Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Phân tích và đánh giá cổ phiếu STB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.94 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH

ĐỀ TÀI: Phân tích và đánh giá cổ phiếu
STB
1
I. NHẬN XÉT TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ VÀ NGÀNH
NGÂN HÀNG TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY:
1. Những điều kiện kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến
ngành ngân hàng
1.1. Tổng sản phẩm quốc nội
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2013 ước tính tăng 5,42% so
với năm 2012.
Trong đó, quý I tăng 4,76%, quý II tăng 5%, quý III tăng 5,54% và quý
IV tăng 6,04%. Như vậy, mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mục tiêu
tăng 5,5% đề ra nhưng vẫn được đánh giá là cao hơn mức tăng 5,25% của
năm 2012 và có tín hiệu phục hồi.
Trong tổng mức tăng 5,42% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản tăng 2,67% xấp xỉ mức tăng năm trước, đóng góp 0,48
điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,43%, thấp hơn
mức tăng 5,75% của năm trước và đóng góp vào mức tăng chung 2,09%.
Khu vực dịch vụ tăng 6,56%, cao hơn mức tăng 5,9% của năm 2012 và
đóng góp vào GDP 2,85 điểm phần trăm.
Về tốc độ sử dụng GDP trong năm nay, , tiêu dùng cuối năm tăng
5,36% so với năm 2012, đóng góp 3,72 điểm phần trăm vào mức tăng
chung; tích lũy tài sản tăng 5,45%, đóng góp 1,62% điểm phần tram,
chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 0,0% điểm phần
trăm do xuất siêu
1.2. Lạm phát
Lạm phát cả năm 2013 có khả năng đạt khoảng 6,15% và vẫn nằm


trong tầm kiểm soát của Chính phủ. Theo nhận định từ Ngân hàng Nhà
nước, đến nay, có thể nói mục tiêu kiềm chế lạm phát trong năm 2013 gần
2
như đã thành hiện thực theo chỉ tiêu đề ra (tăng 8% theo Nghị quyết về kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 của Quốc hội và tăng 6-6,5%
theo Nghị quyết 01/NQ-CP của Chỉnh phủ).
Kể từ tháng 6/2013 trở lại đây, tốc độ tăng CPI theo tháng có xu
hướng tăng cao hơn so với đầu năm và đạt mức cao nhất trong 2 tháng
cuối của quý III/2013 (tháng 8/2013: 0,83% và tháng 9/2013: 1,06%), tuy
nhiên tốc độ tăng lại có biểu hiện giảm trong tháng 10/2013 (0,49%) và
tiếp tục giảm mạnh trong tháng 11/2013 (0,34%).
Kết quả cuộc điều tra kỳ vọng lạm phát mới đây cũng cho thấy, các
TCTD kỳ vọng CPI tháng 12/2013 chỉ tăng 0,62% so với tháng 11/2013,
cao hơn mức tăng cùng kỳ 2 năm trước (0,27% tháng 12/2012 và 0,53%
tháng 12 năm 2011).
Trong báo cáo đánh giá tình hình kinh tế Việt Nam 11 tháng năm
2013, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cũng dự báo lạm phát cả năm
2013 không quá 6,3%. Như vậy, đến thời điểm hiện nay, có thể nói Việt
Nam đã đạt được thành công trong công cuộc kiểm soát lạm phát trong
năm 2013.
Năm 2013 là năm thứ 2 liên tiếp Việt Nam đã thành công trong việc
kiểm soát lạm phát theo đúng mục tiêu đề ra của Quốc hội và Chính phủ,
qua đó giúp ổn định kinh tế vĩ mô và kích thích tăng trưởng kinh tế.
Trong những năm vừa qua, trước những con sóng suy giảm của nền
kinh tế thế giới, Việt Nam đã chủ động đưa ra các chính sách và biện pháp
nhằm tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Nhờ đó, lạm phát đã được kiểm soát thành
công, lạm phát tính theo năm đã giảm rõ rệt, từ mức 23,02% tháng 8/2011
3
(so với cùng kỳ) xuống mức 7,5% (tháng 8/2013) và 5,78% (tháng

