Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Nguyễn Bình Phương - Lục Đầu giang tiểu thuyết Phần 2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 13 trang )

Nguyễn Bình Phương - Lục
Đầu giang tiểu thuyết
Phần 2




1. Phương thức huyền thoại
Nguyễn Bình Phương là nhà văn có ý thức rất sớm trong việc sử dụng các yếu tố
huyền ảo và vô thức. Tiểu thuyết Bả giời, dù chủ yếu triển khai ở đời sống hữu thức,
nhưng những yếu tố huyền ảo nhiều khi đã tỏ ra khá đắc dụng. Cái huyền ảo được toát
lên trước hết từ không khí của làng Phan, sau đó, là những sự kiện kỳ lạ, khác thường:
hai cha con Tượng vẫy được tai, Tượng bị rắn mào quấn quanh người mà không bị cắn
chết,… Ngay nhân vật chính của tiểu thuyết cũng có nhiều yếu tố ảo. Người đọc không
biết được quá khứ của anh, không lý giải được mối liên hệ giữa anh với người cha bị coi
là điên khùng hình như chưa từng một lần ra khỏi làng. Bởi anh được đẩy vào tác phẩm
hết sức đột ngột: trong một buổi chiều muộn, khi đã là một thanh niên. Cái tên cùng hình
dáng cũng như hành vi của anh đều mang giá trị biểu trưng. Tên Tượng và sự tương
đồng giữa việc trong cùng một hôm cả Tượng và nhũ đá hình Bụt mọc trong chùa Hang
bị rắn mào quấn quanh, việc Tượng như vượt lên hẳn so với dân làng, việc cả làng luôn
hướng đến một lời tiên tri nào đó… làm tác phẩm mang không khí của huyền thoại, như
có sự nhập thân của Đức Phật vào Tượng dù ở nhân vật này vẫn có rất nhiều hành vi
“dung tục”. Hiện thực vì thế bị nhạt nhòa đi rất nhiều. Người đọc không thể không thắc
mắc, nghi ngại về thực tại. Nghĩa là nhờ vào việc tạo dựng hiện thực huyền ảo, tiểu
thuyết đã đặt người đọc vào trạng thái buộc phải thức nhận cuộc sống và ý nghĩa của
cuộc sống.
Vào cõi hướng đến một thể nghiệm khác trong phương thức thể hiện hiện thực
huyền ảo. Thứ nhất là ở việc làm xuất hiện một “cõi” ảo. Cõi đó gồm những giấc mơ của
Tuấn, những ám ảnh của nhân vật hắn, cái bản năng tàn tạ của những con người sớm rơi
vào cảnh đáng thương, khốn cùng như hai chị em Vang, Vọng. Thứ hai, để cho “cõi ảo”
chi phối “cõi thực” mà các nhân vật đang hiện sống. Tuấn hướng về tình yêu thánh thiện


đã mất thuở nào mà phá phách để tìm quên hoặc đau đớn vì những hành động đã làm.
“Hắn” phát điên vì luôn luôn sống trong ám ảnh kẻ ăn cắp vô tình hắn giết chết sẽ quay
lại trả thù. Vang thì buông xuôi tất cả, cam phận tự diệt theo như cách mà số phận định
đoạt cho những người bị rơi vào tình cảnh của cô. Vọng có lúc đã dám đương đầu với
quá khứ đau thương về cái chết của người cha để nhận làm việc ở chính chợ tỉnh nhưng
cuối cùng vẫn không thoát được ám ảnh đó phải bỏ về quê… Với Vào cõi, Nguyễn Bình
Phương đã đặt những dấu chân đầu tiên vào việc khai thác khía cạnh vô thức của con
người, tìm lấy trong nó những điều khả dĩ có thể góp phần lý giải hiện tại. Nhưng phải
đếnNhững đứa trẻ chết già, Người đi vắng, đặc biệt là Thoạt kỳ thủy phương thức huyền
thoại mới được Nguyễn Bình Phương khai thác triệt để.
Việc đưa thêm những đoạn Vô thanh vào Những đứa trẻ chết già đã thể hiện tham
vọng mới của Nguyễn Bình Phương trong cách tiếp cận trực diện vào các vấn đề huyễn
ảo. Nguyễn Bình Phương đã khai triển ở phần Vô thanh như là một sự tỉnh lược thế giới
hiện thực bác tạp, biến nó thành một thế giới linh ảo của sự phóng chiếu ý niệm về dục
vọng của con người. Trong cái bối cảnh không thời gian, không địa điểm, con đường
của chiếc xe trâu đồng nhất với hành trình đi tìm kho báu của những người đang sống.
