Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Đề tài về hệ thống ngân hàng thương mại pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.7 KB, 11 trang )










Đề tài về hệ thống ngân hàng
thương mại”









Học viên: Vũ Văn Đại Trang 1

* LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1. Đònh nghóa:
 Ngân hàng thương mại là một lọai hình tổ chức tín dụng được thực
hiện tòan bộ họat động ngân hàng và các hoạt động khác có
liên quan. Luật này còn đònh nghóa: tổ chức tín dụng là lọai hình
doanh nghiệp được thành lập theo quy đònh của luật các tổ chức tín
dụng và các quy đònh khác của pháp luật để họat động kinh doanh
tiền tệ, làm dòch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử


dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dòch vụ thanh toán.
 Theo luật ngân hàng Nhà nước đònh nghóa: hoạt động ngân hàng
là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dòch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng, cung ứng dòch vụ thanh toán.

2. Chức năng của ngân hàng thương mại:
 Chức năng trung gian tài chính: ngân hàng thương mại đóng vai trò
trung gian khi thực hiện các nghiệp vụ bao gồm nghiệp vụ cấp tín
dụng, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh ngọai tệ, kinh doanh
chứng khoán và nhiều hoạt động môi giới khác.
 Chức năng tạo ra tiền tức là chức năng sáng tạo ra bút tệ góp
phần gia tăng khối tiền tệ phục vụ cho nhu cầu chu chuyển và phát
triển nền kinh tế.
 Chức năng sản xuất bao gồm việc huy động va sử dụng các nguồn
lực để tạo ra sản phẩm và dòch vụ ngân hàng cung cấp cho nền
kinh tế.

3. Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại:
3.1. Hoạt động huy động vốn:
 Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
 Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng
khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn
và các loại tiền gửi khác.
 Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác
để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
 Vay vốn của các tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của
các tổ chức tín dụng nước ngoài.
 Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
 Các hình thức huy động vốn khác theo quy đònh của Ngân hàng

Nhà nước.

3.2. Hoạt động cấp tín dụng:
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới
các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác,
bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy đònh của
Học viên: Vũ Văn Đại Trang 2
Ngân hàng Nhà nước như bao thanh toán tài trợ nhập khẩu, tài trợ xuất
khẩu, cho vay thấu chi, cho vay theo hạn mức tín dụng, hạn mức tín dụng dự
phòng…
3.2.1 Cho vay:
Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới
các hình thức sau:
- Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh
doanh, dòch vụ và đời sống.
- Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát
triển sản xuất, kinh doanh, dòch vụ và đời sống.

3.2.2. Bảo lãnh:
Ngân hàng thương mại được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán,
bảolãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo
lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình
đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng
và tổng mức bảo lãnh của một ngân hàng thương mại không được vượt
quá tỷ lệ so với vốn tự có của ngân hàng thương mại.

3.2.3. Chiết khấu:
Ngân hàng thương mại được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ
có giá ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân vá có thể tái chiết
khấu các thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với

các tổ chức tín dụng khác.

3.2.4. Cho thuê tài chính:
Ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải
thành lập công ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghò đònh của chính
phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
3.2.5. Bao thanh toán:
Các ngân hàng thương mại triển khai thực hiện bao thanh toán như là
một hình thức cấp tín dụng cho khách hàng doanh nghiệp như: bao thanh
toán truy đòi, bao thanh toán miễn truy đòi, bao thanh toán ứng trước hay
bao thanh toán chiết khấu, bao thanh toán khi đáo hạn trong phạm vi buôn
bán nội đòa lẫn quốc tế.

3.2.6. Tài trợ nhập khẩu:
Nghiệp vụ tài trợ nhập khẩu nhằm hỗ trợ về tài chính cùng các
phương tiện và giấy tờ liên quan để doanh nghiệp nhập khẩu có thể thực
hiện nghóa vụ của mình trong hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm:
- Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu.
- Cho vay ứng trước một phần để thanh toán cho người bán hay ứng
trước tiền thuế nhập khẩu.
- Bảo lãnh và tái bảo lãnh việc thanh toán hối phiếu khi đến hạn.
- Chấp nhận hối phiếu.
Học viên: Vũ Văn Đại Trang 3
- Cho thuê kho bãi để chứa và bảo quản an toàn hàng hóa nhập
khẩu với giá cho thuê phải chăng tại các điểm hay các đòa phương khác
nhau.
- Giúp khai báo thuế.
- Cho vay để thanh toán tiền hàng nhập khẩu cho nhà xuất khẩu nếu
đến hạn mà nhập khẩu chưa có tiền.
- Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng

thương mại, mua bảo hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyển giao
hàng hóa cả về số lượng, quy cách và chất lượng.
- Các hỗ trợ khác do sự bất cập về tập quán, luật pháp…

