ như "Văn Thiên Tường", "Bình
Sa Lạc Nhạn ", "Bộc Thủy Ly Tao", và "Thanh Dạ Đề Quyên". Ngoài ra những
cảnh vui thì có 5 bản vui và ngắn như "Bình Bán Vắn ", "Tây Thi Vắn", "Khổng
Minh Tọa Lầu", "Mẫu Tầm Tử", "Long Hổ Hội". Sáu bài Bắc lớn như "Lưu Thủy
Trường", "Phú Lục", "Bình Bán chấn", "Xuân Tình", "Tây Thi", "Cổ Bản". Bảy
bài lớn dùng trong nhạc lễ như "Xàng Xê", "Ngũ Đối Thượng", "Ngũ Đối Hạ",
"Long Đăng ", "Long Ngâm ", "Vạn Giá ", "Tiểu Khúc ". Đó là chưa kể 8 bài ngắn
khác dùng trong nhiều trường hợp vui buồn khác nhau như "Ái Tử Kê ", "Chiêu
Quân", "Trường Tương Tư", "Đường Thái Tôn ", "Bát Man Tấn Cống", "Duyên
Kỳ ngộ", "Ngự Giá ", "Kim Tiền Bản", và sau cùng là 10 Liên Hoàn (Phẩm Tuyết,
Nguyên Tiêu, Hồ Quản g, Liên Hoàn, Bình Nguyên, Tây Mai, Kim Tiền, Xuân
Phong, Long Hổ, Tẫu Mã).
Giai đoạn tiên khởi của cải lương bắt đầu bằng gánh hát của thầy André Thận vào
năm 1917. Đến năm 1918, gánh André Thận rã, thầy Nă m Tú ở Mỹ Tho mới gom
góp các tài tử của André Thận lập nên gánh Thầy Năm Tú, sắm thêm y phục, tranh
cảnh, và có Trương Duy Toản là thày soạn tuồng đàng hoàng.

Lúc đầu là phụ diễn trước khi chiếu phim hát bóng. Các tài tử đều ngồi trên bộ ván
gõ, và mặc quốc phục chỉnh tề, vừa ca vừa ra bộ. Thầy Năm Tú có công trong việc
đưa nhạc cải lương đến với mọi tầng lớp người Việt trên toàn cõi xứ Việt Nam qua
các dĩa hát 78 vòng mà những người từ bát tuần trở lên đều nhớ mỗi khi nghe dĩa
hát bát đầu bằng cầu "Đây là bạn hát cải lương của Thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho,
hát cho dĩa Pathé Phono nghe chơi"
Từ đó trở đi, các gánh đua nhau mọc lên như nấm. Nào gánh Tập Ích Ban, gánh
Tân Thinh Ban, gánh Văn Hý Ban, gánh Võ Hý Ban, gánh Phước Cương, gánh
Trần Đắc, gánh Huỳnh Kỳ, gánh Phụng Hảo, vv đã tạo cho sân khấu cải lương
một nền móng vững chắc. Những tài tử cải lương gạo cội tiền bối người còn người
mất (hiện nay chỉ còn có bà Phùng Há, bà Bảy Nam ở Saigon) như các bà Phùng
Há, Năm Phỉ, Bảy Nam, Hai Nhỏ, Ba Út, Năm Sa Đéc, Thanh Tùng, Kim Thoa,
và các nam nghệ sĩ như Từ Anh, Năm Châu, Bảy Nhiêu, Năm Nghĩa, Tám Danh,
Ba Du, vv… đã đưa nghệ thuật diễn xuất cải lương từ chỗ sơ khai đến chỗ toàn
hảo.