Họ là những người (ở một kiếp trước nào đó) đã thất bại và giờ đây, ở thế giới bên kia,
thức nhận ra sự phi lý của những dục vọng ấy nhưng hình như đang gánh chịu hình phạt
(kiểu như Sisyphe trong thần thoại Hy Lạp) phải tiếp tục cuộc hành trình tìm kho báu dù
đã biết trước kết quả là chẳng có gì. Với ý nghĩa ấy, phần Vô thanh thực sự đã là sự bổ
trợ cần thiết cho việc hiểu phần hiện thực trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Không
có sự xuất hiện của phần này, không có sự đan bện giữa phần này với các yếu tố huyễn
ảo trong các chương, ý định giải mã và nhận chân cái giả dối, vô nghĩa của dục vọng con
người nhiều phần sẽ trở nên khuyết thiếu.
Người đi vắng tiếp tục khẳng định vai trò của các huyền thoại trong sự định hình
và phát triển nhân cách con người. Các yếu tố huyền ảo và vô thức đã được nhà văn sử
dụng ở mức độ tương đối đậm đặc. Cả quá khứ và hiện tại đều được hiện hình qua lăng
kính này. Hầu như tất cả đều nhằm vào việc tường minh sự quy chiếu của cái huyền ảo,
vô thức vào những biểu hiện cá tính. Có chung một dòng chảy từ công chúa Diên Bình
qua cha con Lưu Nhân Chú đến Đội Cấn, Lập Nham, người đàn bà đi giữa cuộc đời họ;

phát tán trong cụ Điển, ông Bính, vợ chồng Thắng, Cương, Thư… Họ đều dấn thân vào
việc giải mã bản thể mình. Nhưng con đường giải mã ấy không bao giờ được tiến hành
một cách triệt để. Nó luôn vướng mắc bởi hoàn cảnh: Diên Bình phải thuận theo lời cha
để lấy thủ lĩnh phủ Phú Lương; Cha con Lưu Nhân Chú dắt díu nhau tìm đường vào với
Lê Lợi để cuối cùng phải chịu chết dưới lưỡi kiếm của lộng thần Lê Sát; Lập Nham gạt
tình riêng để vời được Đội Cấn về cùng chiến tuyến; Đội Cấn có vợ yêu nhưng luôn ý
thức được rằng tình cảm vợ giành cho mình luôn có cả trách nhiệm thầy Ba giao phó…
Các nét tính cách của họ luôn ẩn hiện trong các nhân vật thuộc thời hiện tại. Quan hệ
của Đội Cấn với Lập Nham thỉnh thoảng sống lại trong cụ Điển và ông Bính, trong mối
quan hệ của Thắng và Cương. Con đường thức nhận ý nghĩa cuộc sống của Lưu Nhân
Chú cũng để lại dáng nét trong nhiều nhân vật.
Riêng có Hoàn hiện lên như một trường hợp vừa đặc biệt vừa tiêu biểu. Hoàn vừa
yêu Thắng vừa tìm đến Cương để thỏa mãn những dục vọng của mình. Ở đâu đó trong
chiều sâu vô thức, Hoàn nhận thấy sự vênh lệch giữa mình và chồng nhiều lúc không thể
vượt qua. Chính trong mối tình tay ba ấy, Hoàn đã bung nở hết ý thức về cá tính. Hoàn
vượt qua tất cả những câu thúc để hưởng niềm vui sống trọn vẹn không đắn đo, không
hối hận. Hoàn dám sống một cuộc sống tận hiến cho riêng mình. Nhưng chính trong sự
thỏa mãn ấy, dục vọng căng tràn báo hiệu nảy sinh bi kịch. Sau đêm để cho Thắng được
sống trong cảm xúc ân ái của ngày mới cưới sau biết bao rạn vỡ, Hoàn chủ động tìm đến
Cương rồi bất ngờ tìm đến một hành động tự hủy. Hoàn bỏ đi, tai nạn và rơi vào hôn mê.
Và chính trong trạng thái này, Hoàn có những mộng du gợi mở cho người đọc chiều sâu
trong tâm thức của cô. “Mày là tao kiếp trước phải không?”, câu hỏi như vết vấp rãnh
trong cuộn băng tâm thức Hoàn đã khẳng định cô vẫn là một bóng hình nào đó trong quá
khứ. Thậm chí, trong cô có cả dáng nét của Yến và Thư…, tức những người cùng thời
và thế hệ tiếp theo. Hoàn đã cố sống một cuộc sống cá nhân tròn đầy, song không ngờ,
cái tròn đầy mà cô cô gắng tạo lập cũng chỉ là một biểu hiện của sự khuyết thiếu. Tìm
đến tình dục như một sự hiện diện của vô thức con người, Nguyễn Bình Phương vừa
biểu đạt nó như một đối tượng thẩm mỹ độc lập vừa cấp cho nó phẩm tính của cái biểu
đạt. Nghĩa là qua trạng thái bất an trong Người đi vắng nói chung và vấn đề tính dục nói
riêng, Nguyễn Bình Phương muốn xác tín ý niệm về sự hiện hữu thiếu vắng của con

người.
