Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TỪ 2006 ĐẾN 2008 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.72 KB, 20 trang )








HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM TỪ
2006 ĐẾN 2008
Trang: 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC
= = 0 = =







HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TỪ 2006 ĐẾN 2008












Học viên thực hiện: Nguyễn Quốc Cường
Lớp : Ngân hàng 4 Ngày 1
Khóa : Cao học K17

Trang: 2
Mục Lục
Trang
Lời mở đầu 3
1. Lý thuyết chung về hệ thống ngân hàng thương mại 4
1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại 4
1.2. Vai trò của Ngân hàng thương mại 4
1.3. Chức năng của ngân hàng thương mại 6
1.4. Các hoạt động của Ngân hàng thương mại 7
2. Thực trạng về hoạt động của hệ thống NHTM VN 13
2.1. Những ưu và nhược điểm trong hoạt động của hệ thống NHTM VN13
2.1.1. Ưu điểm 13
2.1.2. Nhược điểm 13
2.2. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của hệ thống NHTM VN 14
2.2.1. Nguyên nhân khách quan 14
2.2.2. Nguyên nhân chủ quan 15
3. Những kiến nghị và giải pháp để hoàn thiện và phát triển hệ thống
NHTM VN 16
3.1. Kiến nghị về phía chính phủ 16
3.2. Kiến nghị vế phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 16
3.3. Kiến nghị từ nội bộ các ngân hàng thương mại 17

Kết luận 19
Tài liệu tham khảo 19


Trang: 3
LỜI MỞ ĐẦU

Ngân hàng Thương mại là một định chế tài chính trung gian, là cầu nối trong việc
huy động và cung cấp vốn cho nền kinh tế, là công cụ để Nhà nước thực hiện việc điều
hành các chính sách vĩ mô. Do đó hệ thống ngân hàng thương mại đóng một vai trò vô
cùng quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế của một quốc gia.
Hệ thống ngân hàng là huyết mạch của một nền kinh tế. Huyết mạch có thông, ổn
định thì kinh tế mới mạnh. Nền tảng ổn định vững mạnh của hệ thống ngân hàng là lòng
tin của người ký thác tiền gửi đối với ngân hàng: họ nhận được lãi suất theo thỏa thuận và
không phải chịu rủi ro cho đồng tiền mà họ đã ký thác, tức là sẽ nhận lại được đầy đủ số
tiền đã gửi cộng với lãi suất đã định
Ở Việt Nam, từ khi chuyển sang mô hình Ngân hàng 02 cấp hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam đã có những đóng góp rất quan trọng trong việc huy động và cung
ứng vốn cho nền kinh tế, đồng thời cũng là công cụ để Ngân hàng Nhà nước thông qua
đó thực hiện các chính sách vĩ mô của mình. Tuy nhiên để biết rõ hơn hiệu quả hoạt động
của Hệ thống Ngân hàng thương Mại Việt Nam trong thời gian qua (2006-2008) như thế
nào, chúng ta tìm hiệu thực trạng hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam để từ đó đưa
ra giải pháp khắc phục.
















Trang: 4
1. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
NHTM là một định chế tài chính mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu là nhận
tiền gửi và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương
tiện thanh toán.
1.2 Vai trò của NHTM
1.2.1 NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp cá nhân, tổ chức kinh tế muốn sản
xuất, kinh doanh thì cần phải có vốn để đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất, phương tiện để
sản xuất kinh doanh…mà nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, cá nhân luôn luôn lớn hơn
vốn tự có do đó cần phải tìm đến những nguồn vốn từ bên ngoài. Mặt khác lại có một
lượng vốn nhàn rỗi do quá trình tiết kiệm, tích luỹ của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức
khác NHTM là chủ thể đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đó và sử
dụng nguồn vốn huy động được cấp vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng.
NHTM trở thành chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Nhờ có hoạt động
ngân hàng và đặc biệt là hoạt động tín dụng các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản
xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế,
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.2.2 NHTM là cầu nối doanh nghiệp và thị trường.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chụi sự
tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy

