Biểu tượng "nước" trong thơ
ca dân gian và thơ ca hiện đại
các dân tộc ít người
Phần 1
I. Biểu tượng và khả năng phái sinh, mở rộng nghĩa theo thời gian
Biểu tượng là sự mã hóa các giá trị tinh thần của loài người theo suốt chiều dài thời
gian. Ở đó, những người đi sau khám phá và tri nhận được lối tư duy và những giá trị tinh
thần hàm ẩn của những người đi trước, đến lượt họ lại tiếp tục đắp bồi thêm các lớp nghĩa
mới. Như vậy, rõ ràng, trong sự tồn tại của biểu tượng, chúng ta thấy có một quá trình bồi tụ
nghĩa.
Biểu tượng được hình thành với phương thức sử dụng một loại môi vật để môi giới tri
giác cái bất khả tri giác. Với cách thức "bằng một hình ảnh cụ thể mà nói lên một sự gì trừu
suất hay vắng mặt"
(1)
, biểu tượng có rất nhiều dạng thức khác nhau, như: biểu trưng, biểu
hiệu, phù hiệu, dấu hiệu Trong bài viết này, để tiện cho việc khảo sát, biểu tượng được quan
niệm một cách đơn giản nhất là tất cả những hình ảnh mang những nét nghĩa phái sinh, trong
đó, mang những so sánh mà "vế thứ nhất bị dồn nén vào vô thức"
(2)
, bị che lấp và đòi hỏi phải
có những tri thức văn hóa đặc trưng của dân tộc để khai mở.
Biểu tượng luôn chứa đựng trong mình những giá trị đã được vĩnh hằng hóa, song
không phải vì thế mà nó trở thành nơi tồn đọng những giá trị cũ mòn, nơi giam giữ các tầng ý
nghĩa trong sự xơ cứng. Trái lại, biểu tượng là một thực thể sống động, luôn luôn có sự luân
chuyển, đắp đổi nghĩa liên tục. Sinh thể ấy được nuôi dưỡng bằng những lối tư duy, những
tưởng tượng phong phú của con người. Đời sống của con người không bao giờ bớt phức tạp
đi, và biểu tượng vì thế cũng không bao giờ đơn giản hơn. Những phức tạp của cuộc sống dội
vào tâm tư con người những suy tưởng không cùng, để rồi từ đó, chúng lại được dồn nén vào
hệ thống biểu tượng. Đó là con đường tất yếu của đời sống và cũng là xu hướng tồn tại và
phát triển tất yếu của biểu tượng.
Với xu hướng như vậy, biểu tượng là một sinh thể có khả năng mở rộng nghĩa theo
thời gian. Xác định xu hướng này, chúng tôi lựa chọn khảo sát biểu tượng nước trong thơ ca
dân gian và thơ ca hiện đại của các dân tộc ít người để bước đầu khám phá ra mạch nghĩa liên
tục trong biểu tượng ấy cũng như sự phát sinh ra những lớp nghĩa mới. Hy vọng với phương
cách như vậy, chúng ta có thể bắt đầu tiếp cận được với khả năng truyền dẫn lối tư duy của
văn học dân gian tới văn học viết trong bộ phận văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam.
II. Biểu tượng nước trong thơ ca dân gian của các dân tộc Tày, Mường, Giáy
1. Các tầng nghĩa
Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, "những ý nghĩa tượng trưng của nước có
thể quy về ba chủ đề chiếm ưu thế: nguồn sống, phương tiện thanh tẩy, trung tâm tái sinh"
(3)
.
