Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Phân tích hợp tác Việt Nam và Liên minh châu Âu trong lĩnh vực dệt may - 4 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.51 KB, 7 trang )

Người ta cho rằng MFA đã làm biến dạng hình thức buôn bán và sản xuất các sản
phẩm dệt may, các nước được hưởng lợi trong buôn bán quốc tế hàng dệt may là các
nước công nghiệp phát triển.
Năm 1994, trong khuôn khổ vòng đàm phán Urugoay của WTO. Hiệp định về
hàng dệt may (ATC) ra đời. Theo ATC hàng dệt may sẽ được hội nhập dần dần theo
các quy tắc thông thường của GATT, chấm dứt trường hợp ngoạI lệ trong kinh doanh
các sản phẩm dệt may như quy định của MFA. Các thoả thuận về hạn chế số lượng
trước đây giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu sẽ được hạn chế loạI bỏ dần dần, thời
gian cho việc này kéo dàI trong 10 năm, được chia thành các giai đoạn: Từ ngày
1/1/1995 đến 31/12/1997: 16% tổng khối lượng hàng dệt may nhập khẩu trong năm
1990, sẽ không bị hạn chế về số lượng trong buôn bán hàng dệt may giữa các nước xuất
khẩu và nhập khẩu. Từ ngày 1/1/1998 đến 31/12/2000, tương tự là 17%. Từ 1/1/2001
đến 31/12/2004 là 18%. Từ 1/1/2005 là tất cả các số lượng hàng còn lại.
Trong từng giai đoạn, mỗi nước nhập khẩu có quyền chọn bất kì một sản phẩm nào
trong 4 loạI: sợi, vảI, sản phẩm dệt và quần áo may sẵn để đưa vào danh mục buôn bán
không hạn chế số lượng. Đối với những sản phẩm buôn bán , theo hạn chế về số lượng
các nước áp dụng phảI chứng minh được các sản phẩm này đang làm thiệt hạI nghiêm
trọng đến sản xuất các sản phẩm tượng tự ở trong nước. ACT là một kết quả rất quan
trọng của vòng đàm phán Urugoay. Hiệp định ACT sẽ làm tăng khả năng tiếp cận thị
trường nước ngoàI cho các nhà sản xuất hàng dệt may, hứa hẹn tăng việc làm và cơ hội
kinh doanh cho các nước đang phát triển. Chính vì thế, Việt Nam cần xúc tiến việc gia
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nhập WTO để được hưởng các tiến bộ của ATC và có đủ sức cạnh tranh với các đối thủ
khác trên thị trường EU.
3.3.2. CảI cách hệ thống để đẩy mạnh xuất khẩu.
Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu vừa qua của Nhà nước đã
tạo ra một môI trường bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Thuế doanh thu đánh trùng lặp
nhiều lần đối với giá trị sản phẩm. Ví dụ, doanh nghiệp may phảI chịu thuế doanh thu
trên giá trị mà doanh nghiệp phảI từ doanh nghiệp khác để sản xuất, trong khi đó, phân
xưởng may của một doanh nghiệp dệt dùng vảI của doanh nghiệp mình thì không phảI
tính thuế. Do đó, nhiều doanh nghiệp dệt đã mở thêm phân xưởng may ngoàI mục đích