3.2.7. Tài trợ xuất khẩu:
- Cho vay thu mua hàng hóa xuất khẩu, mua nguyên vật liệu để sản
xuất, cho vay đầu tư nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm dòch vụ, cho
vay bảo trì đối với các dự án chiến lược về máy móc thiết bò, nhà
xưởng ở nước ngoài.
- Cho vay nộp thuế xuất khẩu.
- Giúp khai báo thuế.
- Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ như giúp soạn thảo hợp
đồng thương mại, mua bảo hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyển
giao hàng hóa, theo dõi kiểm tra hóa đơn chứng từ và hàng hóa cả về
số lượng, quy cách và chất lượng.
- Các hỗ trợ cần thiết khác do sự khác biệt về tập quán, luật
pháp…
- Cho thuê kho bãi để chứa và đóng gói hàng hóa xuất khẩu với
giá cả phải chăng.
- Cho vay hỗ trợ dòch vụ vận chuyển chuyển giao hàng hóa.
- Chiết khấu hối phiếu cho nhà xuất khẩu được nhận tiền sớm.
- Chiết khấu chứng từ thanh toán theo hình thức tín dụng chứng từ.
- Giúp quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, thu nợ các khoản phải
thu, bảo đảm rủi ro không thanh toán của bên mua hàng, xếp hạng hạn
mức tín dụng và thu hộ.
- Cho vay trên cơ sở bộ chứng từ thanh toán theo phương thức nhờ thu.
- Thuận nhận ngân hàng.

3.2.8. Cho vay thấu chi:
Mỗi khách hàng được cấp một hạn mức thấu chi khi khách hàng tạm

thời thiếu hụt trong thanh toán, bằng hình thức cho vay này thì khách hàng
không phải thế chấp hay tín chấp.

3.2.9. Cho vay theo hạn mức tín dụng và hạn mức tín dụng dự phòng:
3.2.9.1. Cho vay theo hạn mức tín dụng:
Khách hàng nộp một bộ hồ sơ vay vốn duy nhất cho một hay nhiều
món vay vào đầu quý, ngân hàng thương mại cấp một hạn mức tín dụng
là mức dư nợ tối đa được duy trì trong một thời gian nhất đònh mà khách
hàng và ngân hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Học viên: Vũ Văn Đại Trang 4

3.2.9.2. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:
Ngân hàng thương mại cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức
tín dụng nhất đònh ngoài hạn mức tín dụng dự phòng khi khách hàng
không có đủ vốn vì mức vốn đầu tư cho dự án tăng thêm, nhu cầu tiêu
dùntg, mua sắm tăng thêm,

3.3. Hoạt động dòch vụ thanh toán và ngân quỹ:
Bao gồm các họat động sau:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán.
- Thực hiện các dòch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
- Thực hiện dòch vụ thu hộ và chi hộ.
- Thực hiện các dòch vụ thanh toán khác theo quy đònh của Ngân
hàng nhà nước.
- Thực hiện dòch vụ thanh toán quốc tế khi được ngân hàng nhà
nước cho phép.
- Thực hiện dòch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh
toán liên ngân hàng trong nước.
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được ngân hàng Nhà

nước cho phép.

3.4. Các hoạt động khác:
3.4.1. Góp vốn và mua cổ phần:
Ngân hàng thương mại được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp
vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong
nước theo quy đònh của pháp luật. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn
được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để
thành lập ngân hàng liên doanh.

3.4.2. Tham gia thò trường tiền tệ:
Ngân hàng thương mại được tham gia thò trường tiền tệ, theo quy đònh
của ngân hàng nhà nước, thông qua các hình thức mua bán các công cụ
của thò trường tiền tệ.
3.4.3. Kinh doanh ngoại hối:
Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập
công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thò trường trong
nước và thò trường quốc tế.