Có thể nói, so với các sáng tác cùng thời, Nguyễn Bình Phương đã sớm đi từ vấn
đề sử dụng các yếu tố huyền ảo sang cấp độ sử dụng các yếu tố vô thức. Từ trong chiều
sâu vô thức, Nguyễn Bình Phương đã mạnh dạn đem đến nhiều biểu hiện khác lạ trong
thế giới nghệ thuật của mình. Biểu hiện trên phương diện ngôn ngữ và trên văn bản tác
phẩm, là những đoạn được tách ra in nghiêng, hàng loạt những giấc mơ, những chùm
ngôn ngữ mơ tưởng, điên loạn. Nó làm nên sự mờ nhòe, sự phái nghĩa của các biểu
tượng nghệ thuật. Trong sự xuất hiện và đứt gãy của các mạch sự kiện, nó còn biểu hiện
tính chất phức điệu của hiện hữu sống.
Đi từ bản thể con người đến bản thể đời sống, mở rộng diện phản ánh, ở cấp độ
này, tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy ghi một dấu mốc quan trọng trên hành trình sáng tạo của
Nguyễn Bình Phương. Thể hiện những con người ở phương diện toan tính, hiếu sát, điên
dại… như một hiện hữu bất thường, Nguyễn Bình Phương đã đặt ra vấn đề tiếp cận vô
thức tập thể như là tư tưởng chủ chốt của tác phẩm. Trong tác phẩm, không chỉ nhân vật
Tính hiện lên như một kẻ điên mà tất cả con người trong làng Phan đều hiện lên ở thế
rộn rạo của một sự nhập cuộc vào thế điên loạn. Nguyễn Bình Phương đã sử dụng đậm
đặc các biểu tượng ám ảnh để biểu hiện dấu hiệu của sự tha hóa ấy. Tác phẩm mang
dáng dấp của một cấu trúc vòng tròn xoáy trôn ốc quanh biểu tượng con cú. Trong vòng
tròn ấy, là tất cả những vận động dần đẩy con người đến trạng huống “thoạt kỳ thủy”
của một xã hội tha hóa, phi nhân tính. Bởi cú mèo là loài vật sống về đêm, ngày ẩn ấp
yên lặng. Ở khía cạnh đầu tiên, nó tượng trưng cho sự yên tĩnh, thanh lặng. Về sau, do
chỗ thường xuất hiện khi có người chết, nó biểu trưng cho cái chết, cái ác. Vì vậy, mở
đầu tác phẩm bằng sự tác động vào cái yên lặng, tiểu thuyết khởi đầu cho một quá trình;
mở đầu bằng sự tác động vào cái chết, cái ác và kết thúc bằng hình ảnh con cú đạp nước
bay lên kéo dòng sông tuột khỏi đôi bờ bằng đôi móng sắc, tác phẩm báo hiệu sự thắng
thế của cái chết và sự hủy diệt. Tuy vậy, ở chiều sâu nhân bản, Nguyễn Bình Phương
cũng cố gắng đem đến cho tác phẩm một hồi quang hy vọng. Đó là việc để cho cấu trúc
tác phẩm có sự song hành hai biểu tượng con cú và ánh trăng. Tính sinh ra trong ánh
trăng, nhưng là thứ ánh trăng đã bị lệch lạc, đã mất đi tính nữ (trăng lạnh, trăng vàng
như mắt chó (- ác)…). Tính sống cả cuộc đời trong nỗi ám ảnh về ánh trăng. Cái lạnh

lẽo của ánh trăng, rộng ra là cái nhạt nhẽo của nhân tình, khiến Tính tìm đếnmáu
nóng (ám ảnh về máu) như một phản ứng, một khát vọng đạp đổ nên cũng là một bi
kịch. Cái bi kịch của con người phải dùng đến cái điên riêng mình chống lại cái “điên”
chung của cả cộng đồng như một biểu hiện của sự băng hoại. Nói cách khác, sự điên dại
của của Tính (phần nào đó của cả Hiền và ông Phùng) chính là biểu hiện của tỉnh thức
giữa sự bao vây của cộng đồng vô thức cho mình là tỉnh thức. Vì vậy, kết cục tất yếu là
Tính sẽ bị loại bỏ hoặc tự loại bỏ. Hai khả năng này kéo theo hai hệ quả tương ứng. Tính
bị loại bỏ nghĩa là cái ác sẽ bao trùm, thống trị. Tính tự loại bỏ nghĩa là hoặc cái thiện bị
triệt tiêu hoặc nó đã vượt trên cái ác để tồn tại bằng hành động dứt khoát chối từ chung
sống. Cái chết trên ngưỡng cửa nhận thức, khi bắt gặp ánh trăng tỏa ngời từ Hiền, như
tính nữ hằng thường, đã đưa Tính hòa vào cái thiện. Cái chết của Tính mang trong nó
tính chất của sự tái sinh. Cái thiện, cái đẹp dù nhỏ nhoi nhưng sẽ phát triển, sẽ lấn át cái
ác và ngự trị.