tạo công ăn việc làm cho công nhân còn vì lí do tránh bị đánh thuế trùng lặp như doanh
nghiệp may. Vì vậy chi phí sản phẩm may mặc của doanh nghiệp may cao hơn phân
xưởng may của doanh nghiệp dệt, gây ra tình trạng cạnh tranh không bình đẳng giữa
các doanh nghiệp. Khi áp dụng thuế giá trị gia tăng thì khắc phục được đIều này, chi
phí sản xuất của các doanh nghiệp sẽ giảm do nỗ lực của từng doanh nghiệp chứ không
phảI do cơ chế tính thuế.
Tuy nhiên chính sách thuế đối với sản phẩm dệt may của chúng ta cũng còn rất
nhiều bất cập. Cách đánh thuế vào nguyên liệu là một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng trong kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU, tỉ lệ sản
phẩm gia công chiếm 80%. Đối với doanh nghiệp may, nếu dùng vảI nội, phảI bỏ vốn
ra để mua vảI vừa phảI chịu mấy lần tính thuế ( thuế sợi, vảI mộc, vảI thành phẩm…),
còn trong phương pháp gia công, hiện nay doanh nghiệp may dùng tất cả các nguyên
liệu phụ của đối tác EU và không phảI chịu thuế (tạm nhập, táI xuất).
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trước tình hình đó, nên miễn giảm thuế cho các sản phẩm dùng nguyên liệu trong
nước giảm thuế với vảI sản xuất bằng thiết bị mới… NgoàI ra cần phảI xem xét lạI thời
hạn 90 ngày đối với nhập nguyên vật liệu và táI xuất của ngành may. Bởi lẽ từ khâu kí
kết hợp đồng, mua nguyên liệu, sản xuất và xuất khẩu khó thực hiện trong thời gian đó,
tuy nhiên nếu kéo dàI thời hạn với hàng tạm nhập và táI xuất thì nước có thể bị thất thu
về thuế nhưng thời hạn này cũng phảI đủ để không gây khó khăng cho các doanh
nghiệp gia công. Theo các chuyên gia thì thời hạn lí tưởng là tư 120 ngày đến 180 ngày.
3.3.3. Đẩy mạnh phát triển nguyên liệu trong nước.
Để thực hiện được mục tiêu về diện tích và sản lượng các loạI nguyên liệu. Đến năm
2010, diện tích trồng bông là 100.000 hécta, dâu tằm là 40.000 hecta, sản lượng bông
xơ là 60.000 tấn, trong khi diện tích trồng các loạI cây nguyên liệu này đang có sự suy
giảm nghiêm trọng năng suất thấp do không có giống mới, thiết bị cộng nghệ để thu
hoạch và chế biến lạc hậu thì quả là khó khăn. Để mục tiêu này mang tính khả thi, Tổng
công ty dệt may Việt Nam cần phối hợp các bộ ngành tổ chức hội nghị với các địa
phương để xác định quỹ đất thực có cho sự phát triển của cây bông, cây dâu nhằm gắn
kết quy hoạch ngành với quy hoạc vùng lãnh thổ, xây dựng và đIều hành kế hoạch giữa

bông nhập khẩu và bông sản xuất trong nước.
Nhà nước cần phảI có những chính sách tiến dụng ưu đãI để tạo nguồn vốn cho
người nông dân để họ đầu tư cho giống mới và các máy móc thiết bị trong khâu thu
hoạch. Mặt khác, các doanh nghiệp dệt cần có kế hoạch thu mua bông, tơ cụ thể nhằm
đảm bảo sự ổn định giá cả và thị trường cho người sản xuất. NgoàI ra cho đến năm
2005, nhu cầu về tơ sợi tổng hợp cũng rất lớn: xơ PE 90.000 tấn, sợi PETEX hơn 1000
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
tấn trong khi đó cho tới nay mới chỉ có nhà máy dệt Hualon do Malaysia đầu tư ở
Đồng Nai sản xuất được tơ sợi tổng hợp và khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đI vào hoạt
động thì việc sản xuất xơ PE có triển vọng. Nhưng nhìn chung vẫn rất thấp, chính vì thế
chúng ta cần phảI có những biện pháp để thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực này.
3.3.4. Nghiên cứu triển khai và đào tạo nhân lực.
Biện pháp này chú trọng đến các hướng chính sau:
+ Chú trọng công tác đào tạo cán bộ quản lí, kĩ thuật và công nhân lành nghề. Lập kế
hoạch và triển khai việc đào tạo lạI và cập nhập thông tin cho các cán bộ chủ chốt. Có
cơ chế gắn kết Viện- Trường- Doanh nghiệp trong nghiên cứu- đào tạo và triển khai
một cách có hiệu quả.
+ Củng cố Viện mẫu thời trang thành một cộng cụ mạnh và nghiên
cứu ứng dụng phát triển ngành. Trang bị phòng thí nghiệm cho Viện
và phân viện kinh tế- kĩ thuật dệt- may để xin nhà nước bổ sung chức
năng kiểm định quốc gia về hàng dệt may.
3.3.5. Đẩy mạnh phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm.
Như đã trình bày ở những phần trước, kim ngạch xuất khảu hàng dệt
may sang EU trong những năm qua rất khả quan, nhưng phương thức
gia công thuần tuý lạI chiếm một tỉ lệ rất lớn 80% trong kim ngạch
xuất khẩu. Mặc dù trong giai đoạn đầu phương thưvs này đac giảI
quyết một số lượng lao động lớn, giúp doanh nghiệp dệt may Việt
Nam bước đầu tập dượt tìm hiểu về thi trường EU, đưa về cho đất
nước một số lượng ngoạI tệ ít ỏi, nhưng đổi lạI uy tín sản phẩm (giá
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