11/2013).
Theo kết quả khảo sát gần đây, lạm phát trong năm 2014 được các
TCTD kỳ vọng chỉ tăng ở mức một con số, với mức tăng trung bình
6,74%, mức kỳ vọng này nằm trong ngưỡng mục tiêu đề ra của Quốc hội
(khoảng 7%).
Tuy nhiên, mục tiêu này vẫn là một thách thức lớn đối việc việc kiểm
soát lạm phát năm 2014. Bởi vì, thứ nhất là theo nhận định của các TCTD
việc điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý tiếp tục là nhân tố
ảnh hưởng mạnh nhất đến diễn biến lạm phát trong năm 2014.
Thứ hai là với mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao hơn trong năm 2014
(5,8%), nới lỏng bội chi ngân sách lên 5,3% GDP, cùng với phát hành bổ
sung trái phiếu Chính phủ thì mục tiêu kiểm soát lạm phát sẽ lại tạo ra áp
lực lớn cho cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ.
1.3. Lãi suất
Năm 2013, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành tín dụng linh hoạt
theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động của các tổ chức
tín dụng, kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay ngoại tệ phù hợp với chủ
trương của Chính phủ về hạn chế đô la hóa trong nền kinh tế.
Thực hiện chỉ đạo trong các nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ về
một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã đề ra mục tiêu
và nhiệm vụ của ngành Ngân hàng trong năm 2013 là: Tiếp tục điều hành
linh hoạt và đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ; chủ động điều hành
cung ứng tiền nhằm ổn định thị trường tiền tệ và đảm bảo tính thanh
4
khoản của các tổ chức tín dụng (TCTD), góp phần kiềm chế lạm phát ở
mức thấp và ổn định kinh tế vĩ mô.
Đồng thời, NHNN tiếp tục điều hành tín dụng linh hoạt theo hướng
mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động của các TCTD, kiểm soát
chặt chẽ hoạt động cho vay ngoại tệ phù hợp với chủ trương của Chính

phủ về hạn chế đô la hóa trong nền kinh tế.
Chỉ đạo các TCTD nâng cao hiệu quả quản lý kinh doanh, tiết kiệm
chi phí, áp dụng lãi suất cho vay mới ở mức hợp lý, xem xét tiếp tục điều
chỉnh giảm lãi suất cho vay cũ xuống dưới 13%/năm trên cơ sở khả năng
tài chính nhằm chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp; thực hiện các biện
pháp tháo gỡ khó khăn trong quan hệ vay vốn giữa doanh nghiệp với các
TCTD như gia hạn nợ, xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, tính toán miễn
và giảm lãi vay, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận được
những khoản vay mới.
Trong năm 2013, NHNN đã giảm 2%/năm đối với các mức lãi suất
điều hành, giảm 3%/năm đối với trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND dành
cho các lĩnh vực ưu tiên, giảm 1%/năm trần lãi suất tiền gửi VND, cho
phép các TCTD tự ấn định lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn 6 tháng trở lên.
Để giảm dần mặt bằng lãi suất theo lộ trình đề ra và ổn định thị
trường tiền tệ, NHNN đã chuẩn bị các biện pháp cần thiết để chủ động hỗ
trợ thanh khoản kịp thời cho các TCTD tại các thời điểm nhu cầu thanh
toán cao; đồng thời, tăng cường thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm những
trường hợp vi phạm trần lãi suất huy động.
Với các giải pháp điều hành kết hợp với điều hành linh hoạt cung ứng
tiền, mặt bằng lãi suất năm 2013 tiếp tục giảm 2-5%/năm, tương đương
5
mức lãi suất trong các năm 2005-2006, thị trường tiền tệ tiếp tục ổn định.
Mặc dù lãi suất giảm, nhưng tiền gửi tiếp tục tăng.
Tính đến ngày 12/12, nguồn vốn huy động tăng 15,61% so với cuối
năm 2012, trong đó tiền gửi ngoại tệ tăng 13,7%, tiền gửi VND tăng
15,93%. Thanh khoản của hệ thống các TCTD tiếp tục cải thiện, đảm bảo
khả năng thanh toán và chi trả của toàn hệ thống. Trong năm 2013, mặt
bằng lãi suất ổn định và tiếp tục giảm.
Đến cuối năm 2013, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng dao động
quanh mức 2-5%/năm tùy theo kỳ hạn, lãi suất huy động và cho vay VND

