Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Cấu trúc câu thơ "Lửa thiêng" Phần 1 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.08 KB, 9 trang )

Cấu trúc câu thơ
"Lửa thiêng"
Phần 1






Câu thơ chỉ là một phần trong hệ thống cấu trúc văn bản thơ. Một văn bản thơ (bài
thơ) được chia ra đoạn thơ (khổ thơ) câu thơ Câu thơ là đơn vị cơ bản kiến tạo bài thơ.
Và mỗi câu thơ được cấu tạo bởi nhiều thành tố: từ ngữ, thanh điệu, nhịp điệu, vần điệu,
giọng điệu Câu thơ có khi tương ứng với một dòng thơ, có khi hơn một dòng thơ (câu
thơ vắt dòng), và có lúc dòng thơ lớn hơn câu thơ. Lâu nay chúng ta thường quan niệm,
câu thơ được định hình trên văn bản và cấu trúc câu thơ là những gì phụ thuộc lẫn nhau
ở văn bản ấy. Thực ra có những yếu tố nằm ngoài văn bản, ngoài câu thơ, lại có vai trò
quan trọng, quyết định tới việc hình thành câu thơ. Nếu không đặt câu thơ "Tới ngã ba
sông, nước bốn bề - Nửa chiều gà gáy lạ trên đê" (Em về nhà) và "Ai chết đó? Nhạc
buồn chi lắm thế! Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường" (Nhạc sầu) của Huy Cận
vào môi trường văn hóa thì sẽ làm rơi rụng đi rất nhiều hồn cốt của chúng. Theo tôi, cái
ngoài văn bản có khi giải thích và tạo ra sự vận động của văn bản. Ở cấp độ câu thơ,
trong phạm vi ý nghĩa văn bản có giá trị thẩm mỹ cần có một điểm nhìn duy nhất, một
thao tác thống nhất khi tiến hành khảo sát khoa học, tức là tạm để lại, chưa tính đến
những cấu trúc phức tạp, ngoài văn bản, mà chỉ tập trung vào văn bản câu thơ đã được
xác định.
Câu thơ có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành bài thơ. Có khi là
điểm khởi đầu để phát triển thành bài, có khi là điểm sáng làm bật lên tứ thơ, có khi là
chủ đề, nội dung cảm hứng chính của bài thơ Câu thơ trước gọi câu thơ sau, hoặc là
tác nhân lấp đầy phần còn trống vắng của khổ thơ. Có câu thơ gợi hứng cho bài thơ
khác, câu thơ khác của tác giả hoặc cho nhà thơ khác ở một khoảnh khắc nào đó. Câu
thơ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" trong bài thơ Nhớ hờ của Huy Cận là đề từ