Khảo sát và tập hợp các câu ca dao có sự hiện diện của biểu tượngnước trong Tổng tập văn
học các dân tộc thiểu số Việt Nam
(4)
, cho thấy biểu tượng nước thường xuất hiện trong
những câu ca dao tình yêu. Mà xét đến cùng, tình yêu cũng chính là một "nguồn sống", một
"phương tiện thanh tẩy", một "trung tâm tái sinh". Tuy nhiên, để phân suất ý nghĩa một cách
cụ thể hơn, sâu sắc hơn, cần thiết phải nhóm các câu ca dao mang biểu tượng nướcvào những
nhóm có tầng nghĩa đặc trưng của biểu tượng này.
a. Nước là một quyền năng, một giá trị
Nước là nguồn sống tự nhiên quan trọng bậc nhất của loài người. Chính vì thế mà những
dòng sông lớn trên thế giới luôn luôn là khởi nguyên của các nền văn minh lớn. Đối với những
cư dân miền núi, những con người quen nếp sống dựa vào thiên nhiên, nước càng trở nên
thiêng liêng bởi nước cũng là sự sống. Sự sùng bái nước là một hành vi mang tính cộng đồng
và đã ăn sâu vào tâm thức cộng đồng con người miền núi. Nước mặc nhiên trở thành một biểu
tượng mang tính giá trị, mang một quyền năng, một sức mạnh đặc biệt đối với đời sống con
người.
Đọc thơ ca dân gian của các dân tộc ít người Việt Nam, chúng ta càng thấm thía sức
ám ảnh của biểu tượng nước trong tâm thức dân gian. Những con người miền núi quen sống
giữa thiên nhiên, quen tư duy qua lăng kính tự nhiên đã dễ dàng gửi gắm những suy tưởng,
những tình cảm vào biểu tượng nước. Dù là ở dân tộc nào, Tày hay Mường hay
Giáy, nước cũng là biểu trưng cho một giá trị, một quyền năng trong đời sống con người. Sự
đồng điệu trong cách cảm, cách nghĩ này cho thấy nước là biểu tượng lớn của văn hoá dân
gian các dân tộc ít người.
Những câu ca dao dân gian của người Tày thường mượn biểu tượng nước mà định giá
tình cảm:
- Thương nhau đựng sọt nước vơi
Không thương nước đựng cong rồi cũng khô.
- Thương nhau nước đựng vào sàng
Không thương nước đựng trong cang còn rò.
(Ca dao tình yêu, Tày, tr.652)
Nước được xem như là một giá trị đã định hình, là cái hiển nhiên, mặc định. Nó là cái
cớ vin vào cho sự khẳng định tình cảm vững bền của đôi lứa yêu nhau:
Nước không chảy ngược lên trời
Bắc thang thượng giới mấy người được nao
Thang lên trời thấy đâu nào
Hai ta nghĩa nặng khắc vào nhất tâm.
(Ca dao tình yêu, Tày, tr.652)
Tính thiên biến vạn hoá mềm dẻo của nước khiến con người cũng liên tưởng đến
những sự thay đổi trong hình hài biểu tượng này. Nó là một giá trị, có khi là vĩnh hằng, có khi
là biến đổi:
Thương nhau chế nước thành dầu
Thương nhau đun cạn nước nâu thành chàm
(Ca dao tình yêu, Tày, tr.652)
Nếu các câu ca dao trên nhấn mạnh vào tính thuần nhất của nước để biểu thị sự chung
thuỷ, vĩnh hằng thì câu ca dao này lại nhấn mạnh vào khả năng biến chất của nước để nói lên
sức mạnh chuyển dời của tình cảm.
Người Mường lại có những câu ca dao đậm đặc chất suy tưởng về lẽ đời, trong
đó, nước cũng là một biểu tượng chính gọi tên cho một giá trị của đời sống vô cùng:
Thà nước đổ về sông
Còn mong có lúc được vác
Nước đã đổ xuống cát
Còn cầm bát đợi làm chi mà sầu
(Hát tàn nhau, Mường, tr.313)
Không đơn thuần biểu thị cho tình cảm, nước ở đây được nhìn nhận rộng hơn, sâu
hơn, bao trùm mọi giá trị, mọi thành quả trong đời sống con người. Nó gói trọn tất cả mọi hy
vọng, thất vọng, ngậm ngùi của con người. Trong lối suy tư này, nước trở thành một biểu
tượng gần gũi – đại diện cho những giá trị, những thành quả thiết thực của đời sống con
người.
Từ một góc độ khác, biểu tượng nước lại được thiêng liêng hóa, trở thành một mạch
nguồn linh diệu của tình yêu:
Thương thiết, thương nồng!