luật cạnh tranh và sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường, thoả mãn nhu cầu
thị trường về mọi phương diện không chỉ: giá cả, khối lượng, chất lượng mà còn đòi hỏi
thoả mãn trên phương diện thời gian, địa điểm. Để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của
thị trường doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và
hoàn thiện cơ cấu kinh tế, chế độ hạch toán kinh tế mà còn phải không ngừng cải tiến
máy móc thiết bị, đưa công nghệ mới vào sản xuất, tìm tòi và sử dụng nguyên vật liệu
mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi phải có
một lượng vốn đầu tư lớn, nhiều khi vượt quá khả năng của doanh nghiệp. Do đó để giải
quyết khó khăn này doanh nghiệp đến ngân hàng để xin vay vốn để thoả mãn nhu cầu
đầu tư của mình.Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho doanh nghiệp ngân hàng là cầu
nối doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung cấp cho doanh
nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng về mọi mặt của quá
Trang: 5
trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường và từ đó tạo cho doanh nghiệp
chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh .
1.2.3 NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Hệ thống NHTM hoạt động có hiệu quả sẽ thực sự là công cụ để nhà nước điều
tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua hoạt dộng thanh toán giữa các ngân hàng trong hệ thống, NHTM đã góp phần
mở rộng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho nền
kinh tế NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các nguồn tiền, tập hợp và phân phối vốn trên
thị trường, điều khiển chúng một cách hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ
mô. Cùng với các cơ quan khác, Ngân hàng luôn được sử dụng như một công cụ quan
trọng để nhà nước điều chỉnh sự phát triển của nền kinh tế.
Khi nhà nước muốn phát triển một nghành hay một vùng kinh tế nào đó thì cùng
với việc sử dụng các công cụ khác để khuyến khích thì các NHTM luôn được sử dụng
bằng cách NHNN yêu cầu các NHTM thực hiện chính sách ưu đãi trong đầu tư, sử dụng
vốn như : giảm lãi suất, kéo dài thời hạn vay, giảm điều kiện vay vốn hoặc qua hệ thống
NHTM Nhà nước cấp vốn ưu đãi cho các lĩnh vực nhất định.Khi nền kinh tế tăng trưởng
quá mức nhà nước thông qua NHTƯ thực hiện chính sách tiền tệ như: tăng tỷ lệ dự trữ

bắt buộc để giảm khả năng tạo tiền từ đó giảm khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế để
nền kinh tế phát triển ổn định vững chắc.
Việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống NHTM thườmg đạt hiệu quả
trong thời gian ngắn nên thường được nhà nước sử dụng .
1.2.4 NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia và nền tài chính quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường ,khi các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày càng
được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các quốc gia trên thế giới ngày
càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phất triển kinh tế ở các quốc gia luôn gắn liền
với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển
đó.Vì vậy jnền tài chính của mỗi quốc gia cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế
và NHTM với các hoạt động của mình đã đóng góp vai trò vô cùng quan trọng trong sự
hoà nhập này. Với các nghiệp vụ như thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ
khác NHTM tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển. Thông qua hoạt
động thanh toán, kinh doanh ngoại hối quan hệ tín dụng với các NHTM nước ngoài
NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động
của nền tài chính quốc tế .
Trang: 6
NHTM ra đời và ngày càng phát triển dựa trên cơ sở nền sản xuất lưu thông hàng
hoá phát triển và nền kinh tế càng phát triển càng cần đến sự hoạt động của NHTM. Với
vai trò quan trọng của mình NHTM trở thanh một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân.
1.3 Chức năng của NHTNM
1.3.1 Chức năng trung gian tài chính
Đây là chức năng quan trọng nhất của NHTM .NHTM nhận tiền gửi và cho vay
chính là đẫ thực hiện việc chuyển tiền tiết kiệm thành tiền đầu tư.
Những chủ thể dư thừa vốn cũng có thể trực tiếp đầu tư bằng cách mua các công
cụ tài chính sơ cấp như: cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp hoặc chính phủ thông qua
thị trường tài chính. Nhưng thị trường tài chính trực tiếp đôi khi không đem lại hiệu quả
cao nhất cho người đầu tư vì: khó tìm kiếm thông tin, chi phí tìm kiếm thông tin lớn, chất
lượng thông tin không cao, chi phí giao dịch lớn và phải có sự trùng khớp về nhu cầu