3.4.4. Ủy thác và nhận ủy thác:
Ngân hàng thương mại được ủy thác, nhận ủy thác làm đại lý trong
các lónh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài
sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp
đồng ủy thác, đại lý.

3.4.5. Cung ứng dòch vụ bảo hiểm:
Học viên: Vũ Văn Đại Trang 5
Ngân hàng thương mại được cung ứng dòch vụ bảo hiểm, được thành
lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy
đònh của pháp luật.


3.4.6. Tư vấn tài chính:
Ngân hàng thương mại được cung ứng các dòch vụ tư vấn tài chính, tiền
tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty
tư vấn trực thuộc khách hàng.

3.4.7. Bảo quản vật quý giá:
Ngân hàng thương mại được thực hiện các dòch vụ bảo quản vật quý,
giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dòch vụ khác có liên
quan theo quy đònh của pháp luật.

* THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN VỪA QUA:
Thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nằm ở nội lực của
chính các ngân hàng, với quy mơ vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ cơng nghệ
còn chậm tiến so với các nước trong khu vực.
Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn
nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân hàng thương
mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại Nhà
nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống ngân
hàng thương mại quốc doanh chiếm đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và
trên 73% thị trường tín dụng.
Trong khi đó, hệ số an tồn vốn bình qn của các ngân hàng thương mại Việt
Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo u cầu của Ngân hàng Nhà nước và thơng lệ
quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó
với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá.
Điểm hạn chế thứ hai của các ngân hàng trong nước là hệ thống dịch vụ ngân
hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách
hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu
dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ

yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập, lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi
suất cho vay cũng tăng, tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc
nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để ni
nợ, dẫn đến tình trạng mất vốn ngày càng lớn.
Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài chính
còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền
kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn
chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn.
“Việc sử dụng vốn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là q cao, nếu
duy trì q lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an tồn cho tồn bộ
hệ thống.
Tính đến nay, hệ thống ngân hàng nước ta có 6 ngân hàng thương mại nhà
nước (NHTMNN), 37 NHTMCP, 31 chi nhánh ngân hàng nước ngồi, 6 ngân hàng liên
Học viên: Vũ Văn Đại Trang 6
doanh, 6 cơng ty tài chính và 10 cơng ty cho th tài chính, 926 tổ chức tín dụng nhân
dân và 46 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngồi. Hơn nữa, hiện nay NHNN
đã chấp nhận về ngun tắc cho ra đời thêm 4 NHNN cổ phần, càng chứng tỏ hệ thống
ngân hàng đang vững mạnh hơn. Nếu so với cách đây hơn chục năm thì đây quả là một
sự trưởng thành vượt bậc.
Thứ nhất, hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn
cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn đầu tư
tồn xã hội. Tăng trưởng tín dụng liên tục tăng trong các năm và năm 2006 ước tăng
khoảng 24%, cao hơn mức 19% năm 2005. Hệ thống ngân hàng cũng có nhiều đóng góp
cho tăng trưởng, phát triển và ổn định nền kinh tế trong những năm qua.
Thứ hai, hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới tồn diện. Nhiều văn bản luật
đã được ban hành một cách đồng bộ; Cơ chế chính sách về hoạt động ngân hàng đã ngày
một hồn chỉnh và phù hợp với thơng lệ quốc tế; Khn khổ thể chế ngày một thơng
thống và minh bạch hơn. Những phân biệt đối xử giữa loại hình tổ chức tín dụng, tổ
chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngồi đã từng bước được loại bỏ;
Chức năng cho vay tín dụng chính sách và cho vay tín dụng thương mại đã được tách

bạch; Các NHTM, các tổ chức tín dụng đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy
đủ. Tính cạnh tranh của các tổ chức tín dụng được nâng cao; Thị trường dịch vụ ngân
hàng được phát triển an tồn và hiệu quả.
Thứ ba, chính sách tiền tệ (CSTT) được đổi mới và điều hành theo ngun tắc
thị trường và phù hợp với thơng lệ quốc tế. Các cơng cụ gián tiếp điều hành CSTT đã
được hình thành và phát triển. Chính sách lãi suất và tỷ giá hối đối đã được áp dụng linh
hoạt theo cơ chế thị trường. Chính sách tín dụng được mở rộng và đổi mới theo hướng
tạo sự cơng bằng, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp và mọi đối
tượng dân cư.
Thứ tư, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho
các NHTMNN, xử lý nợ xấu (hiện tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đã giảm từ gần 20% trong
những năm 90 xuống còn khoảng 3,1%), đào tạo cán bộ và nâng cấp hệ thống trên cơ sở
cơng nghệ hiện đại, nối mạng và thanh tốn điện tử…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng được ghi nhận nêu trên, hệ thống ngân hàng
còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần được khắc phục để hội nhập được tốt, có khả năng
cạnh tranh cao trong mơi trường quốc tế.