Anh một lòng ước ao, ao ước
Ước sao anh biến nên mỏ nước lành
Cho em mái nhân tình rẽ chân về uống.
(Phát đường, Mường, tr.238)
Người đàn ông trong câu ca dao “một lòng ước ao, ao ước” “biến nên mỏ nước
lành” cho người tình “rẽ chân về uống” hay anh ta đang tự thiêng hóa con người mình, tâm
hồn mình, thiêng hóa nguồn tình nóng bỏng trong mình để quyến rũ người yêu. Trong thẳm
sâu tâm thức mỗi con người, nước là nguồn cội, nước là những gì thanh khiết, trong sáng.
Hẳn là tác giả dân gian cũng đã ướm chọn những giá trị vĩnh hằng ấy của biểu tượng nước để
thể hiện nỗi khát khao yêu đương của một trái tim đang thổn thức.
Nước đã tỏ rõ quyền uy và sự chủ động của nó trong con mắt dân gian. Trong câu ca
dao sau của người Giáy, tình cảm hay sự đáp tình của cô gái được ví như nước hay nói khác
đi, nước được chọn làm biểu trưng cho một thứ quyền năng đặc biệt về tình cảm:
Anh muốn làm máng cho nước chảy
Chỉ e nước không chảy
Nước luồn qua giữa rừng
Nước chảy xuống vực sâu.
(Chỉ e, Giáy, tr.480)
Uy quyền định đoạt số phận tình yêu của người con gái được tác giả dân gian gán
ngay cho nước bởi những hàm nghĩa sâu sắc về sức mạnh ghê gớm đằng sau vẻ mềm mại
của bản thân nó. Thật không có gì đẹp hơn, thẳm sâu hơn, hoàn mỹ hơn khi để biểu
tượng nước xuất hiện như một giá trị đặc biệt, một quyền năng thiêng liêng trong những lời
tình ấy.
b. Nước là số phận, định mệnh
Đặc tính về sự trôi chảy liên tục của nước khiến người ta thường liên tưởng đến dòng
đời, đến số phận. Trong những câu ca dao của người dân tộc thiểu số, nước cũng xuất hiện
với ý nghĩa là sự ám ảnh về số phận, về định mệnh. Trong nỗi thương yêu da diết, người tình
nhân không khỏi có lúc ngờ vực, nghi ngại về số phận tình yêu về sau này. Lúc ấy, biểu
tượng nước xuất hiện một cách thật tự nhiên, giúp nhân vật trữ tình bày tỏ lòng mình trọn vẹn
nhất:
Ta hẹn gặp đôi lúc
Biết đâu về sau này
Nước mỗi sông khác chảy
Khác lờ lại khác bẫy.
(Tùy em, Giáy, tr.480)
Cũng trong một tình thế éo le, chàng trai trong câu xường – câu hát dân gian của người
Mường đã tự giam mình trong một tưởng tượng buồn thảm, trong một tiên cảm về số mệnh
của lứa đôi:
Tan đôi ai mặc ai
Tàn đôi ai mặc họ,
Đôi đứa ta, đêm ni phải tan nhau làm chi mà thương!
Em có cửa nhà sớm rồi em được ăn nhờ công con
Để anh vóc rỏ mình son
Ra bến sông con đứng đợi nước chảy
(Xường tự do, Mường, tr.285)
Nước chảy hay là số mệnh đang trôi? Dường như tất cả mọi nỗi sầu thương, đau đớn
của chàng trai ấy đều lồ lộ xuất hiện bởi chính cái vẻ dửng dưng, điềm nhiên trôi chảy
của nước. Tác giả dân gian đã chọn đúng biểu tượng mà vẽ nên sắc diện của một tâm trạng
khó tả của con người.
Trong một bài lượn của người Tày, nước lại xuất hiện như một điềm báo tốt lành, một
định mệnh:
Tối qua em mơ thấp
Tối nay em mơ lành
Mơ thấy lửa cháy nước
Hóa ra có trai ngoan vào làng
(Lượn phuối phác, Tày, tr.433)
Vốn là một biểu tượng lớn của văn hóa thế giới, biểu tượng nước có sức ẩn nghĩa rất
lớn. Trên đây là một số lớp nghĩa cơ bản được tìm thấy trong phạm vi hẹp của thơ ca dân
gian 3 dân tộc Tày, Mường, Giáy.