Phương thức huyền thoại có phần nhạt hơn trong Trí nhớ suy tàn và Ngồi. Thứ
nhất là do đối tượng thể hiện có phần đặc biệt. Cả hai tác phẩm đều hướng đến một
phạm vi thể hiện tương đối nhỏ, hẹp là trí nhớ và sự suy tàn của trí nhớ trong Trí nhớ
suy tàn hay trạng thái lưng chừng, lừng khừng của xã hội Việt Nam trong Ngồi. Điều
này hẳn nhiên đã thu hẹp khá nhiều mảnh đất làm nảy sinh cái kỳ ảo và vô thức. Vì vậy,
sự hiện diện của phương thức kỳ ảo trong các tác phẩm này tuy chỉ ở mức độ là cái phụ
trợ, bổ trợ như phần vô thức (có thể hình dung như vậy qua hình ảnh cây điệp vàng và
người điên canh giữ cây điệp vàng) là sự nhắc nhớ việc giữ gìn mối tình cũ hay cái ám
ảnh nhược tiểu luôn luôn hiện diện như những tràng mõ trong tâm trí những nhân vật
của tiểu thuyết Ngồi, đặc biệt là Khẩn nhưng cũng không kém phần quan trọng trong
việc thể hiện quan điểm nghệ thuật của tác giả. Cái làm nên thành công hay thất bại của
những tác phẩm này, như đã nói, sẽ phần nhiều phụ thuộc vào những thế mạnh khác của
Nguyễn Bình Phương mà trước hết là thi pháp kết cấu.
2. Thi pháp kết cấu
Bên cạnh phương thức huyền thoại, thành công nổi bật trong tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương phải kể đến thi pháp kết cấu tác phẩm. Điểm qua sáu tiểu thuyết
đã nói ở trên, dễ thấy tính chất kết hợp thể loại trong các tiểu thuyết. Nguyễn Bình

Phương là nhà văn thực sự đã dụng công trong việc xóa nhòa biên giới giữa các thể loại,
đưa nhiều thể loại khác vào tiểu thuyết để mang đến một hình thức cấu trúc tiểu thuyết
khác trước. Cùng với một số tiểu thuyết của Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh,
Thuận,… tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương thường mang cấu trúc tiểu thuyết lồng tiểu
thuyết thậm chí đã có những đột phá táo bạo như: tiểu thuyết lồng nhật ký, điện ảnh hay
âm nhạc. Tiếp nhận kỹ thuật tiểu thuyết phương Tây, chính sự nhập nhòa giữa biên giới
các thể loại này đã khiến các nhà văn này mang được nhiều, đa dạng, đầy đủ và sinh
động các trạng huống sống vào trong tác phẩm. Hiện thực vì vậy, bớt đi tính chất là cái
được phản ánh để trở thành cái đang hiện sống.
Cụm ba tiểu thuyết Vào cõi, Những đứa trẻ chết già và Người đi vắng thể hiện
được nhiều nét riêng của Nguyễn Bình Phương khi sử dụng kỹ thuật lồng tiểu thuyết.
Những biểu hiện của kỹ thuật này trong cấu trúc của Vào cõi vẫn còn đôi chỗ còn tỏ ra
chưa bạo dạn trong cách lựa chọn điểm nhìn và người kể chuyện giữa hai mạch truyện.
Chẳng hạn, đã để cho Tuấn là người tự bộc bạch tâm trạng trong mạch truyện về mình
mà tiếp tục để Tuấn là người kể chuyện chủ đạo trong câu chuyện của hai chị em Vang,
Vọng, chắc tiểu thuyết sẽ có những đột phá đáng kể. Bởi nếu sự thao thiết của Tuấn
trong mạch hoài niệm về tình yêu một thuở đã đem đến cho tiểu thuyết chất thơ; thì
chính việc cho Tuấn đi thẳng vào chất văn xuôi của đời sống hàng ngày, trực tiếp đối
diện với nó, sẽ mang đến một góc tham chiếu trực diện và lý thú hơn là cách chỉ để cho
Tuấn là một nhân vật phụ trong mạch truyện thứ hai của tác phẩm. Tuy vậy, đến hai tiểu
thuyết sau, dù hiện thực có vẻ được nới rộng, ngồn ngộn và giàu có hơn nhưng kỹ thuật
kết cấu không vì thế mà chìm khuất đi, thậm chí, càng được khẳng định một cách rõ rệt.