trên thị trường giảm 2-5%/năm, tương đương với mức lãi suất trong các
năm 2005-2006, từng bước chấm dứt tình trạng cạnh tranh qua lãi suất.
Bên cạnh các biện pháp điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông để
giảm dần mặt bằng lãi suất, NHNN tiếp tục giảm lãi suất cho vay ngắn
hạn VND đối với 5 lĩnh vực ưu tiên gồm: Nông nghiệp nông thôn, xuất
khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ứng
dụng công nghệ cao. Cụ thể là, điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay ngắn
hạn bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên theo xu hướng giảm của trần
lãi suất tiền gửi VND.
NHNN đã tiến hành hỗ trợ nguồn vốn và giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc
đối với 7 TCTD để khuyến khích các TCTD tiếp tục cho vay phát triển
kinh tế nông nghiệp nông thôn. Đến cuối tháng 11/2013, tín dụng đối với
lĩnh vực nông nghiệp nông thôn tăng 17% so với cuối năm 2012; doanh
nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 24,51%, công nghiệp hỗ trợ tăng
10,84%.
6
Để giảm dần tình trạng tồn kho thị trường bất động sản, NHNN đã
phối hợp với Bộ Xây dựng ban hành Thông tư số 11/TT-NHNN quy định
về cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/2013/NQ-CP.
Để triển khai áp dụng Thông tư này, NHNN đã dành 30.000 tỉ VND
để tái cấp vốn hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại Nhà nước cho vay hỗ
trợ nhà ở, thời hạn cho vay có thể kéo dài 10 năm với mức lãi suất tái cấp
vốn hiện nay là 4,5%/năm. Kết quả bước đầu, đến cuối tháng 11/2013, các
NHTM đã giải ngân cho 1.236 khách hàng với tổng dư nợ 470,8 tỉ đồng.
Đầu tháng 12/2013, NHNN đã đề xuất và được Chính phủ chấp thuận
thực hiện cho vay tái cấp vốn đối với trái phiếu đặc biệt với mức lãi suất
thấp hơn 2% so với lãi suất tái cấp vốn do NHNN quy định tại từng thời
kỳ, giúp kích thích giải quyết nợ xấu nhanh hơn. Đây được coi là biện
pháp đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu, đồng thời là yếu tố quan trọng để
các TCTD tiếp tục giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế.

Tính đến ngày 12/12, tín dụng toàn hệ thống TCTD tăng 8,83% so
với cuối năm 2012, tuy thấp hơn mục tiêu đề ra (12%) nhưng hiệu quả và
chất lượng tín dụng cải thiện rõ rệt, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở
mức hợp lý. Cơ cấu tín dụng tiếp tục được cải thiện theo hướng tập trung
vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là những lĩnh vực ưu tiên, tín dụng
đối với lĩnh vực không khuyến khích giảm cả về tỉ trọng và con số tuyệt
đối.
Tóm lại, điều hành tín dụng và lãi suất năm 2013 tiếp tục gắn với
chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả
của nền kinh tế, phù hợp với chủ trương giảm dần tỉ trọng tín dụng ngân
hàng cho đầu tư phát triển, tập trung nguồn vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh
doanh. Trong đó, mục tiêu cuối cùng và quan trọng hàng đầu là tiếp tục
7
giảm dần mặt bằng lãi suất theo lộ trình đề ra, góp phần tháo gỡ khó khăn
cho các doanh nghiệp và hỗ trợ thị trường.
Trong năm 2014 và những năm tiếp theo, NHNN sẽ tiếp tục thực hiện
những giải pháp quyết liệt để giảm mặt bằng lãi suất cho vay cho phù hợp
với mức lãi suất phố biến trên thị trường quốc tế, từng bước nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
2.Tình hình thế giới
Trong gần 3 năm qua, tình hình thế giới có nhiều diễn biến rất phức
tạp. Xung đột và thiên tai xảy ra ở nhiều nơi. Kinh tế thế giới phục hồi
chậm hơn dự báo. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu lần này được đánh giá là trầm trọng nhất kể từ Đại suy thoái kinh tế
thế giới 1929 - 1933. Nhiều nước công nghiệp phát triển đã điều chỉnh
mạnh chính sách để bảo hộ sản xuất trong nước. Cạnh tranh quyết liệt
giữa các nước lớn tại khu vực và diễn biến phức tạp trên Biển Đông, Biển
Hoa Đông Thực trạng trên tác động bất lợi đến phát triển kinh tế - xã hội
nước ta.
Trong nước, những hạn chế yếu kém vốn có của nền kinh tế cùng với