Trong thời gian gần đây với sự xuất hiện của hàng loạt ngân hàng mới nhu
Lienvietbank, Tienphongbank đã tạo ra sự cạnh tranh cần thiết, tạo điều kiện cho khách
hàng có nhiều sự lựa chọn. Tuy nhiên, cũng chính sự ra đời ồ ạt của các ngân hàng cũng
đã tạo ra sự cạnh tranh khơng lành mạnh: hiện tượng giành giật, mua chuộc, lơi kéo
khách hàng…làm đánh mất niềm tin của khách hàng đối với các ngân hàng thương mại.

Năm 2008 vừa qua, nhà nước và chính phủ ta thực hiện biện pháp rút bớt tiền
tệ đang lưu thơng chống làm phát. Điều này làm tăng giá đồng tiền nước ta nhưng đã dẫn
dến hiện tượng lãi suất tăng cao (thời điểm cao nhất là 1,75%/tháng) gây ra khó khăn cho
các doanh nghiệp và các ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng nhỏ.

Sự thành bại của một ngân hàng là do rất nhiều ngun nhân: bộ máy quản lý,
cơ cấu tổ chức, nguồn vốn…Với phương châm “khách hàng là thượng đế” nên các ngân

Học viên: Vũ Văn Đại Trang 7
hàng thương mại ngày càng tìm mọi biện pháp để phục vụ khách hàng một cách tốt nhất
nhằm lơi kéo khách hàng ngày càng nhiều về phía mình. Bên cạnh đó, để khuếch trương
thương hiệu, các ngân hàng thương mại cũng đua nhau quảng cáo bằng các hình thức
khác nhau: quảng cáo trên các phương tiện thơng tin đại chúng, treo băng rơn…

* NHỮNG KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN VÀ PHÁT
TRIỂN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM:
Năm 2007 được coi là năm “ăn nên làm ra” của hệ thống ngân hàng thương
mại với tốc độ tăng trưởng huy động vốn ước đạt 36,5% và tăng trưởng dư nợ tín dụng
đạt 34%. Hiện có tới 40 ngân hàng thương mại cổ phần tham gia kinh doanh rất năng
động và cạnh tranh thị phần dữ dội với 4 “ơng lớn” quốc doanh là VietinBank, BIDV,
Vietcombank và Agribank. Trong số này, khơng thể khơng nhắc tới ACB, Sacombank,
VIB Bank, Techcombank, Đơng Á Nhìn vào hào quang tăng trưởng và lợi nhuận của
một số ít ngân hàng nêu trên, đã hình thành một quan niệm: kinh doanh ngân hàng ln
đem lại siêu lợi nhuận. Do vậy, khơng ít ngân hàng từ mơ hình nơng thơn được một số
doanh nghiệp lớn hậu thuẫn đã “nâng đời” lên thành thị, kết hợp với một số tập đồn kinh
tế nhà nước cũng muốn thành lập ngân hàng hình thành nên phong trào kinh doanh ngân
hàng. Do những tác nhân về chính sách tiền tệ nới lỏng như tự do hóa về lãi suất, nới
lỏng điều kiện vay vốn đã làm cho con số tăng trưởng tín dụng tăng tới mức khó tin.
Trong số đó, đáng chú ý là cho vay kinh doanh đầu tư bất động sản và chứng khốn. Mặc
dù, Ngân hàng Nhà nước đã kịp xiết cho vay khu vực này với giới hạn 3%/tổng dư nợ
(Chỉ thị 03/NHNN) và 20%/vốn điều lệ nhưng (Quyết định 03/NHNN) khơng ít ngân
hàng thương mại đã cho vay lỡ trớn trước khi ý chí của Ngân hàng Nhà nước được thực
thi. Và để giải quyết việc sai này, khơng ít ngân hàng thương mại đã thay thế một sai lầm
khác: cố gắng làm giãn nở cơ học tổng dư nợ bằng cách giải ngân vào bất động sản hay
tiêu dùng để hợp lý hóa con số “3%” nói trên. Thực sự khơng thuận lợi cho một số ngân
hàng thương mại hiện nay là trong khi q tập trung vào tăng trưởng tín dụng thì xuất
hiện những diễn biến bất lợi như giá cả leo thang, doanh nghiệp vay vốn gặp khó khăn do
chi phí tăng và đặc biệt là vấn đề lạm phát. Trong tình thế này, Chính phủ buộc phải thực