bài Tràng giang của ông. Các câu thơ "Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về" (Cành phong
lan bể), "Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời - Cửa vẫn đóng và Đời im ỉm
khóa" (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng) của Chế Lan Viên được gợi hứng từ những
câu thơ của Huy Cận: "Con cá song lấp lánh đuốc đen hồng" (Đoàn thuyền đánh cá),
"Một câu hỏi lớn không lời đáp - Cho đến bây giờ mặt vẫn chau" (Các vị La Hán chùa
Tây Phương). Cá biệt, có câu thơ là bài thơ. Chúng ta từng gặp bài thơ chỉ có một câu
thơ. Và cấu trúc câu thơ chính là cấu trúc bài thơ. Nhà thơ Nga Briuxốp (1873-1924)
viết nhiều bài thơ một câu (một dòng). Những bài thơ một dòng của Briuxốp được xuất
bản sau khi ông qua đời.
Dù ngắn dù dài câu thơ phải là một đơn vị duy nhất: duy nhất về cú pháp, duy
nhất về nghĩa, duy nhất về cảm xúc. Câu thơ có khi được lặp lại toàn bộ, hay, nhiều hơn
là từng bộ phận. ("Ta là nàng Ly Dao - Ngồi bên Hoa giang, khóc trăng sầu Lạnh lùng
thay một bóng Ly Dao - Ngồi bến Hoa giang khóc trăng sầu" - Hồn nghệ sĩ - Lưu Trọng
Lư. "Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ! - Xuân - Chế Lan Viên) trong lúc văn xuôi "tiến
thẳng lên phía trước". Câu thơ được xác lập trên một hệ thống từ . Trong tiếng Việt có từ
đơn và từ kép. Từ đơn trên văn bản là một chữ, một đơn vị phát âm nhỏ nhất. Từ kép (từ
láy) có những phương thức lặp từ nhất định để diễn đạt một ý nghĩa mới, hoặc "giảm
đi", "nhạt nhạt" (Chiều nhạt nhạt về nơi nào xa lắm) hoặc diễn tả trạng thái tái diễn: "lả
lả" (Lả lả cành hoang nắng trở chiều). Có thể lặp âm đầu hoặc phần còn lại để tăng sức
biểu cảm: "ngây ngất" (ngây ngất sương mây), "lơ thơ", "đìu hiu" (Lơ thơ cồn nhỏ gió
đìu hiu) Trong thơ cổ điển, thơ cách luật dân tộc Việt Nam, thơ không chỉ có vần mà
còn có số lượng chữ cố định trong mỗi câu thơ (dòng thơ), phổ biến nhất là thơ 7 chữ
(thất ngôn), thơ lục bát (6-8), thơ song thất lục bát (7-7-6-8), thơ 5 chữ (ngũ ngôn). Cùng
với hạn định về số lượng chữ, thì nhịp điệu, vần điệu, thanh điệu cũng được quy ước.
Cuộc cách mạng thơ ca từ những năm 30 của thế kỷ XX đã tạo đà cho câu thơ Việt tự do
và phóng túng. Nhưng mỗi ngôn ngữ có một hệ thống thi luật nhất định, sự tung phá ban
đầu của câu thơ mới dần dần ổn định, trở nên mức độ tương ứng với trình độ và thị hiếu
thẩm mỹ của thời đại. Câu thơ 12 chân Alexandrin (loại câu thơ chiếm ưu thế trong luật
thơ Pháp), nhóm Tao đàn Bạch Nga và cả Huy Thông sử dụng, chẳng mấy người hưởng
ứng:

"Đầu non cao và vắng vẻ,
dưới ánh bình minh lóng lánh,
Một bông hoa hồng mới nở,
mầu tươi thắm, hương ngạt ngào
Vui say sưa thú trời rộng,
và mây nhanh, và gió mạnh".
(Bông hồng - Huy Thông)
Cuối cùng, những bài thơ hay trở về với những thể điệu và câu thơ quen thuộc với
trường độ thường thường không quá 8 chữ.
Tập thơ Lửa thiêng (1940) của Huy Cận gồm 50 bài. Thơ 4 chữ: 2 bài, thơ 5
chữ: 5 bài, thơ lục bát (6-8): 8 bài, thơ 7 chữ: 19 bài, thơ 8 chữ: 16 bài. Nói cách
khác Lửa thiêng chỉ gồm những câu thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ và 8 chữ. Một điều
không nên quên là nội dung cảm hứng có quan hệ và chi phối từ ngữ, âm thanh, nhịp
điệu câu thơ. Nghĩa của từ ngữ có quan hệ mật thiết với tư duy và với hình thức của
nó. Từ ngữ luôn chứa đựng hai mặt âm thanh và ý nghĩa. Mối quan hệ giữa ý nghĩa và
từ ngữ là một quá trình vận động từ tư duy đến ngôn ngữ. Ngôn ngữ (chữ viết) định
hình hóa tư duy. Và câu thơ là sự định hình hóa một cảm xúc, một tín hiệu thẩm mỹ.
Lửa thiêng, ngọn lửa cô đơn, buồn, "ảo não":
- "Ôi lòng buồn chưa!"
(Điệu buồn)
- "Sương sầu gieo xuống vai"
(Tiễn đưa)
- "Trơ vơ buồn lọt quán chiều"
(Đẹp xưa)
- "Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt"
(Vạn lý tình)
- "Hồn bơ vơ không biết tựa vào đâu"
(Trò chuyện)
Độ dài của các câu thơ là cố định: 4,5,6,7,8 chữ, không có ngoại lệ. Nỗi
buồn và sự cô đơn đúc trong những giới hạn ấy. Người đọc nhận ra biện pháp dồn