mặt trái của chính sách hỗ trợ tăng trưởng đã làm cho lạm phát tăng cao,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Kinh tế tăng trưởng
chậm lại, sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại nặng nề. Sức cạnh tranh của nền kinh tế
còn thấp trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nhu cầu an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội, cải thiện môi trường sống và bảo đảm quốc
phòng an ninh ngày càng cao trong khi nguồn lực còn hạn hẹp.
3. Triển vọng của ngành ngân hàng
8
Tỷ lệ NIM thu hẹp. Lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, thanh khoản
ngân hàng dồi dào đã tạo điều kiện để NHNN thực hiện chính sách nới
lỏng tiền tệ, giảm mặt bằng lãi suất từ đầu năm 2012 đến nay. Theo đó, lãi
suất chính sách và trần lãi suất
huy động đã giảm từ 7-8% so với đầu năm ngoái. Lãi suất cho vay
cũng giảm tuy nhiên tốc độ giảm chậm hơn lãi suất huy động. Dựa trên dự
báo lạm phát ở mức 6-7% trong năm 2013, chúng tôi kỳ vọng lãi suất huy
động sẽ giữ ở mức 7% và lãi
suất cho vay bình quân có thể tiếp tục giảm thêm 1-2% trong thời gian
tới. Theo đó, tỷ lệ lãi biên (NIM) có thể tiếp tục bị thu hẹp. Tăng trưởng
tín dụng kỳ vọng cải thiện từ nửa sau của năm 2013. Tính đến ngày
31/5/2013 tín dụng chỉ tăng trưởng 2,98% so với mục tiêu 12% mà NHNN
đặt ra cho cả năm. Tỷ lệ hàng tồn kho lớn, nhu cầu tiêu dùng yếu và tỷ lệ
nợ xấu vẫn ở
mức cao là nguyên nhân kìm hãm sự tăng trưởng của tín dụng. Tuy
nhiên, nhìn vào xu hướng tín dụng chúng tôi nhận thấy những dấu hiệu cải
thiện khá rõ ràng. Tăng trưởng tín dụng đã thoát khỏi trạng thái âm từ
tháng 3/2013, tăng lên 1,4% vào tháng 4/2013, đạt 2,98% vào tháng
5/2013 và có thể đẩy nhanh hơn trong nửa cuối năm 2013 nhờ: (1) Sự
phục hồi của nền kinh tế theo tính mùa vụ; (2) Triển khai gói 30.000 tỷ hỗ
trợ thị trường bất động sản; (3) VAMC ra đời sẽ tác động tích cực đến quá