2. Sự xuất hiện của biểu tượng trong trạng thái sóng đôi
Biểu tượng hoàn toàn là một thực thể độc lập trong môi trường văn hóa, bởi vậy, nó
không nhất thiết phải xuất hiện trong một mối quan hệ nào đấy thì mới có giá trị biểu
nghĩa. Tuy nhiên, qua khảo sát hệ thống biểu tượng trong kho tàng thơ ca dân gian các
dân tộc thiểu số, một điều rất dễ nhận thấy là các biểu tượng thường được xuất hiện trong
trạng thái sóng đôi. Biểu tượng nước cũng không phải là ngoại lệ. Có thể xem việc đặt các
biểu tượng vào một trạng thái có tính chất liên hệ là một lề lối tư duy quen thuộc của con
người Việt Nam. Đời sống đậm đặc tính cộng sinh giữa con người với tự nhiên, giữa con
người với con người đã đem lại một lối tư duy đề cao quan hệ mang tính tổng hợp như
vậy.
Phải thừa nhận rằng, xu hướng đặt biểu tượng trong trạng thái sóng đôi đã gia tăng giá
trị biểu đạt cho các biểu tượng nhờ hiệu quả của sự cộng hưởng ngữ nghĩa, dù ở trạng thái
tương tác, tương hỗ hay tương phản.
a. Cặp đôi tương phản
Biểu tượng nước xuất hiện trong một cặp đôi mang tính tương phản thường biểu đạt
những điều kỳ diệu, mạnh mẽ, như câu tỏ tình của chàng trai dân tộc Tày sau đây:
Tình nghĩa hai ta lửa mặt nước
Chẳng ai mối lái để thề nguyền.
(Lượn gà gáy, tr.95).
hay lời mơ mộng của một cô gái:
- Tối qua em mơ thấp
Tối nay em mơ lành
Mơ thấy lửa cháy nước
Hóa ra có trai ngoan vào làng
(Lượn phuối phác, tr.433)
Tác giả dân gian gọi lên một giá trị tinh thần đặc biệt bằng cách xây dựng một cặp
đôi biểu tượng tương phản. Tình cảm lứa đôi trong mấy câu dân ca trên đây được nhấn
mạnh không chỉ bằng sự hiện diện của các biểu tượng mà quan trọng hơn là bằng sự
tương tác nghĩa giữa cặp đôi biểu tượng nước - lửa. Sự tương phản càng mạnh thì mức
độ mãnh liệt của tình yêu lứa đôi càng lớn.
Để biểu tượng nước có thể hiện diện dưới nhiều góc độ lấp lánh, tác giả dân gian
không chỉ sử dụng những tương phản hoàn toàn (giữa nước với các sự vật khác) mà còn tạo
ra những tương phản không hoàn toàn bằng cách khai thác nhiều phương diện biểu cảm của
biểu tượng này.
Thương nhau nước lũ cũng qua
Không thương nước vũng tránh xa là thường
Thương nhau chế nước thành dầu
Thương nhau đun cạn nước nâu thành chàm
(Ca dao tình yêu, Tày, tr.52)
Đừng chê giếng nước nhỏ không ăn
Đợi dòng nước máng cao hơn chết đói
(Lượn phuối phác, Tày, tr.433)
Nhờ khả năng chi tiết hóa sự vật, biểu tượng nước đã có thêm nhiều sắc độ biểu cảm
mới, trong đó, có những sắc độ tương phản như: nước lũ - nước vũng; nước - dầu; nước nâu -
chàm; giếng nước nhỏ - nước máng. Sự tương phản các sắc độ khác nhau trong cùng một
biểu tượng đem đến những hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Trong hình ảnh giếng nước
nhỏ dưới cái nhìn đối sánh với nước máng, ta đọc thấy không chỉ là một nỗi ngậm ngùi mà
còn là một niềm kiêu hãnh ngấm ngầm đằng sau đó.