hiện chính sách thắt chặt tiền tệ và từ đây đã đẻ ra khơng ít hậu quả: lãi suất thực âm, trần
lãi suất huy động bị khống chế đến mức 12%/năm, dẫn đến nguồn tiền trên thị trường cấp
1 bị cạn, trong khi khơng ít ngân hàng đã cho vay lỡ trớn và khả năng trả nợ của doanh
nghiệp bị yếu kém. Nhiều ý kiến cho rằng, trong lúc các ngân hàng thương mại đang gặp
khó khăn về nguồn vốn khả dụng, Chính phủ và bộ ngành sẽ phải có những động thái
điều chỉnh vĩ mơ mà trước mắt là tháo dỡ “vòng kim cơ” trần lãi suất. Tuy nhiên, khơng
thể phủ nhận, các ngân hàng thương mại cũng phải chịu phần lớn trách nhiệm trong việc
giải ngân q dễ dãi. Có lẽ lối thốt của các ngân hàng yếu kém là sáp nhập hoặc bị mua
lại.
Với quy mơ Ngân hàng thương mại hiện nay, rất khó có thể đương đầu với
thách thức ngày càng lớn hơn trên thị trường. Ngân hàng nhỏ các nước trong khu vực quy
mơ vốn từ 3-5 tỷ USD, trong khi các ngân hàng nội chưa có ngân hàng nào sở hữu 1 tỷ
USD vốn điều lệ. Quy mơ tổng tài sản còn rất nhỏ, dịch vụ sản phẩm ngân hàng nghèo
nàn, năng lực cạnh tranh kém là những nét cơ bản của hệ thống ngân hàng trong nước.
Đứng trên góc độ quản lý, để các ngân hàng yếu là tiềm ẩn nguy cơ cho nền kinh tế và sự
tăng trưởng các ngành khác.
Học viên: Vũ Văn Đại Trang 8
Bức tranh kinh tế xã hội 2008 có nhiều biến động đã bộc lộ thực tại đời sống
ngân hàng từ quản lý vĩ mơ đến việc quản trị điều hành, việc thực thi chiến lược quản lý
tiền tệ cũng như các kế hoạch kinh doanh và hàng loạt các vấn đề liên quan khác. Chính
sách tiền tệ quốc gia và kinh doanh tài chính ngân hàng còn nhiều bất cập. Khi có biến cố
thị trường tất cả đều bị động chạy theo. Cơng cụ và kiểm sốt quản trị rủi ro có khơng ít
vấn đề.
Các ngân NHTM nhỏ đứng trước sóng gió đang bộc lộ ít nhiều điểm yếu về
tính thanh khoản. Và có thể nói, đây chính là điểm yếu nhất. Có nhiều ngun do khiến
tình hình như một cây yếu đứng trước gió, nhưng cốt lõi vẫn là năng lực quản trị các cấp
cần được tăng cường.
Một vấn đề nữa là các ngân hàng sở hữu quy mơ vốn nhỏ, sản phẩm dịch vụ
tài chính q mỏng và yếu, dường như chỉ khi có xáo trộn các ngân hàng mới giật mình
nhìn lại mình và thực tế cho thấy một số ngân hàng nhỏ, quản trị yếu đã rất khó khăn khi