trình giải quyết nợ xấu; (4) Các gói tín dụng ưu đãi liên tục được ngân
hàng đưa ra trong thời gian gần đây; (5) Lãi suất cho vay bình quân tiếp
tục giảm. Đây là những chỉ báo tích cực tạo cơ sở cho tín dụng tăng
trưởng trong nửa sau của năm 2013. Theo đó, BVSC cho rằng mục tiêu
tăng trưởng tín dụng từ 10-12% trong năm 2013 là có thể đạt được.
9
Chi phí dự phòng vẫn ở mức cao do nợ xấu tiếp tục gia tăng. Việc
theo đuổi tăng trưởng tín dụng cao ở những năm trước trong khi năng lực
quản lý rủi ro của hệ thống ngân hàng còn thấp, cộng với những biến động
bất lợi của nền kinh tế đã khiến tỷ lệ nợ xấu tăng lên đáng kể. Hệ quả là
chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng gia tăng làm lợi nhuận ngành
ngân hàng sụt giảm trong năm 2012. Mặc dù NNHN công bố tỷ lệ xấu của
hệ thống ngân hàng đã giảm từ 8,6% xuống 6% trong Q1/2013, tuy nhiên
tình hình kinh tế khó khăn như hiện nay sẽ khiến nợ xấu có nguy cơ tiếp
tục gia tăng trong thời gian tới. Thêm vào đó, một điều đáng quan ngại là
tỷ lệ nợ xấu trên thực tế có thể cao hơn nhiều so với con số được các
NHTM công bố. Do đó, chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng dự báo
sẽ tiếp tục tăng lên trong tương lai. Lợi nhuận ngân hàng dự báo không cải
thiện nhiều trong năm 2013. Mặc dù tăng trưởng tín dụng kỳ vọng sẽ khởi
sắc từ đầu quý 2 nhưng ngành ngân hàng vẫn phải tiếp tục đối mặt với khó
khăn khác như tỷ lệ lãi biên (NIM) có xu hướng giảm, nguy cơ nợ xấu gia
tăng và chi phí dự phòng ở mức cao.
Quan điểm đầu tư. Trong ngắn hạn, ngân hàng không phải là ngành
hấp dẫn để đầu tư. Tuy nhiên khó khăn hiện tại sẽ tạo sự phân hóa rõ nét
hơn giữa nhóm ngân hàng có cơ sở khách hàng ổn định, quản trị rủi ro tốt
và nhóm ngân hàng yếu kém.
Những ngân hàng có quy mô lớn, năng lực tài chính mạnh vẫn có khả
năng mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động, chiếm lĩnh thị trường, bứt
phá để tạo đà cho các bước phát triển tiếp theo. Bên cạnh đó, quá trình tái
cấu trúc hệ thống sẽ giúp

ngành ngân hàng hoạt động lành mạnh và tăng trưởng bền vững hơn
trong tương lai. Ngoài ra, ngành ngân hàng vẫn còn nhiều tiềm năng khai
10
thác đặc biệt ở phân khúc bán lẻ và dịch vụ tài chính cho doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Do đó, nhà đầu tư
Dài hạn nên xem xét tích lũy những cổ phiếu ngân hàng có tiềm lực tài
chính mạnh, quản trị rủi ro tốt và định giá hấp dẫn.
II/ Tổng quan về ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín –
Sacombank (STB)
1. Quá trình hình thành và phát triển
1991: Sacombank là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần
(TMCP) đầu tiên được thành lập tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM)
từ việc hợp nhất Ngân hàng Phát triển Kinh tế Gò Vấp cùng với 03 hợp
tác xã tín dụng là tân Bình, Thành Công và Lữ Gia.
1993: Là ngân hàng TMCP đầu tiên của TP.HCM khai trương chi
nhánh tại Hà Nội, phát hành kỳ phiếu có mục đích và thực hiện dịch vụ
chuyển tiền nhanh từ Hà Nội đi TP.HCM và ngược lại, góp phần giảm dần
tình trạng sử dụng tiền mặt giữa hai trung tâm kinh tế lớn nhất nước.
1996: Là ngân hàng đầu tiên phát hành cổ phiếu đại chúng với mệnh
giá 200.000 đồng/cổ phiếu để tăng vốn điều lệ lên 71 tỷ đồng với gần
9.000 cổ đông tham gia góp vốn.
1997: Tiên phong thành lập tổ tín dụng ngoài địa bàn (nơi chưa có
Sacombank trú đóng) để đưa vốn về nông thôn, góp phần cải thiện đời
sống của các hộ nông dân và hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi trong nền
kinh tế.
2001: Tập đoàn Tài chính Dragon Financial Holdings (Anh Quốc)
tham gia góp 10% vốn điều lệ của Sacombank, mở đường cho việc tham
11
gia góp vốn cổ phần của Công ty Tài chính Quốc tế (International Finance
Corporation – IFC, trực thuộc World Bank) vào năm 2002 và Ngân hàng