nén, sử dụng dày đặc tối đa các tính từ, từ láy để diễn đạt cảm hứng chủ đạo. Hầu
hết các câu thơ đều chứa các từ: buồn, đơn chiếc, hiu quạnh, cô liêu, xa vắng, đìu
hiu, ngậm ngùi, ưu phiền Ở mức độ cao hơn:sầu, héo hon, quằn quại, ảo não, ê
chề, âm u, héo tàn, tan rã Và cuối cùng là xe tang, tha ma, địa phủ, nấm mồ,
chết Có những câu thơ được xây dựng bằng những từ ngữ biểu thị nỗi buồn tê
tái: "Sương lạnh dồn thêm lệ tủi sầu" (Tâm sự), "Sầu chi lắm trời ơi! Chiều tận
thế" (Nhạc sầu), "Môt chiếc linh hồn nhỏ - Mang mang thiên cổ sầu" (Ê chề),
"Trăng phơi đầu bãi, nước dồn mênh mang" (Thuyền đi)
Tìm hiểu cấu trúc câu thơ Lửa thiêng, trước hết chú ý đến thanh điệu của từ: thanh
bằng hay thanh trắc. Trong Thơ mới thời kỳ 1932-1945, tỷ lệ bằng trắc ở một khổ thơ 4
câu, 32 chữ (thơ 8 chữ) thường là 19/13, 18/14; khổ thơ 4 câu, 28 chữ (thơ 7 chữ)
thường là 16/12, 15/13; khổ thơ 4 câu, 20 chữ (thơ 5 chữ) thường là 13/7, 14/6, có khi là
17/3. ("Đêm hôm ấy em mừng - Mùi trầm hương bay lừng - Em nằm nghe tiếng mõ -
Rồi chim kêu trong rừng" - Chùa Hương - Nguyễn Nhược Pháp). Tỷ lệ bằng trắc ở một
cặp lục bát thường là 10/4, 9/5 Hiếm hoi là trường hợp câu thơ được cấu trúc toàn
thanh bằng nhằm mục đích tạo ra âm hưởng đặc biệt, gây ấn tượng ở người nghe (người
đọc):
"Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi"
(Nhị hồ - Xuân Diệu)
"Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông"
(Tỳ bà - Bích Khê)
Câu thơ Lửa thiêng ổn định từ 4 chữ đến 8 chữ. Thanh điệu câu thơ cùng chung
thanh điệu của Thơ mới: thanh bằng nhiều hơn thanh trắc. Chưa cần hiểu ý nghĩa, nội
dung thơ, bằng thị giác, chúng ta nhận xét sơ đồ bằng trắc câu thơ 4 chữ trong bàiĐiệu
buồn của Huy Cận (ký hiệu thanh bằng: - , thanh trắc: /):
Khổ I (3 câu) Khổ II (4 câu)
- - - - - - - -
/ - - - / - - -