cả, sức mua, tâm lí tiêu dùng, sự biến đổi sở thích…) ta không nắm
được. Phương thức này cũng hạn chế sự năng đọng của các doanh
nghiệp dệt may kinh doanh theo kiểu “ ngồi buôn” chứ không phảI
“đI buôn”. Các doanh nghiệp ngồi tạI chỗ chờ khách đến rồi chạy đI
xin hạn ngạch tương đối phổ biến ở các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam.
Vì thế, để ngành dệt may Việt Nam phát triển bền vững, để khai
thác hiệu quả thị trường EU chúng ta phảI dần tỉ lệ gia công, nâng
dần phương thức “mua đứt bán đoạn” trong kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may sang EU. Để làm được đIều này cần có sự hỗ trợ của nhà
nước thông qua một hệ thốnh chính sách: chính sách đầu tư, tín dụng,
thuế, tỉ giá hối đoáI, nguyên liệu… đặc biết là các doanh nghiệp dệt
may cần phảI nâng cao chất lượng sản phẩm, cảI tiến mẫu mã đáp ứng
đúng thi hiếu của người tiêu dùng, tạo uy tín để chiếm lĩnh thị trường
để có đủ sức cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trương EU.
Kết luận
Liên minh Châu Âu như đã phân tích là tổ chức duy nhất có mục tiêu cơ bản và lâu
dàI là thống nhất cả một châu lục về cả kinh tế và chính trị dựa trên các nguyên tắc vừa
linh hoạt vừa thực dụng và mang tính quốc gia ngày càng rõ rệt. Trong hơn 40 năm qua,
EU đã tồn tạI không ngừng phát triển và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đời
sống quốc tế nói chung và các nước trong khối EU nói riêng.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trước những thành công mà EU đã đạt được trong tiến trình nhất thể hoá kinh tế-
tiền tệ về chính trị Việt Nam đang ngày càng chú trọng tới việc đẩy mạnh quan hệ hợp
tác kinh tế thương mại với EU, đặc biệt là trong lĩnh vực dệt may
Kết quả nghiên cứu cho thấy, từ khi Hiệp định dệt may giai đoạn 1993 đến 1997
được kí kết đến nay quan hệ thương mạI Việt Nam- EU trong lĩnh vực dệt may đã có
những bước phát triển khả quan. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị
trường EU không ngừng tăng lên. Nhiều mặt hàng cao cấp của ngành dệt may Việt
Nam đã đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của người châu Âu “đẹp nhưng phảI rẻ”.

Ngược lại, ngành dệt may Việt Nam cũng đã tiêu thụ một số lượng lớn thiết bị, máy
móc, vật tư, nguyên liệu và hoá chất nhập từ EU. Hiệp định dệt may Việt Nam- EU
được kí kết vào ngày 10/9/1998 với thiện chí của hai bên đã hứa hẹn một tương lai sáng
sủa cho sự hợp tác trong lĩnh vực này.
Những năm tới, ngành dệt may Việt Nam cần phảI có những chính sách, biện pháp
phù hợp để khắc phục những khó khăn, phát huy các lợi thế của mình nhằm khai thác
các thị trường EU hiệu quả hơn. góp phần phát triển ngành dệt may ngang tầm nhiệm
vụ- ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Với việc tiếp tục duy trì quan
đIểm phát triển và mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả quốc gia khác như trên thế giới vì
lợi ích trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi dân tộc do Đảng ta đề
ra sẽ tạo đIều kiện cho sự hội nhập và phát triển kinh tế Việt Nam. Với thiện chí và
tiềm năng to lớn của Việt Nam và EU chúnh ta tin tưởng rằng quan hệ hợp tác Việt
Nam- EU nói chung và trong lĩnh vực dệt may ngày càng phát triển tốt đẹp.
Tài liệu tham khảo
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
1. TS. Kim Ngọc - Chiến lược đầu tư của EU đối với các nước trong khu vực và Việt
Nam - Tạp chí nghiên cứu Châu Âu tháng 1/1995
2. TS. Kim Ngọc - Việt Nam EU hợp tác kinh tế và thương mại. Tạp chí những vấn đề
kinh tế thế giới số 4/1996.
3. Trần Kim Dung - Chiến lược mới của Liên minh Châu âu đối với Châu á. Tạp chí
nghiên cứu Châu âu số 3 + 4 năm 1996.
4. Trần Kim Dung năm 1997 - Một bước tiến mới vững chắc trong quan hệ hợp tác toàn
diện giữa Việt Nam EU. Tạp chí nghiên cứu Châu Âu tháng 1/1998.
5. Nguyễn Thị Quế - Việt Nam EU. Tạp chí nghiên cứu Châu âu số 2/1998.
6. Dự án quy hoạch tổng thể phát triển ngành dệt may đến năm 2000 - 2010 của Tổng
công ty dệt may Việt Nam.
7. Vũ Hà Quang - Hiệp định dệt may Việt Nam EU những sửa đổi mới tạp chí Thương
mại số 15/1998.
8. Đỗ Thúy Loan - Lối thoát cho hàng dệt may Việt Nam sang thị trường phi hạn ngạch
- Báo thương mại ngày 27/2/1999.

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×