ANZ vào năm 2005. Nhờ vào sự hợp tác này mà Sacombank đã sớm nhận
được sự hỗ trợ về kinh nghiệm quản lý, công nghệ ngân hàng, quản lý rủi
ro, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực từ các cổ đông chiến lược nước
ngoài.
2002: Thành lập Công ty trực thuộc đầu tiên - Công ty Quản lý nợ và
Khai thác tài sản Sacombank-SBA, bước đầu thực hiện chiến lược đa dạng
hóa các sản phẩm dịch vụ tài chính trọn gói.
2003: Là doanh nghiệp đầu tiên được phép thành lập Công ty Liên
doanh Quản lý Quỹ đầu tư Chứng khoán Việt Nam (VietFund
Management - VFM), là liên doanh giữa Sacombank (nắm giữ 51% vốn
điều lệ) và Dragon Capital (nắm giữ 49% vốn điều lệ).
2004: Ký kết hợp đồng triển khai hệ thống Corebanking T-24 với
công ty Temenos (Thụy Sĩ) nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, quản lý
và phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử.
2005: Thành lập Chi nhánh 8 Tháng 3, là mô hình ngân hàng dành
riêng cho phụ nữ đầu tiên tại Việt Nam hoạt động với sứ mệnh vì sự tiến
bộ của phụ nữ Việt Nam hiện đại.
2006: Là ngân hàng TMCP đầu tiên tại Việt Nam tiên phong niêm yết
cổ phiếu tại HOSE với tổng số vốn niêm yết là 1.900 tỷ đồng.
Thành lập các công ty trực thuộc bao gồm: Công ty Kiều hối
Sacombank-SBR, Công ty Cho thuê tài chính Sacombank-SBL, Công ty
Chứng khoán Sacombank-SBS.
12
2007:Thành lập Chi nhánh Hoa Việt, là mô hình ngân hàng đặc thù
phục vụ cho cộng đồng Hoa ngữ.
Phủ kín mạng lưới hoạt động tại các tỉnh, thành phố miền Tây Nam
Bộ, Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây nguyên.
2008:Tháng 03, xây dựng và đưa vào vận hành Trung tâm dữ liệu
(Data Center) hiện đại nhất khu vực nhằm đảm bảo tính an toàn tuyệt đối
hệ thống trung tâm dữ liệu dự phòng.

Tháng 11, thành lập Công ty vàng bạc đá quý Sacombank-SBJ.
Tháng 12, là ngân hàng TMCP đầu tiên của Việt Nam khai trương chi
nhánh tại Lào.
2009:Tháng 05, cổ phiếu STB của Sacombank được vinh danh là một
trong 19 cổ phiếu vàng của Việt Nam. Suốt từ thời điểm chính thức niêm
yết trên Sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM, STB luôn nằm trong nhóm
cổ phiếu nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Tháng 06, khai trương chi nhánh tại Phnôm Pênh, hoàn thành việc mở
rộng mạng lưới tại khu vực Đông Dương, góp phần tích cực trong quá
trình giao thương kinh tế của các doanh nghiệp giữa ba nước Việt Nam,
Lào và Campuchia.
Tháng 09, chính thức hoàn tất quá trình chuyển đổi và nâng cấp hệ
thống ngân hàng lõi (core banking) từ Smartbank lên T24, phiên bản R8
tại tất cả các điểm giao dịch trong và ngoài nước.
2010: Kết thúc thắng lợi các mục tiêu phát triển giai đoạn 2001 - 2010
với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 64%/năm; đồng thời thực hiện thành
13
công chương trình tái cấu trúc song song với việc xây dựng nền tảng vận
hành vững chắc, chuẩn bị đủ các nguồn lực để thực hiện tốt đẹp các mục
tiêu phát triển giai đoạn 2011 - 2020.
2011:Ngày 03/03/2011, khai trương hoạt động Trung tâm Dịch vụ
Quản lý tài sản Sacombank Imperial nhằm cung cấp những giải pháp tài
chính trọn gói phục vụ đối tượng khách hàng là cá nhân có nguồn tiền
nhàn rỗi và tài sản lớn nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý và phát triển tài sản
một cách có hiệu quả nhất.
Ngày 05/10/2011, Sacombank thành lập Ngân hàng 100% vốn nước
ngoài tại Campuchia đánh dấu bước chuyển tiếp giai đoạn mới của chiến
lược phát triển và nâng cao năng lực hoạt động của Sacombank tại
Campuchia nói riêng và khu vực Đông Dương.
Ngày 20/12/2011, Sacombank vinh dự đón nhận Huân chương Lao