chống đỡ và đương đầu với bão.
Khi có biến động, các ngân hàng lúng túng khơng tìm ra lối thốt vì các giao
dịch gây rủi ro kỳ hạn trên thị trường liên ngân hàng trước đó. Minh chứng là sự trở tay
khơng kịp của các ngân hàng khi lún sâu vào phục vụ các giao dịch bầy đàn cho vay
chứng khốn, bất động sản và khi những ngành kinh doanh này lâm vào khó khăn thì rủi
ro sẽ là hiển hiện với ngân hàng.
Mạng lưới ngân hàng hiện nay khá nhiều so với quy mơ dân số và doanh
nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề đáng nói là dù có rất nhiều ngân hàng và nói như một nhà quản
lý là ra ngõ gặp ngân hàng, một phường có vài chi nhánh, nhưng nhiều doanh nghiệp và
người dân có nhu cầu vốn, nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng thì vẫn khó tiếp cận
nguồn vốn.
Họ chưa thấy vai trò hỗ trợ tích cực của ngân hàng song hành và hiện diện
trong đời sống hàng ngày của họ. Mà trung bình ở các nước khác, mỗi khách hàng được
phục vụ 3-5 sản phẩm. Hiện nay 90% các doanh nghiệp nơng nghiệp, nơng thơn, nơng
dân vẫn khó tiếp cận các dịch vụ ngân hàng.
Qua một loạt vướng mắc về hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại đã bộc lộ rõ những điểm bất cập. Năng lực quản trị điều hành ở tầm vĩ mơ bất cập.
Năng lực kinh doanh còn yếu, sức đề kháng với thị trường chưa có. Tính tn thủ, một
trong những u cầu hàng đầu của các định chế tài chính chưa đầy đủ.
Chính sách và thực thi quản trị rủi ro chưa được đặt lên hàng đầu, có ngân
hàng sẵn sàng bỏ qua những quy định của pháp luật, quy chế của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN), quy định nội bộ chỉ vì mục tiêu kinh doanh trước mắt, rồi tự trói chính mình
vào các rủi ro tiềm ẩn.
Để đáp ứng u cầu của NHNN về quy mơ vốn của ngân hàng thương mại
phải có 3.000 tỷ vào năm 2010, khơng ít ngân hàng chưa lập ra kế hoạch khả thi để thực
Học viên: Vũ Văn Đại Trang 9
hiện quy định này. Một chun gia có kinh nghiệm dự đốn, sẽ chỉ có khoảng 50% số
ngân hàng hiện nay đủ sức đáp ứng u cầu quy mơ vốn 3.000 tỷ đồng vào năm 2010.
Thời gian còn rất ngắn, nhưng khơng ít ngân hàng vẫn án binh bất động.
Những cái khó của ngân hàng có thể thấy rất rõ: Trước sự sụt giảm của Thị

trường chứng khốn, cổ phiếu ngân hàng khơng còn hấp dẫn, nhiều ngân hàng ở thời
điểm khó khăn chung hiện nay cũng khơng dễ dàng phát hành trái phiếu tăng vốn với
khối lượng lớn.
Song, để tiếp tục tồn tại, các định chế tài chính buộc phải tìm giải pháp, mà
theo xu thế tất yếu, ngân hàng phải tự tìm đến với nhau. Thị trường chắc chắn hình thành
xu thế “liên kết tăng sức mạnh”, theo đó các ngân hàng nhỏ yếu phải tìm đến những đại
gia lớn hơn để hợp tác cùng có lợi.
Ngồi ra, sự tăng cường năng lực của các ngân hàng sẽ thể hiện ở các ngân
hàng nhỏ tự tìm đến nhau theo xu hướng sáp nhập, tham gia cổ phần, mua bán lại.
Sự kết hợp này trước mắt sẽ đem đến cho các ngân hàng nhỏ tấm thẻ “qua
cửa” quy định của Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, chất lượng của các cuộc bắt tay này
chưa nói đến. Với hàng loạt vấn đề như khó khăn khi “ngồi cùng mâm”, tính minh bạch
trong kinh doanh và sổ sách tài chính, quan điểm… có vẻ sẽ là những trở ngại.
Hơn nữa, hiện nay sự hỗ trợ kỹ thuật của ngân hàng nước ngồi đối với ngân
hàng nội bán cổ phần cho họ chưa đáng kể. Bằng chứng là các ngân hàng bán cổ phần
cho ngân hàng ngoại vẫn chưa thực sự có một sự “lột xác” một cách ấn tượng sau khi
chọn được đối tác chiến lược là ngân hàng ngoại. Cái được đầu tiên mới chỉ là ngân hàng
nội có thêm cơ hội làm thương hiệu.
Nhiều năm trước, những người có kinh nghiệm về lĩnh vực ngân hàng đã
tiên liệu về một cuộc chuyển biến mạnh mẽ của giới ngân hàng trong nước, theo đó, số
lượng sẽ giảm dần nhưng chất lượng sẽ dần được củng cố, tăng cường năng lực là điều
cần thiết và là xu hướng tất yếu của sự phát triển, như đã diễn ra ở các nước hàng chục
năm trước đây.
Nước ta đang trên tiến trình hội nhập mạnh mẽ nền kinh tế thế giới, đặc biệt là việc gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới, đòi hỏi mở cửa thị trường, đối xử bình đẳng, ban
hành luật lệ cơng khai minh bạch, cạnh tranh cơng bằng Các tập đồn tài chính, ngân
hàng lớn đều mong muốn được vào đầu tư tại Việt Nam.
Điều này xảy ra sẽ là cơ hội, đồng thời là thách thức đối với các ngân hàng thương mại
Việt Nam. Do vậy, hệ thống các ngân hàng thương mại phải nâng cao khả năng cạnh
tranh, kiểm sốt rủi ro, phát triển dịch vụ mới và niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng

khốn nhằm tăng nguồn vốn.
Hệ thống ngân hàng cần phát triển nhanh và bền vững thị trường vốn, trong đó mở thêm
các ngân hàng mới, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại cổ phần tăng vốn, hỗ trợ
Học viên: Vũ Văn Đại Trang 10
họ về đào tạo nguồn nhân lực và các dịch vụ khác. Riêng đối với năm ngân hàng thương
mại quốc doanh, cần khẩn trương cổ phần hóa để huy động vốn nhưng Nhà nước vẫn giữ
cổ phần chi phối.
* Giải pháp của từng hoạt động ngân hàng:
Vấn đề huy động vốn là vấn đề mà các ngân hàng thương mại đặc biệt quan tâm
bởi nó ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại. Theo một quy luật
chung nhất thì lãi suất huy động của các ngân hàng thuộc vốn sở hữu nhà nước thì thấp
hơn các ngân hàng thương mại cổ phần khác và vì vậy lãi suất cho vay của các ngân hàng
này cũng thấp hơn. Do đó, để thu hút được nguồn vốn huy động lớn thì điều kiện về lãi
suất là quan trọng nhất nhưng bên cạnh đó cũng phải kể đến các yếu tố khác như: dịch vụ
hậu mãi, niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng, thái độ phục vụ…
Bên cạnh tầm quan trọng của việc huy động vốn thì vấn đề cho vay cũng đóng vai
trò song hành bởi nếu huy động nhiều mà khơng cho vay được thì ngân hàng sẽ bị thiệt
hại do việc phải trả lãi cho khỏan huy động đó. Qua tìm hiểu, hầu hết các chi nhánh ngân
hàng thương mại hiện nay nếu huy động nhiều mà khơng sử dụng hết thì sẽ chuyển về hội
sở chính để phân bổ cho các chi nhánh khác hoặc dùng để cho vay liên ngân hàng.
Theo xu hướng chung ở các nước phát triển thì nguồn thu chính của các ngân
hàng là từ mảng dịch vụ trong khi đó tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt động cho vay chiếm tỷ lệ
nhỏ. Điều này là trái ngược với tình hình ở Việt Nam hiện nay vì ở nước ta hiện nay, lợi
nhuận của các ngân hàng thương mại là từ hoạt động tín dụng. Do đó, các ngân hàng
thương mại cần phải mở rộng hơn nữa về các họat động dịch vụ.
Dịch vụ tư vấn của ngân hàng chỉ được thực hiện tốt ở các ngân hàng nước ngồi
còn đối với các ngân hàng trong nước thì chưa được quan tâm, bởi để thực hiện tốt dịch
vụ tư vấn cho khách hàng thì đòi hỏi đội ngũ nhân viên ngân hàng phải có kiến thức vững
vàng về lĩnh vực mà mìnhn cần tư vấn. Tóm lại, tùy theo những thế mạnh khác nhau mà
mỗi ngân hàng ưu tiên mở rộng những hoạt động nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất cho

ngân hàng.

×