Hai mạch truyện về cõi âm và cõi dương trong Những đứa trẻ chết già là nỗ lực
và cũng là kết quả đầu tiên (cùng với vấn đề huyền thoại) làm nên sự thành công trong
nỗ lực đổi mới tiểu thuyết của tác giả. Bản thân mạch truyện phức tạp về cõi dương xoay
quanh hai gia đình ông Trường hấp và lão Trình đã đủ sức để tiểu thuyết thành một tác
phẩm hư cấu độc đáo. Thêm phần hiện thực cõi âm, nhịp đều đều theo tiếng xe trâu như
vọng về từ quá khứ, tác phẩm rõ ràng đã mở ra được một bình diện khác ở bề sâu tư
tưởng. Tính chất triết luận được làm bật lên và trở thành ý hướng xuyên suốt tác phẩm.
Xoay quanh một loạt những nghịch lý trong đời sống thế sự nhân sinh, rồi thể hiện sự

lắng lọc, kết tụ của nó trong chiều sâu huyền thoại, tiểu thuyết đã mang đến một cảm
thức mới về thời gian và thân phận con người.
Người đi vắng cũng dựa trên chiều kích không - thời gian như thế để cấu trúc tác
phẩm với ba mạch: mạch truyện về cõi thường, mạch truyện về cõi ảo và mạch truyện về
lịch sử. Gần như đã có một tiểu thuyết lịch sử tương đối hoàn chỉnh về khởi nghĩa Thái
Nguyên, từ đêm trước ngày khởi nghĩa đến ngày cuối cùng, sau mấy tháng bị giặc Pháp
truy quét, lãnh tụ Đội Cấn phải tự sát. Nhưng mạch truyện này, khi được gia tăng thêm
hai sự kiện lịch sử rất nhỏ khác: cảnh công chúa Diên Bình lên Thái Nguyên và cảnh
Lưu Nhân Chú vươn cổ chịu chết chém dưới lưỡi đao của Lê Sát đã đem đến một sức
vươn khá đáng kể trong việc soi tỏ hiện tại. Nếu như Diên Bình đã trở thành bà chúa làm
nên sự linh thiêng của đền Xương Rồng, Lưu Nhân Chú gửi hồn hòa trong không khí và
cỏ cây vùng đất Đại Từ, thì các lãnh tụ của Thái Nguyên quang phục quân chắc cũng có
được một vai trò như vậy với mảnh đất Thái Nguyên, với con người Thái Nguyên. Nói
cách khác, lịch sử đã được Nguyễn Bình Phương tái tạo ở cả hai phương diện thực sử và
huyền sử. Nếu thực sử minh định một cách chính danh đóng góp của nhân vật lịch sử để
ghi nhớ công trạng họ thì huyền sử mới thực sự là nơi chủ yếu khẳng định sự trường tồn
của sự thực lịch sử ấy. Chỉ có điều, huyền sử không chỉ lưu giữ con người công trạng mà
còn lưu giữ cả con người đời thường của các yếu nhân. Và chính ở chỗ này, huyền sử đã
mở ra cánh cửa tiếp cận con người lịch sử ở khía cạnh bản thể đầy đặn. Hóa ra các vĩ
nhân xét đến cùng vẫn là con người thường hằng với đầy đủ những khuyết thiếu mà đã
sinh ra là con người thì đều không tránh khỏi. Nó là phần vô thức chi phối hiện thực lịch
sử và sau lại tác động đến tương lai của cộng đồng mà sự kiện lịch sử đó chi phối.
Tuy nhiên, thành công nổi bật ở thi pháp kết cấu của tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương phải là ở Trí nhớ suy tàn và Thoạt kỳ thủy. Là người đến với thơ trước tiểu
thuyết, cái căn cốt thi sĩ vẫn đậm nét trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Và chính
căn cốt này đã đem đến cho Nguyễn Bình Phương một tiểu thuyết độc đáo, có ý nghĩa
như một thể nghiệm thành công của trào lưu cách tân tiểu thuyết Việt Nam những năm
gần đây.
Thụy Khuê đã dựa vào các đặc trưng của tiểu thuyết mới để chỉ ra những dấu hiệu
chịu ảnh hưởng của Trí nhớ suy tàn

(3)
. Xét riêng ở khía cạnh kết cấu tác phẩm, chúng tôi
muốn nhấn mạnh đến sự giao thoa giữa chất thơ và chất văn xuôi làm nên vẻ đẹp riêng
có của nó. Trí nhớ suy tàn dường như chỉ mang lời văn tâm lý, rất ít tính chất sự việc
trong nó. Câu văn không hàm ẩn chủ thể phát ngôn là nhân vật xưng em thì cũng là
những lời vắng chủ từ. Nó mang cấu trúc của lời thơ hơn là cấu trúc của lời văn tiểu
thuyết. Đó là điểm đặc biệt thứ nhất. Điểm đặc biệt thứ hai nằm trong chủ thể của phát
ngôn: nhân vật xưng em. Chính ngôi xưng này khiến cho người đọc như được tham dự
vào tác phẩm, trở thành một “nhân vật” ở trong thế đối thoại với nhân vật chính. Nội
dung của đối thoại hầu như cũng không đi quá xa những câu chuyện vụn vặt trong đời
sống thế sự. Cảm giác khoảng cách giữa nhân vật và người đọc hầu như đã được xóa
nhòa. Nhân vật như đang tâm sự, đang bộc bạch hay cật vấn chính bản thân mình còn
người đọc tham gia vào đó như một người lắng nghe, cảm thông và chia sẻ. Không tìm
thấy bàn tay sắp đặt, tác giả dường như đã lui về phía sau, nhường toàn bộ sàn diễn cho
nhân vật và người đọc. Rõ ràng, trong bối cảnh này, việc người đọc tham gia trực tiếp
như một nhân vật của tác phẩm, tức một thành tố cấu thành cấu trúc tác phẩm, là hoàn
toàn hợp lý.