động hạng Ba của Chủ tịch Nước vì những thành tích đặc biệt xuất sắc
giai đoạn 2006-2010, góp phần vào sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ
Tổ quốc theo QĐ số 2413/QĐ-CTN ngày 15 tháng 12 năm 2011.
2012: Ngày 03/02/2012, cổ phiếu STB của Sacombank nằm trong
nhóm cổ phếu VN30 được Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE)
công bố. Các cổ phiếu được lựa chọn vào VN 30 dựa vào 3 tiêu chí: vốn
hóa, số lượng cổ phiếu lưu hành tự do và tính thanh khoản cao. Việc cổ
phiếu STB của Sacombank được xếp thứ nhất trong tổng số 30 cổ phiếu
tiêu của nhóm VN30 đã khẳng định vị thế và sức hấp dẫn của cổ phiếu
STB trên thị trường.
14
Tháng 4, nâng cấp thành công hệ thống ngân hàng lõi (core banking)
T24 từ phiên bản R8 lên R11 hiện đại nhằm phát huy năng lực quản lý, đa
dạng hóa sản phẩm dịch vụ và tăng cường sức cạnh tranh cho Sacombank.
Ngày 10/12/2012, Sacombank chính thức tiếp nhận và trở thành ngân
hàng TMCP đầu tiên tại Việt Nam áp dụng Hệ thống quản lý trách nhiệm
với môi trường và xã hội (ESMS) theo chuẩn mực quốc tế do Price
waterhouse Coopers (PwC) Hà Lan tư vấn nhằm tăng cường quản lý các
tác động đến môi trường - xã hội trong hoạt động cấp tín dụng đến các
khách hàng.
2.Cơ cấu sở hữu của STB ( tính đến hết ngày 31/12/2013)
Tên cổ đông Tỷ lệ
Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam 10.3%
Trần Phát Minh 4.8%
Trầm Trọng Ngâm 4.79%
Công ty cổ phần đầu tư Sài Gòn Exim 4.73%
CTCP đàu từ tài chính Sài Gòn Á Châu 2.49%
Trầm Khải Hòa 2.08%
Cổ đông khác. 70.82%
15

3. Phân tích cơ bản cổ phiếu STB ( 3 quý đầu năm 2013 )
Các chỉ tiêu tài chính chủ yếu:
12Q2 12Q3 12Q4 13Q1 13Q2 13Q3
Thu nhập
lãi thuần
1,500.2 1,675.5 1,789.4 1,810.8 1,630.9 1,606.9
Thu nhập
dịch vụ
219.2 242.8 -24.5 233.9 239.2 301.1
Thu nhập
HDKD
khác
139.2 -144.9 -509.1 -153.4 -253.3 138.4
Chi phí
hoạt động
1,009.3 1,071.6 1,205.4 1,097.6 950.5 1,183.2
Lãi ròng 366.2 411.3 -871.0 675.7 473.4 508.7
Tổng dư
nợ
92,867 98,765 102,462 105,566 114,685 116,234
Tài sản
khác
51,787 48,583 49,453 52,983 45,674 41,577
Tổng tài
sản
144,654 147,348 151,915 158,548 160,359 157,811
Công nợ 130,802 133,076 138,503 144,205 146,112 141,380
Vốn chủ sở 13,852 14,272 13,413 14,343 14,246 16,431
16
hữu