giữa người thừa vốn và người thiếu vốn về số lượng, thời hạn chính vì thế NHTM với
tư cách là một trung gian tài chính đứng ra nhận tiền gửi tiết kiệm và cung cấp vốn cho
nền kinh tế với số lượng và thời hạn phong phú và đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu về vốn
của khách hàng có đủ điều kiện vay vốn. Với mạng lưới giao dịch rộng khắp, các dịch vụ
đa dạng, cung cấp thông tin nhiều chiều, hoạt động ngày càng phong phú chuyên môn
hoá vào từng lĩnh vực NHTM đã thực sự giải quyết được những hạn chế của thị trường
tài chính trực tiếp, góp phần nâng cao hiệu quả luân chuyển vốn trong nền kinh tế thị
trường.
1.3.2 Chức năng tạo tiền
Chức năng tạo tiền là chức năng cực kỳ quan trọng của NHTM. Chức năng này
được thể hiện trong quá trình NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động đầu tư
của NHTM, trong mối quan hệ với NHTƯ đặc biệt trong quá trình thực hiện chính sách
tiền tệ mà mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền. Từ một lượng tiền
cơ sở do NHTƯ phát hành qua hệ thốngNHTM sẽ được tăng lên gấp bội khi NHTM cấp
tín dụng cho nền kinh tế. Khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng được tính theo công
thức :
D=m.MB
D: khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng
MB: khối lượng tiền cơ sở
M=1/rd: hệ số nhân tiền
Trang: 7
rd : tỷ lệ dự trữ bắt buộc
NHTƯ có thể điều tiết khối lượng tiền cung ứng bằng cách thay đổi lượng tiền tỷ lệ dự
trữ bắt buộc để tăng hoặc giảm khả năng tạo tiền của NHTM từ đó ảnh hưởng đến khả
năng cấp tín dụng cho nền kinh tế do đó đạt được hiệu quả mà mục tiêu chính sách tiền tệ
đặt ra .
1.3.3 Chức năng cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán
Thông qua chức năng làm trung gian tài chính NHTM làm tăng lượng tiền trong
lưu thông và cung cấp cho những người đầu tư những chứng khoán có tính lỏng cao hơn
và có rủi ro thấp hơn do đó sẽ an toàn hơn khi nhà đầu tư nắm giữ những chứng khoán sơ

cấp do doanh nghiệp, công ty phát hành.
Các NHTM còn cung cấp một danh mục phương tiện thanh toán rất đa dạng và
phong phú : sec chuyển tiền, sec chuyển khoản, thẻ tín dụng sự xuất hiện của các
phương tiện thanh toán này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng giao dịch thương
mại, mua bán hàng hoá an toàn nhanh chóng, chi phí thấp.
1.3.4 NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính
Ngoài các dịch vụ truyền thống là huy động và cho vay, NHTM ngày nay còn
cung cấp một danh mục dịch vụ khá đa dạng và phong phú: dịch vụ thanh toán, dịch vụ
môi giới, bảo lãnh tư vấn bảo hiểm
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các loại dịch vụ ngân hàng cũng
phát triển và mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng. chưa bao giờ các dịch vụ tài chính
ngân hàng lại phát triển như bây giờ, tỷ trọng thu nhập từ thu phí dịch vụ ở các ngân hàng
hiện đại có thể chiếm tới 40-50% tổng thu nhập của ngân hàng. Đồng thời việc phát triển
các dịch vụ này cũng làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng chu chuyển vốn trong nền kinh
tế, làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông do đó tiết kiệm được chi phí in ấn kiểm đếm
tiền.
Ngày nay trong điều kiện cạnh tranh rất khốc liệt giữa các ngân hàng việc đưa ra
các dịch vụ mới làm tăng tiện ích cho khách hàng là một yếu tố để cạnh tranh.Chính vì
vậy mà các Ngân hàng ngày nay rất tích cực đầu tư trang bị cơ sở vật chất, áp dụng công
nghệ tin học, khoa học kỹ thuật vào hoạt động của mình. Nếu các NHTM có thể đáp ứng
tốt nhu cầu của khách hàng về dịch vụ, tạo được uy tín với khách hàng thì đây cũng là
một biện pháp, yếu tố để tăng khả năng huy động vốn.
1.4. Các hoạt động của Ngân hàng Thương mại
1.4.1. Hoạt động huy động vốn:
Trang: 8
Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ
chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.

- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức tín
dụng nước ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
1.4.2. Hoạt động cấp tín dụng:
Ngân hàng Thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho
vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các
hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước như bao thanh toán tài trợ nhập
khẩu, tài trợ xuất khẩu, cho vay thấu chi, và cho vay theo hạn mức tín dụng, và hạn mức
tín dụng dự phòng, … Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng
và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
1.4.2.1. Cho vay.
Ngân hàng Thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau:
- Cho vay ngắn hạn nhắm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời
sống.
- Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và đời sống.
1.4.2.2. Bảo lãnh.
Ngân hàng Thương mại được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp
đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh Ngân hàng khác bằng uy tín và bằng
khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một
khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một Ngân hàng Thương mại không được vượt quá
tỷ lệ so với vốn tự có của Ngân hàng Thương mại.
1.4.2.3. Chiết khấu.
Ngân hàng Thương mại được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có
giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
1.4.2.4. Cho thuê tài chính.
Trang: 9
Ngân hàng Thương mại được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phái thành lập công ty

cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài
chính thực hiện thao Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho
thuê tài chính.
1.4.2.5. Bao thanh toán.
Các Ngân hàng Thương mại triển khai thực hiện bao thanh toán như là một hình thức cấp
tín dụng cho khách hàng doanh nghiệp như: bao thanh toán truy đòi ( recourse factoring),
bao thanh toán miễn truy đòi (non – recourse factoring), bao thanh toán ứng trước hay
bao thanh toán chiết khấu, bao thành toán khi đáo hạn trong phạm vi buôn bán nội địa lẫn
quốc tế.
1.4.2.6. Tài trợ nhập khẩu.
Hiện nay, khá nhiều Ngân hàng Thương mại cung cấp tài trợ xuất nhập khẩu bao trọn gói
để hỗ trợ doanh nghiệp
Nghiệp vụ tài trợ nhập khẩu nhằm hỗ trợ về tài chính cùng các phương tiện và giấy tờ
liên quan để doanh nghiệp nhập khẩu có thể thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng
mua bán hàng hóa, bao gồm:
- Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu.
- Cho vay ứng trước một phần để thanh toán với người bán hay ứng trước tiền thuế nhập
khẩu.
- Bảo lãnh và tái bảo lãnh việc thanh toán hối phiếu khi đến hạn.
- Chấp nhận hối phiếu.
- Cho thuê kho bãi để chứa và bảo quản an toàn hàng hóa nhập khẩu với giá cho thuê
phải chăng (nhờ lợi thế về quy mô số lượng khách hàng của Ngân hàng) tại các địa điểm
hay các địa phương khác nhau.
- Giúp khai báo thuế (thí dụ, lập tờ khai và áp mã vạch thuế chính xác nhanh chóng, nhận
lại tiền hoàn thuế nếu nộp dư do cơ quan thuế tạm tính thuế phải nộp, …).
- Cho vay để thanh toán tiền hàng nhập khẩu cho nhà xuất khẩu nếu đến hạn mà nhập
khẩu chưa có tiền.
- Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng thương mại, mua bảo
hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyển giao hàng hóa, theo dõi và kiểm tra hóa
đơn chứng từ và hàng hóa cả về số lượng, quy cách và chất lượng.