- - - - - - - -
- - / -
Cũng như màu sắc, đường nét, âm thanh trong nghệ thuật, thanh điệu thơ phần
nào đã biểu hiện được nội dung cảm hứng của thơ: một âm điệu trầm, đều đều. Nếu điền
các chữ của hai khổ thơ vào các ký hiệu trên, chúng ta sẽ có một điệu buồn, như tên bài
thơ: "Mưa rơi trên sân - Mái nhà nghiêng dần Ôi buồn trời mưa! - Nhìn trăm sao buồn
- Của mưa trên sân Ôi lòng buồn chưa! Đêm sa xuống gần". Ở đây không có sự bổ trợ
của từ ghép, từ láy, hoàn toàn từ đơn. Trong một trường độ hạn hẹp, số lượng chữ ít, từ
đơn thông báo được nhiều hơn. Huy Cận cũng như các nhà thơ cùng thời sáng tác thơ 4
chữ không nhiều. Hình như câu thơ 4 chữ ít có điều kiện cho các nhà thơ sáng tạo từ,
thanh điệu, nhịp điệu. Nhịp điệu quen thuộc nhưng lại lôi cuốn, như vang lên từ tâm
thức, từ tuổi thơ, từ nhịp điệu đồng dao (Em lên rừng rậm - Bứt quả bứa chua - Em
xuống khe mò - Được con ốc nhỏ - Và Điệu buồn của Huy Cận: "Mưa rơi đều đều - Trên
từng ngói kêu - Trên từng ngói vang Trên từng ngói xanh - Lệ rêu muôn hàng". Xuân
Diệu cũng thế: "Mây lưng chừng hàng - Về ngang lưng núi - Ngàn cây nghiêm trang -
Mơ màng theo bụi" - Tiếng không lời). Nền tảng cấu trúc câu thơ ở trường hợp trên là
láy lại nhịp điệu. Việc láy lại nhịp điệu dựa trên việc láy lại thanh điệu (thanh bằng), âm
điệu (phần vần). Nhưng nhịp điệu nhiều khi phụ thuộc vào người đọc. Cùng một câu
thơ, một người đọc ở những thời khắc khác nhau hoặc không cùng một người đọc, nhịp
điệu có khi không xác định được đâu là nhịp chuẩn. Thơ 4 chữ nhịp điệu chủ yếu là 2/2,
nhịp điệu đồng dao. Vì vậy, Điệu buồn (giọng điệu buồn) không thích hợp với nhịp điệu
2/2. Và Điệu buồn không ảo não như giọng điệu chủ đạo của Lửa thiêng. Sự mâu thuẫn,
không ăn nhập giữa nhịp điệu và giọng điệu như trên, phần nào lý giải, các tập thơ thời
kỳ Thơ mới không viết theo thể thơ này. (Biệt lệTiếng thu của Lưu Trọng Lư có một
bài Chị em, Hoa niên của Tế Hanh có một bài Cánh đồng bao la, Thơ thơ và Gửi hương
cho gió của Xuân Diệu có hai bài: Thời gian, Tiếng không lời. Huy Cận ở Lửa
thiêng cũng chỉ có hai bài: Điệu buồn, Chiều xuân). Khảo sát thêm phần kết của
bài Chiều xuân:
"Nhạc vươn lên trời
Đời măng đang dậy

Tưng bừng muôn nơi
Mái rừng gió hẩy
Chiều xuân đầy lời".
chúng ta nhận ra nhịp điệu phù hợp với giọng điệu "vươn lên", "đang dậy", "tưng
bừng", "gió hẩy", "đầy lời". Nếu như không ngắt nhịp 2/2, đọc liền một mạch, các câu
thơ 4 chữ kia sẽ tạo ra một giọng điệu "tưng bừng" hơn. Vậy thì câu thơ 4 chữ không
phải là "điệu buồn", "điệu tâm hồn" của Huy Cận (cũng như của các nhà thơ thời kỳ Thơ
mới).
Câu thơ 5 chữ được tăng cường ở Lửa thiêng (5 bài), tỷ lệ bằng trắc không chênh
lệch nhiều. Lấy hai bài Tiễn đưa vàThu, cùng có số câu thơ như nhau, chia khổ như nhau
(3 khổ x 4 câu) và điều muốn nói, tỷ lệ bằng trắc giữa các khổ thơ tương ứng là giống
nhau.
Tiễn đưa Thu
Khổ I: 11-9 11-9
Khổ II: 13-7 13-7
Khổ III: 11-9 11-9
Cùng thời Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp có nhiều bài thơ 5 chữ "tuyệt bút"
và nghiêng về thanh bằng. Thơ Lưu Trọng Lư thường chưa phân khổ, mạch thơ liên tiếp,
cảm xúc triền miên (Tiếng thu, Còn chi nữa, Trăng lên). Nguyễn Nhược Pháp sử dụng
chủ yếu thanh bằng, thúc khổ thơ, dồn nén cảm xúc: "Hôm nay đi chùa Hương - Hoa cỏ
mờ hơi sương - Cùng thầy me em dậy - Em vấn đầu soi gương" (Chùa Hương). Tỷ lệ
bằng trắc ở đây: 17-3. Và các khổ thơ tiếp theo: 13-7, 16-4, 15-5, 14-6, lại 17-3 Câu
thơ 5 chữ của Huy Cận, bắt đầu xuất hiện từ kép (từ láy).
"Chân rộn, lòng đau xé; - / - - /
Tay buông, dáng não nùng - - / / -
Đứng dừng trông mắt lệ / - - / /
Đi: bắc cầu nhớ nhung". - / - / -
(Tiễn đưa)
Tỷ lệ bằng trắc: 11-9. Nhịp điệu chi phối 2/3, câu thơ thứ tư thay đổi 1/4. Khi nhịp
điệu thay đổi vượt ra ngoài trường nhịp điệu chung của các câu thơ, thì ngữ nghĩa như