( đơn vị: tỷ đồng)
1. Giá hiện tại 17.3 Khối lượng CP đang niêm yết:
1210292561
2. EPS: 0.71 Khối lượng CP đang lưu hành:
1142511590
3. P/E: 24.41 Vốn hóa thị trường: 19765.45 tỷ
đồng
S&P hạ mức triển vọng tín nhiệm dựa trên chiến lược tăng trưởng
tham vọng của STB, điều mà có thể gây khó khăn cho ngân hàng trong
việc quản trị rủi ro. Tuy tỉ lệ nợ xấu của ngân hàng chưa đạt ngưỡng nguy
hiểm (2.25%), nhưng STB nằm trong số những ngân hàng có tổng nợ xấu
cao (đứng thứ 7 với 2459 tỷ đồng). Chất lượng tài sản không tốt cùng với
dự định chia cổ tức ở mức cao cũng là lý do khiến cơ quan đánh giá quan
ngại về tương lai phát triển của STB.
Nhận định: STB là ngân hàng có tổng tài sản lớn thứ 9 trong ngành
với thị trường cho vay chiếm khoảng 3% tại thời điểm cuối 2012. Năm
2013 với bối cảnh chung về nguy cơ nợ xấu, tiêu chí hoạt động an toàn đặt
lên hàng đầu, STB vẫn báo cáo lãi ấn tượng tuy đã trích lập dự phòng
thêm 48.3% trong Q3 so với cùng kì. Tuy nhiên việc tăng trưởng tín dụng
15%, cao hơn nhều so với 5% toàn ngành, khiến S&P khá bi quan về diễn
biến tương lai sau khi tăng trưởng nóng.
Lũy kế 9 tháng đầu năm, lợi nhuận trước thuế tăng 2,3% và đạt 2,217
tỷ đồng còn lợi nhuận sau thuế tăng 4.6% và đạt 1,658 tỷ đồng. Trong đó,
các hoạt động kinh doanh và đầu tư chứng khoán vẫn gánh chịu những
17
khoản lỗ, nhưng đã giảm rất nhiều so với cùng kì năm ngoái (từ - 600 tỷ
đồng xuống còn -250 tỷ đồng). Khoản đóng góp vào lợi nhuận nhiều nhất
vẫn là những khoản từ thu nhập lãi.
Tại thời điểm cuối tháng 9, tăng trưởng tín dụng đã đạt 13.3% so với
mục tiêu 17%, tổng tài sản đã tăng 12.04% so với kế hoạch 12%, lợi

nhuận trước thuế đã đạt gần 70% so với kế hoạch là 3,200 tỷ đồng. STB
có rất nhiều khả năng đạt chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh trong năm nay.
Các chỉ số lợi nhuận ROA và ROE của STB đều giảm nhẹ so với cùng
kì năm ngoái (lần lượt là 1.08% xuống 1.05% và 11.11% xuống 10.09%)
do sự tăng trưởng của tổng tài sản và vốn chủ sở hữu lớn hơn sự tăng
trưởng của lợi nhuận.
Tính thanh khoản của STB khá tốt khi tỉ lệ cho vay/ tiền gửi khách
hàng nhỏ hơn 100%. Tuy nhiên chất lượng tài sản đang xấu dần do sự
tăng lên mạnh của nợ nhóm 5 (từ 897 tỷ đồng lên 1,289 tỷ đồng).
18
III/ Khuyến nghị đầu tư
Cổ phiếu STB đang giao dịch gần ngưỡng kháng cự 17.4 đã thiết lập hồi đầu
tháng 12 với hệ số P/E đang rất cao so với trung bình ngành. Giá cổ phiếu
STB được dự đoán có nhiều khả năng giảm trong thời gian tới.
Theo phương pháp so sánh chỉ số, cổ phiếu STB được định giá ở mức 13.5,
thấp hơn 22% so với mức giao dịch hiện tại là 17.3, khuyến nghị 'BÁN' đối
với cổ phiếu STB.
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS.Phan Trần Trung Dũng, Slide bài giảng Phân tích tài chính.
2. PGS.TS.Nguyễn Trọng Cơ, Phân tích tài chính doanh nghiệp - Lý
thuyết và thực hành, Học viện tài chính.
3.
4. Website Công ty chứng khoán Việt stock - />5. Website Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh -
/>6. Website />20

×