Phùng Há (T), Bảy Nam (G), Thanh Nga (P)
Từ năm 1938 đến năm 1945, nhóm Kim Thoa của Tư Chơi và gánh Kim Chung
tìm cách pha nhạc Tây vào câu ca bài bản cổ Việt.
Đến giai đoạn hồi cư (1946-47), hát cải lương xuất hiện trở lại và chỉ đem tuồng
cũ ra diễn lại mà thôi.
Từ năm 1950 trở về sau, cải lương lại pha thêm đấu kiếm, đánh võ, đánh chưởng,
vừa ca vừa hát giọng Tàu (Hồ Quãng), giọng Âu Mỹ, rồi lại sinh ra loại tân cổ
giao duyên.
Tuồng tích cải lương được phân chia ra nhiều loại : tuồng tàu, tuồng dã sử, tuồng
chiến (gánh hát của Bảy Cao), tuồng La Mã, Phù tang, tuồng xã hội, tuồng
chưởng, tuồng hồ quãng, vv
Giai đoạn 50-60, những nghệ sĩ hữu hạng và thượng thặng mà đa số chúng ta đều
biết tiếng như là Út Trà Ôn (từ trần năm 2001), Thành Được (hiện sống ở San
Jose, Hoa Kỳ), Thanh Tú (hiện ở Saigon, Việt Nam, Hùng Cường (từ trần ở

California, Hoa Kỳ), Dũng Thanh Lâm (hiện sống ở California, Hoa Kỳ), vv về
phía nam, và Út Bạch Lan (hiện sống ở Saigon), Thanh Nga (từ trần), Bạch Tuyết
(hiện sống ở Saigon), Ngọc Giàu (Saigon), Thanh Thanh Hoa (Saigon), Ngọc
Nuôi (Hoa Kỳ), Kim Chưởng (Saigon), vv về phía nữa.
Một số hề nổi tiếng như Ba Vân (từ trần), Sáu Đước (gánh Tân Đồng Ban, từ
trần), Tư Rọm (gánh Việt Hùng Minh Chí, từ trần), Hề Trường, Hề Tỵ (gánh Tân
Hí, Mộng Vân, Phát Thanh), Lê Tám (gánh Hoa Sen), Hề Phúc Lai, Hề Tư Vững,
Hề Giác, Hề Minh, Hề Hai Vinh,vv là những người đã đem sức đem hơi ra chọc
được tiếng cười dòn tan của khán giả. Tất cả các danh hề kể trên đã sang bên kia
thế giới.
Từ năm 1970 trở đi, các nghệ sĩ trẻ như Minh Phụng, Minh Cảnh, Tấn Tài, Chí
Tâm (hiện sống ở Hoa Kỳ), Vương Kiệt, Lệ Thủy, Hương Lan (sống ở Hoa kỳ),
Phượng Liên (hiện sống ở Hoa kỳ) vv nối tiếp con đường đã vạch sẵn của các
bậc tiền bối.
Tại miền Nam trước 1975 có trên 50 gánh hát lưu diễn quanh năm. Ngày nay số
gánh hát vẫn tương đương và tiếp tục phát triển nghệ thuật cải lương ở Việt Nam,
trong khi ở hải ngoại ngành cải lương không còn thu hút khán giả nữa, và các nghệ
sĩ cải lương tỵn nạn đã phải tìm một nghề khác để mưu sinh.
CỔ NHẠC LÀ GÌ?
Cổ nhạc, nói chung, bao gồm nhiều loại nhạc khác nhau: nhạc cung đình, nhạc tôn
giáo, nhạc thính phòng, nhạc tuồng (hát bội, chèo, cải lương), nhạc dân gian từ bài
hát ru con, các loại đối ca, đến loại hò đưa linh. Nói một cách khác, cổ nhạc là
nhạc của người dân Việt từ thời lập quốc đến giai đoạn hiện đại do người Việt
sáng tác theo truyền thống truyền khẩu. Trong phạm vi bài này, tôi không thể tạm
gác một bên các loại nhạc đồng bào thiểu số vì không thể kê khai nhạc của 54 sắc
tộc sống trên xứ Việt ngư người Thái, Mông, Mường, Mán, Thổ, Tày, Dao, Ra-đê,
Ba-na, Mnong, Sê Đăng, Ê Đê, Chàm, vv
Nhạc cung đình được Lương Đăng phỏng theo nhạc cung đình nhà Minh bên
Trung quốc vào thế kỷ thứ 15. Đến thời nhà Nguyễn (1802-1945), nhạc cung đình
gồm các loại : Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ Tự nhạc, Đại Triều nhạc, Thường Triều