"lúng túng" không trong sáng so với các câu thơ theo nhịp chuẩn. "Đi: bắc cầu nhớ
nhung" - "bắc cầu nhớ nhung" giải thích hành động "đi". Ba câu thơ trên, không cần giải
thích, mỗi chữ, mỗi từ tự thân có nghĩa. Với các câu thơ tiếp sau cũng xảy ra trường hợp
tương tự: "Người xa, buồn lại gần - Tai nặng lời giao thân - Ngã ba tà áo lặn Dặm
trường thương cố nhân". Ở đây chú ý nhịp điệu câu thơ thứ hai: "Tai nặng lời giao thân",
không thể ngắt nhịp, ngắt nhịp ngữ nghĩa sẽ phản lại thơ:
"Tai/ nặng lời giao thân", chữ "tai" mất chức năng.
"Tai nặng/ lời giao thân", hai ngữ phản nghĩa nhau.
"Tai nặng lời/ giao thân", hai ngữ phản nghĩa nhau.
Khổ thơ thứ ba, khổ thơ kết thúc, khuôn phép với nhịp chuẩn của bài: 2/3. Như
vậy, có "sự cố" trong tư duy nghệ thuật sáng tạo. Nhịp điệu vang lên, các chữ phải đứng
vào hàng ngũ và thanh điệu phải chỉnh tề, đồng thời nghĩa của chữ phải bộc lộ độc lập,
không cần sự cứu trợ của chữ khác. Khi phá vỡ nhịp chuẩn để giải phóng cảm xúc vẫn
phải bảo đảm ngữ nghĩa của câu thơ. Ở đây không hoàn toàn như thế. Ở đây là sự mâu
thuẫn giữa nhịp điệu và ngữ nghĩa. Hai câu thơ "lạc nhịp" ở trên rất có thể nằm trong
nhịp điệu chuẩn theo quán tính mà thanh điệu các chữ cho phép, nhưng ngắt nhịp như
thế, ngữ nghĩa khác đi:
"Đi: bắc/ cầu nhớ nhung
Tai nặng/ lời giao thân".
Rõ ràng chỗ ngắt nhịp khác với chỗ ngắt nghĩa, nhịp điệu không trùng ngữ nghĩa
bởi vì chỗ ngắt nhịp là sự phân chia thuần túy có tính chất ngữ điệu, nó không có quan
hệ gì với những chỗ ngắt nghĩa. Huy Cận chú ý ngắt nghĩa mà buông lỏng nhịp điệu.
Chú ý ngữ nghĩa, ngữ nghĩa là trung tâm, nảy sinh tâm lý, không quan tâm tới những
quan hệ xung quanh, hướng vào bộc lộ mình, độc thoại ở cả hai phương diện nội dung
và hình thức.
Xét về tính chất, chức năng thơ 5 chữ là giãi bày. Trường độ ngắn, chữ và nghĩa
cùng chung thông báo, người đọc nhận ra bằng trực cảm. Ưu thế này tạo thuận lợi cho
việc giãi bày tâm trạng. Các bài thơ 5 chữ của Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp là
thế, có giãi bày, có đối thoại (về hình thức). Đại từ xuất hiện với tư cách đối thoại: "Em
không nghe mùa thu Em không nghe rạo rực Em không nghe rừng thu" (Tiếng thu),

"Tình anh đã xế bóng - Còn chi nữa em ơi?" (Còn chi nữa), "Em ngồi trong song cửa -
Anh đứng tựa tường hoa" (Một mùa đông), "Em tuy mới mười lăm - Mà đã lắm người
thăm" (Chùa Hương), "Ta ngồi bên tảng đá - Mơ lều chiếu ngày xưa" (Tay ngà) Tiễn
đưa của Huy Cận, không đại từ, không chủ ngữ, chỉ là độc thoại, không hướng tới đối
tượng nào. Nỗi buồn và cô đơn tăng lên và càng tăng lên khi không có đối tượng để giãi
bày.

×