Tạo cho tác phẩm sự luân chuyển điểm nhìn giữa người kể và người nghe,
Nguyễn Bình Phương đã thành công về kỹ thuật tự sự khi chọn cho Trí nhớ suy tàn điểm
nhìn từ ngôi thứ hai. Sự nhuần nhuyễn trong cách lựa chọn đề tài, cách viết câu văn, đã
khiến cho tiểu thuyết có độ mở đáng kể, thu nạp vào nó tất cả mọi cách tiếp nhận, đánh
giá về nhân vật chính - với tư cách là người trực tiếp đối thoại - để làm nên sự năng sản
ngữ nghĩa. Sự mở rộng của biên độ trí tưởng tượng như một dụng ý nghệ thuật không
chỉ góp phần phơi mở phần vô thức mà còn làm rỗng nghĩa thông tin của lời văn, đưa lời
văn tiểu thuyết sang địa hạt của thơ ca.
Nếu coi Trí nhớ suy tàn như một sự “lại giống” của con người thi ca thì Thoạt kỳ
thủy lại vừa như một nỗ lực đổi mới thường xuyên, một đề tài trăn trở, cùng một bước
đột phá của Nguyễn Bình Phương trên địa hạt tiểu thuyết. Thoạt kỳ thủyxứng đáng được
coi là đỉnh cao nhất, là sự hội tụ trọn vẹn và sung mãn của bút lực tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương. Thoạt kỳ thủy là tiểu thuyết tiêu biểu cho phương thức kỳ ảo trong lối viết

của Nguyễn Bình Phương như đã nói. Nhưng đồng thời cũng là nơi thể hiện nhiều nét
thành công nhất trong việc xây dựng cấu trúc nghệ thuật. Để làm được cả hai điều đó
trong cùng một lúc, Nguyễn Bình Phương đã hướng vào con đường tiếp cận điện ảnh
trong thể loại tiểu thuyết.
Như đã phân tích ở trên, ngay hình thức ba phần (A - Tiểu sử; B - Chuyện; C- Phụ
chú) đã đem đến cho tiểu thuyết một cấu trúc lạ, dần tiến đến cấu trúc của một tác phẩm
điện ảnh. Có thể hình dung thước phim ấy theo mạch truyện về con cú mà mỗi cảnh
quay tương đương với một lần nó hiện lên sáng rỡ rồi khuất lấp đi để nhường chỗ cho sự
sống sinh động của làng Phan. Con cú như là hình dung đầu tiên hiện lên trong trí nhớ
của người kể chuyện mà mỗi khoảnh khắc trong cuộc đời con cú lại hé mở những ký ức
khác về ngôi làng ven sông. Hiện thực trong cuốn phim vì vậy bị mờ nhòa đi những nét
hiện hữu để mang mang màu sắc huyền thoại. Người kể chuyện tưởng chừng như không
tham gia vào tuyến sự kiện của tác phẩm, chỉ là người đứng ngoài quan sát, người quay
phim nhưng thực chất ở một quá vãng nào đó, lại là một nhân vật chính yếu trong câu
chuyện về ngôi làng. Cấu trúc mới mẻ, độc đáo mà tiểu thuyết có được chính là nhờ vào
việc tạo lập một người kể chuyện nhập nhòe như thế.
Nhưng những thành công về mặt thi pháp kết cấu của Nguyễn Bình Phương ở tiểu
thuyết này còn được thể hiện ở những cấu trúc vi tế hơn. Ở đây, tôi muốn nói đến cách
tác giả đưa ra một hiện dạng xã hội ở bờ vực của sự băng hoại, cái xã hội làng Phan
đang chớm vào hoại tử ở tất cả các yếu tố cấu thành nên nó. Trước hết, làng Phan được
Nguyễn Bình Phương thể hiện ở cả hai chiều âm - dương, cõi sống - cõi chết, cõi hữu
thức - cõi vô thức. Ở cõi con người không thể tri nhận, làng Phan luôn luôn hiện lên
trong sự mờ ảo, linh dị, hoang đường,… như được đùn lên từ đất, lan vào từ sông, vọng
ra từ núi để độc chiếm không gian Linh Nham. Ở cõi con người có thể nhận thức được,
thì có hàng loạt những dấu hiệu thể hiện sự lụi tàn, sự dần méo mó,… với những toan
tính, rình rập, thoái hóa, biến chất. Nghĩa là cái dương tính đang dần teo tóp đi trong khi
cái âm tính lại trương phình lên, thú tính phát triển lấn át nhân tính, tất cả được bày biện
như một thế đẩy lùi sự sống. Yếu tố vô thức đã được triệt để khai thác nhằm thể hiện quá
trình tiệm thoái này. Sau nữa, trong xu hướng ấy, Nguyễn Bình Phương đặc biệt chú
trọng đến việc xây dựng các biểu tượng nghệ thuật.