nhạc, Cứu Nhựt nguyệt giao trùng nhạc, cung trung chi nhạc, Yến nhạc, văn nhạc,
võ nhạc do nhiều dàn nhạc như đại nhạc, tiểu nhạc với số nhạc công rất đông. Đó
là chưa kể một số điệu vũ như văn vũ, võ vũ, tứ linh vũ, hoa đăng vũ, bát man tấn
cống vũ, vv …
Nhạc tôn giáo gồm có nhạc Khổng giáo bây giờ không cò n nữa (chỉ còn nghe tại
Đài Loan và Đại Hàn mà thôi ), nhạc Phật Giáo rất phong phú với các điệu niệm,
tán, tụng đầy nhạc tính, nhạc Cao Đài đặc biệt miền Nam trên điệu Nam (Nam
Xuân, Nam Ai, Oán), và tất cả các loại nhạc dính liền với các tế lễ như chầu văn,
hầu văn, rỗi bóng, lên đồng, nhạc đám ma.
Nhạc thính phòng (tạm gọi là thính phòng theo nghĩa Tây phương), là một bộ môn
rất được ưa chuộng tại Việt Nam. Có ba loại nhạc thính phòng đặc thù của ba miền
: miền Bắc có "Hát Ả Đào", miền Trung có "Ca Huế ", và miền Nam có "Đàn Tài
Tử ". Hát ả đào còn gọi là "Ca Trù ", "Hát Cô Đầu" không còn được thịnh hành tại
miền Bắc vì không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại mặc dù đã được chấn hưng từ
20 năm nay. " Ca Huế ", với các bài Nam Ai, Nam Bằng, Tứ Đại Cảnh, 10 bài ngự
vẫn còn được ưa thích. "Đàn Tài Tử " được bành trướng mạnh mẽ tại miền Nam
với các đại hội liên hoan được tổ chức tại các tỉnh miền Nam (Tân An, Mỹ Tho,
Bạc Liêu). Chính "Đàn Tài Tử " đã đóng góp rất nhiều cho sự hình thành nhạc hát
cải lương.
Nhạc dân gian Việt Nam rất giàu. Miền Bắc có biết bao nhiêu dân ca đã làm sống
lại những nét đẹp của phong cảnh, của phong tục nghìn xưa như loại hát quan họ
Bắc Ninh với phong tục kết bạn, ngủ bọn (liền anh, liền chị), hát thi hát lấy giải;
rồi hát trống quân, hát giậm, hát phường vải, hát ví, hát xoan, cò lả, hội sim. Ngoài
ra còn có hát xẩm. Miền Trung có hò sông Mã, hò mái nhì, mái đẩy, mái sấp, hò
hụi, hò nện, các điệu lý như lý mười thương, lý con sáo, lý giao duyên. Trong
Nam những điệu hò thay đổi từng miền, từng vùng như Hò Đồng Tháp, hò Bạc
Liêu, hò Bến Tre, hò lơ, hay các điệu lý như Lý Ngựa Ô, lý chuồn chuồn, lý con
khỉ Đột, lý dĩa bánh bò, lý che hường, vv Hầu hết các điệu lý, hò, đối ca đều
dựa trên thể thơ lục bát rất đặc biệt Việt Nam. Dân ca Việt Nam, nhờ vào những
cuộc hát thi lấy giải và óc sáng tạo nhạy bén mà ngày nay có trên mấy ngàn bài

được phổ biến khắp nơi.
Tôi hy vọng rằng, qua bài tiểu luận này, quý bạn đọc sẽ có một khái niệm đại
cương về thế nào là "Vọng cổ", thế nào là "Cải lương", thế nào là "Cổ nhạc". Biết
được nguồn gốc nhạc Việt là một điều cần thiết nhứt là cho kiến thức văn hóa cho
mỗi người trong chúng ta lúc phải bị lìa xa quê hương. Hiểu được nhạc mình, biết
qua nhạc người, dung hòa hai nền nhạc Âu và Việt để đừng bị mất gốc mất rể và
có thể dạy dỗ con cháu thuộc thế hệ sau. Tự hào nhạc Việt, cũng như tự hào tiếng
nói Việt, văn hóa Việt là nung nấu chí khí quật cường bất khuất của dân tộc Việt,
là nuôi dưỡng tình yêu quê hương, tình thương dân tộc để xứng đáng là con cháu
dòng dõi Lạc Hồng.

×