- Các hỗ trợ khác do sự bất cập về tập quán, luật pháp, …
1.4.2.7. Tài trợ xuất khẩu.
Trang: 10
Các hình thức tài trợ xuất khẩu của các Ngân hàng Thương mại còn phong phú hơn do
các doanh nghiệp xuất khẩu thường nhận được tài trợ từ các Ngân hàng Thương mại về
các giao dịch kinh doanh cả trước và sau các thương vụ xuất khẩu, bao gồm:
- Cho vay thu mua hàng xuất khẩu, mua nguyên vật liệu để sản xuất, cho vay đầu tư nâng
cao năng suất, chất lượng sản phẩm dịch vụ, cho vay bảo trì đối với các dự án chiến lược
về máy móc thiết bị, nhà xưởng ở nước ngoài.
- Cho vay nộp thuế xuất khẩu.
- Giúp khai báo thuế (thí dụ lập tờ khai và áp mã vạch thuế chính xác, nhanh chóng, nhận
lại tiền hoàn thuế nêu nộp dư do cơ quan thuế tạm tính thuế phải nộp, khấu trừ thuế
GTGT, …).
- Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng thương mại, mua bảo
hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyền giao hàng hóa, theo dõi kiểm tra hóa đơn
chứng từ và hàng hóa cả về số lượng, quy cách và chất lượng.
- Các hỗ trợ cần thiết khác do sự khác biệt về tập quán, luật pháp, …
- Cho thuê kho bãi để chứa và đóng gói hàng hóa xuất khẩu với giá cả phải chăng (do lợi
thế về quy mô số lượng).
- Cho vay hỗ trợ dịch vụ vận chuyển chuyển giao hàng hóa.
- Chiết khấu hối phiếu cho nhà xuất khẩu được nhận tiền sớm.
- Chiết khấu chứng từ thanh toán theo hình thức tín dụng chứng từ.
- Giúp quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, thu nợ các khoản phải thu, bảo đảm rủi ro
không thanh toán của bên mua hàng, xếp hạng hạn mức tín dụng và thu hộ.
- Cho vay trên cơ sở bộ chứng từ thanh toán theo phương thức nhờ thu (ứng trước tiền
hàng xuất khẩu).
- Thuận nhận Ngân hàng (Ngân hàng chấp nhận thanh toán bằng cách ký chấp nhận hối
phiếu do doanh nghiệp ký phát).
1.4.2.8. Cho vay thấu chi.
Nhiều Ngân hàng Thương mại, đặc biệt là các chi nhánh Ngân hàng Thương mại nước

ngoài, đang mở rộng nghiệp vụ thấu chi đến các khách có mở tài khoản tại Ngân hàng
của họ. khi sử dụng dịch vụ này, mỗi khách hàng được cấp một hạn mức thấu chi khi
khách hàng tạm thời thiếu hụt trong thanh toán. Khách hàng không cần phải thế chấp hay
tín chấp.
1.4.2.9. Cho vay theo hạn mức tín dụng và hạn mức tín dụng dự phòng.
1.4.2.9.1. Cho vay theo hạn mức tín dụng.
Trang: 11
Khách hàng nộp một bộ hồ sơ vay vốn duy nhất cho một hay nhiều món vay vào đầu quý,
Ngân hàng Thương mại cấp một hạn mức tín dụng là mức dự nợ vay tối đa được duy trì
trong một thời gian nhất định mà khách hàng và ngân hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng
tín dụng.
1.4.2.9.2. Cho vay theo hạn tín dụng dự phòng.
Ngân hàng Thương mại cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất
định ngoài hạn mức tín dụng đã được ký ban đầu giữa Ngân hàng và khách hàng, áp dụng
hạn mức tín dụng dự phòng khi khách hàng không có đủ vốn vì mức vốn đầu tư cho dự
án tăng them, nhu cầu tiêu dung, mua sắm tăng thêm, …
1.4.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ.
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua Ngân hàng,
ngân hàng thương mại được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước. Để thực
hiện thanh toán giữa các Ngân hàng với nhau thong qua Ngân hàng Nhà nước, Ngân
hàng Thương mại phải mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước nơi Ngân hàng thương mại
đặt trụ sở chình và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định. Ngoài ra,
chi nhánh của Ngân hàng Thương mại được mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh Ngân
hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh
toán và Ngân quỹ của của Ngân hàng Thương mại bao gồm các hoạt động sau:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.

- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên Ngân hàng
trong nước.
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
1.4.4. Các hoạt động khác.
Ngoài các hoạt động truyền thống bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng và cung cấp
dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, ngân hàng thương mại còn có thể thực hiện một số hoạt
động khác, bao gồm:
1.4.4.1. Góp vốn và mua cổ phẩn.
Trang: 12
Ngân hàng thương mại được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phẩn
của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo quy định của pháp
luật. Ngoài ra, Ngân hàng thương mại còn được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với
Ngân hàng nước ngoài để thành lập Ngân hàng liên doanh.
1.4.4.2. Tham gia thị trường tiền tệ.
Ngân hàng thương mại được tham gia thị trường tiền tệ, theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước, thong qua các hình thức mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ.
1.4.4.3. kinh doanh ngoại hối.
Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc
để kinh daonh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường Quốc tế.
1.4.4.4. Ủy thác và nhận ủy thác.
Ngân hàng Thương mại được nhận ủy thác, nhận ủy thác làm đại lý trong các lĩnh vực
liên quan đến hoạt động Ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng ủy thác, đại lý.
1.4.4.5. Cung ứng dịch vụ bảo hiểm
Ngân hàng Thương mại được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, được thành lập công ty trực
thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
1.4.4.6. Tư vấn tài chính.
Ngân hàng Thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách
hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc ngân hàng.

1.4.4.7. Bảo quản vật quý giá.
Ngân hàng Thương mại được thực hiện các dịch vụ bảo quản vật quý, giấy tờ có giá, cho
thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có liên quan theo quy định của pháp luật.

Trang: 13
2. THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM(TỪ 2006-2008)
2.1. Những ưu và nhược điểm về hoạt động của Hệ thống Ngân hàng Thương mại
Việt Nam trong thời gian qua.
2.1.1: Ưu điểm về hoạt động của Hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam.
- Trong 02 năm qua hoạt động của các NHTM Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và sôi
động, đã đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế góp phần vào tăng trưởng kinh tế của
quốc gia.
- Các Ngân hàng thương mại trong nước đã tăng qui mô về vốn chủ sở hữu, tăng cường
mở rộng mạng lưới bán lẻ, hiện đại hóa công nghệ nhằm đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ
ngân hàng.
- Việc phân loại nợ, trích lập dự phòng đã được thực hiện nghiêm theo quyết định 493
của Ngân hàng Nhà nước về phân loại và trích dự phòng rủi ro, thực hiện cơ chế giám sát
chặt chẽ nợ quá hạn, nợ xấu nhờ vậy tỷ lệ nợ quá hạn trong hệ thống Ngân hàng thương
mại có chiều hướng giảm dần.
- Tỷ suất lợi nhuận trong hệ thống ngân hàng thương mại trong thời gian qua tăng lên mà
đặc biệt là năm 2007 lợi nhuận của các Ngân hàng đều đạt tỷ lệ cao.
2.1.2. Nhược điểm của Hệ thống Ngân hàng Thương mại.
Trong một hai năm trở lại đây, hoạt động kinh doanh tiền tệ - ngân hàng của Việt Nam
phát triển mạnh mẽ. Tính hấp dẫn của kinh doanh tiền tệ - ngân hàng được đánh giá là
cao hơn so với các ngành kinh tế khác. Lợi nhuận trên vốn tự có của nhiều ngân hàng đạt
9-10%, cao hơn nhiều so với mức 1-2% của ngành công nghiệp. Tuy nhiên hoạt động của
Hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam trong 02 năm qua cũng còn rất nhiều hạn
chế:
- Rủi ro từ nội lực và môi trường kinh doanh.

Thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nằm ở nội lực
của chính các ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ công
nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực. Mặc dù vốn điều lệ của các ngân
hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức
vốn tự có trung bình của một ngân hàng thương mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng
mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại Nhà nước chỉ tương đương với một ngân
hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm
đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng.
Trang: 14
Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các ngân hàng thương mại Việt
Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và thông lệ
quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó
với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá.
Theo PGS.TS Lê Hoàng Nga, Học viện Ngân hàng, nếu trích lập đầy đủ những
khoản nợ khoanh và nợ khó đòi thì vốn tự có của nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam,
nhất là ngân hàng thương mại Nhà nước, ở tình trạng âm.
- Điểm hạn chế thứ hai của các ngân hàng trong nước là hệ thống dịch vụ ngân hàng
trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng
và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới
dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu
của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập.
- Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó đáng chú ý là
các tổ chức tín dụng nhà nước.
Tuy nhiên, lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm
gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân
hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến tình trạng mất vốn
ngày càng lớn.
- Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài chính còn mất
cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế
chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho

vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. Việc sử
dụng vốn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá
lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống.
Đồng thời việc cho vay hiện nay của các Ngân hàng Thương Mại chiếm tỷ trọng từ 70%
đến 90% trong tổng tài sản có của các Ngân hàng gây nên nguy cơ rủi ro về thanh khoản
rất cao.
- Ngoài các rủi ro về tín dụng và thanh khoản trong thời gian qua hệ thống ngân hàng
thương mại Việt nam còn gặp hàng loạt các rủi do tác nghiệp, rủi ro về đạo đức của cán
bộ ngân hàng.
2.2. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của hoạt động Ngân hàng Thương mại
Việt Nam trong 02 năm qua (2006-2008).
2.2.1. Nguyên nhân khách quan:
Trang: 15
- Do năng lực tài chính của các Ngân hàng thương mại còn yếu
- Công nghệ Ngân hàng còn lạc hậu
- Trình độ quản trị của cán bộ quản trị, điều hành còn thấp.
2.2.2. Nguyên nhân chủ quan:
- Chưa đa dạng các hình thức huy động vốn, chủ yếu tập trung huy động vốn ngắn hạn.
- Chưa có hệ thống quản lý, giám sát nội bộ hiệu quả. Do mải mê chạy theo lợi nhuận nên
thờ ơ với hàng loạt các rủi ro như: rủi ro về tín dụng , rủi ro về thanh khoản, rủi ro tác
nghiệp,…
Rủi ro dễ nhận biết đầu tiên là rủi ro tác nghiệp. Chẳng hạn: thông tin sai sự thật về
khách hàng, về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh, tính thanh khoản, quản trị điều
hành của doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp; cán bộ ngân hàng thông đồng với khách
hàng lập hồ sơ khống để vay vốn; cán bộ ngân hàng nâng giá trị tài sản đảm bảo để cho
vay mục đích nhận “thù lao”; cán bộ ngân hàng quản lý khách hàng vay vốn trực tiếp thu
nợ gốc và lãi vay ngân hàng nhưng chỉ nộp lãi vào ngân hàng, nợ gốc giữ lại chi tiêu cá
nhân. Ví dụ: trường hợp nhân viên điểm giao dịch Đông Ngạc (Từ Liêm, Hà Nội) của
một ngân hàng quốc doanh đã giả mạo chữ ký khách hàng để “thụt két” tới 24 tỷ đồng,
vụ tổ trưởng tổ kế toán một ngân hàng thương mại cổ phần biển thủ 7 tỷ đồng cá độ bóng