Thoạt kỳ thủy có lẽ là tác phẩm mang trong nó nhiều nhất những biểu tượng của
văn hóa phương Đông. Từ con cú như sự tượng trưng cho cái xấu, cái ác đến dòng sông
tượng trưng cho sự sống, làng xóm, nhân quần ở mạch truyện thứ nhất. Từ quan niệm
tiêu trưởng âm dương đến cấu trúc của ngũ hành trong mạch truyện thứ hai. Nguyễn
Bình Phương đã kỳ công cho một sự sắp đặt như thế. Trong thế giới hiện sinh của làng
Phan, luôn trở đi trở lại các biểu tượng của hành kim (con dao chọc tiết lợn, tiếng búa
đập đá, súng), hành thủy (dòng sông), hành hỏa (lửa đốt nhà ông Điện, chiến tranh),
hành thổ (vườn rau, bãi Nghiền sàng). Duy chỉ có hành mộc là ít xuất hiện (hoặc có nói
đến thì cũng rất mờ nhạt như việc tưới rau, bán rau). Phải đợi đến phần phụ lục, nó mới
hiện lên như một yếu tố độc tôn trong truyện ngắn Và cỏ của ông Phùng. Thêm hành
mộc trong Và cỏ, Nguyễn Bình Phương đã hoàn tất quá trình thể hiện một cách đầy đủ,
sinh động sự băng hoại, suy đồi của xã hội làng Phan. Trong tiểu thuyết, Tính là nhân
vật hiện lên như một biểu tượng có tính hai mặt trong bản chất con người. Ngay từ khi
chưa sinh, Tính đã nhận được từ người cha những trận đòn qua người mẹ, sinh ra liền
chịu ám ảnh bởi tiếng gặm chén man dại của người cha, lớn lên trong sự dẫn dắt về cách
thức giết lợn kiếm ăn của ông Điện, trưởng thành trong kích động cắn cổ quân thù của
Hưng, và chết trên ngưỡng cửa nhận ra ánh sáng của sự sám hối (ngỡ ngàng trước làn
bụi vàng tỏa ra từ cây thánh giá rồi ngoặt đầu dao đâm thẳng vào cổ mình). Nói cách
khác, ở bề mặt, Tính là con người bị coi là tha hóa nhưng ở đáy sâu của sự thức nhận,
Tính là con người hướng thiện. Vì vậy, Tính cũng là nhân vật tiêu biểu cho tính phức
tạp, đa tầng trong thế giới nghệ thuật Nguyễn Bình Phương.
Thoạt kỳ thủy lôi cuốn người đọc không chỉ bởi tài năng nghệ thuật của Nguyễn
Bình Phương mà còn ở thái độ tiếp cận hiện thực của tác giả. Trưng ra một thế giới đang
trên đà rơi tuột xuống bờ vực của sự tha hóa, hủy diệt, Nguyễn Bình Phương đã không
chỉ nêu ra nguyên nhân, lên tiếng cảnh báo mà còn thắp nên niềm tin vào sự sám hối,
sửa đổi. Sự thức tỉnh của Tính và hành mộc tượng trưng cho sự phát triển tươi tốt được
hiện lên ở phần phụ lục như tiếng nói tố cáo toàn bộ cái tha hóa của thế giới trong chính
văn vừa thắp nên hi vọng vào một sự đổi thay. Với tất cả ý nghĩa đó, ở kết tinhh cao nhất
cả hai phương diện làm nên phong cách tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, Thoạt kỳ
thủy là đỉnh cao nhất của một lối viết tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Cõ lẽ,

sau Thoạt kỳ thủy, để tiếp tục viết tiểu thuyết, Nguyễn Bình Phương cần phải rẽ theo
hướng khác.
HÀNH TRÌNH TỚI BIỂN
So với các cây bút tiểu thuyết Việt Nam đương thời, tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương có được một tiếng nói riêng chính bởi cách thức xây dựng kết cấu huyền thoại.
Bảy tiểu thuyết trong khoảng chưa đầy hai mươi năm thâm canh, trong đó có những tiểu
thuyết đứng được như Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn và Thoạt kỳ thủy, là một thành
công đáng kể với người cầm bút.
Phương thức huyền thoại đã là nhân tố đầu tiên khu biệt tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương. Dù đậm nhạt, gia giảm khác nhau, phương thức huyền thoại luôn được Nguyễn
Bình Phương triệt để khai thác trong các tác phẩm. Thậm chí, có thể chỉ ra được mạch
vận động của phương thức này trong tư duy nghệ thuật Nguyễn Bình Phương. Nếu ở Bả
giời, Vào cõi, Nguyễn Bình Phương mới thể hiện cái kỳ ảo như một yếu tố, mới bắt đầu
đặt ra vấn đề về cái vô thức thì đến Những đứa trẻ chết giàvà Người đi vắng, huyền ảo
đã là đối tượng của tiếp cận nghệ thuật. Thoạt kỳ thủy nâng phương thức này lên đến cao
trào, làm nên một thành công đáng kể của Nguyễn Bình Phương. Có lẽ, đó cũng là lý do
để nhiều người đồng tình cho rằng Nguyễn Bình Phương là nhà văn đã đã đi được sâu
nhất vào vô thức của con người
(4)
.
Kết cấu huyền thoại cũng là một điểm nhạy cảm trong tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phương. Hình như đây chính là cái hàn thử biểu để nhận diện những thành công và
thất bại trong hành trình sáng tạo của tác giả. Bởi Nguyễn Bình Phương hết sức chú
trọng đến vấn đề này trong sáng tác. Chưa một tiểu thuyết nào của Nguyễn Bình Phương
không thấy xuất hiện từ ý thức kết hợp các thể loại (hay xóa nhòa biên giới thể loại) đến
kết cấu từng tác phẩm, hình tượng. Và phần nhiều thành công mà tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương có được cũng là nhờ vào kiểu kết cấu này. Nếu quan niệm như vậy, thì
một sự diện điểm các tác phẩm sẽ thấy ở hai tiểu thuyết Vào cõi và Ngồi, Nguyễn Bình
Phương đã thất bại về mặt cấu trúc. Và nữa, nếu các tác phẩm sau Vào cõi đã khắc phục
được hạn chế về mặt kết cấu, thậm chí đẩy cao trong Thoạt kỳ thủy để hô ứng với

phương thức huyền thoại, thì Ngồi là một bước lùi trong nghệ thuật tự sự của Nguyễn
Bình Phương. Hình như đã có một sự vênh lệch hay một kết hợp thiếu tương ứng giữa
đề tài và bút pháp ở tiểu thuyết này. Nguyễn Bình Phương định bao trọn cả tâm thức dân
tộc Việt ở chiều sâu vô thức của nó hay đã đi quá đà trong việc sử dụng kỹ thuật tiểu
thuyết, hay giản dị hơn, cái tâm thức dân tộc Việt mà Nguyễn Bình Phương muốn chiếm
lĩnh cũng chẳng mấy khác tâm thức của một cái “làng”, là điều đã được thể hiện đậm nét
quaThoạt kỳ thủy? Vì rõ ràng khát vọng đi từ bản thể con người đến tâm thức cộng đồng
rồi tâm thức dân tộc là mạch vận động nhất quán trong tư duy nghệ thuật Nguyễn Bình
Phương.
Tuy vậy, Nguyễn Bình Phương vẫn xứng đáng là cây bút có phong cách độc đáo
của văn học Việt Nam đương đại, có nhiều sáng tạo trong nỗ lực đổi mới tư duy và nghệ
thuật tiểu thuyết. Như một kết quả bước đầu của văn học Việt Nam theo hướng hòa nhịp
với văn học thế giới, tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, ở cả việc đưa đến hiện thực
mang màu sắc huyền thoại đến những lời văn đã dần có sự rạn vỡ sự độc tôn của lời văn
tiểu thuyết, đã hàm chứa trong nó nhiều vấn đề của cảm thức hậu hiện đại. Trước hết ở
sự từ bỏ đại tự sự, sau nữa là sự xóa nhòa ranh giới (hay kết hợp các thể loại văn học)
với nhau trong việc thể hiện hiện thực như một hiện hữu sống động. Song cũng cần nói
thêm rằng, thâm canh ở phương thức huyền thoại, nhất là các vấn đề vô thức, tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương thực sự kén chọn độc giả. Sáng tác của Nguyễn Bình Phương ít
đem cho người đọc một sự khoái cảm dễ dãi mà thường chỉ có được sau một quá trình
vật lộn với sự đọc. Với những trang viết thành công là một nhẽ, ở những trang viết mà
hình như cả người viết cũng phải lao động cật lực mà nghệ thuật vẫn ngoài tầm với,
hoặc nhà văn chỉ chạm hờ được vào đó, thì thực sự, sẽ ít nhiều trở thành sự thách đố với
người đọc. Nói cách khác, dòng sông mà bấy lâu Nguyễn Bình Phương bồi tụ phù sa có
cần thêm một sự nắn dòng?

×