đá, rồi một trường hợp khác là cán bộ kho quỹ một ngân hàng cổ phần rút ruột 1,28 tỷ
đồng và 8 nghìn USD trái phiếu là tài sản cầm cố của khách hàng để chơi chứng khoán
Một trường hợp khác tại một ngân hàng thương mại cổ phần: thanh toán viên chọn nhầm
loại tiền từ VND thành AUD, dẫn tới khách hàng chuyển 4 triệu VND lại hạch toán thành
4 triệu AUD (tương đương 48,5 tỷ VND)
- Tỷ lệ nợ xấu mặc dù đã được cải thiện song vẫn ở mức cao và đang có xu hướng
tăng lên. Sở dĩ có tình trạng này là do các nguyên nhân:
+ Một là, việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất động
sản và thị trường hàng hoá chưa phát triển và có nhiều biến động phức tạp.
+ Hai là, do sức ép cạnh tranh và cơ chế khoán trong kinh doanh dẫn tới nhiều trường
hợp nới lỏng điều kiện vay vốn để giành giật khách hàng, cho vay không đáp ứng đầy
đủ các điều kiện vay vốn. Công tác thẩm định dự án đầu tư cho vay không tốt, qua loa
và có nhiều trường hợp có hành vi gian lận, móc ngoặc.
+ Ba là, nhiều nợ xấu phát sinh do việc chậm cấp ngân sách Nhà nước để giải ngân
cho các dự án, đặc biệt là các dự án xây dựng cơ bản dẫn tới nợ đọng vốn của ngân
hàng.
Trang: 16
+ Bốn là, tình trạng các ngân hàng Việt Nam đầu tư tập trung quá nhiều vào các
DNNN mà phần lớn các doanh nghiệp này đều có thứ bậc xếp hạng tài chính thấp
thuộc các ngành có khả năng cạnh tranh yếu. Đây là nguy cơ rủi ro rất lớn đối với các
NHTM nói chung và các NHTM nhà nước nói riêng.

3. NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN, PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
3.1 Giải pháp từ phía Chính phủ:
Thứ nhất, cải cách DNNN, tạo sân chơi bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp.
Việc bảo hộ cho khu vực DNNN là nguyên nhân chính khiến mức nợ khó đòi, nợ quá hạn
tại các NHTM nhà nước cao. Vì vậy, nếu không kiên quyết đẩy mạnh tiến trình cải cách
DNNN thì việc cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và các NHTM nói
riêng là khó thực hiện.

Thứ hai, nâng cấp và bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nhanh chóng
ban hành Luật Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, đưa luật này trở thành công cụ để
Chính phủ kiểm soát cạnh tranh.
Thứ ba, thống nhất quan điểm, xác định rõ và cụ thể về lộ trình mở cửa tài chính.
Tự do hoá tài chính phải được thực hiện sau cùng, sau khi đã thực hiện cải cách cơ cấu
(trong đó có cải cách tài chính bên trong) và tự do hoá thương mại. Việc có được lộ trình
hội nhập tài chính thích hợp sẽ đảm bảo hệ thống tài chính hội nhập hiệu quả, tăng năng
lực cạnh tranh mà không bị vướng vào các dạng khủng hoảng tài chính - ngân hàng khác
nhau.
Thứ tư, khẩn trương hoàn thiện hoạt động của thị trường tiền tệ và hoàn thiện
hoạt động của thị trường chứng khoán, xác định cụ thể lộ trình mở cửa thị trường tài
chính - ngân hàng.
3.2. Giải pháp về phía Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Thứ nhất, năng cao năng lực quản lý điều hành. Từng bước đổi mới cơ cấu tổ
chức, quy định lại chức năng nhiệm vụ của ngân hàng nhà nước nhằm năng cao hiệu quả
điều hành vĩ mô, nhất là trong việc thiết lập, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia và
trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các trung gian tài chính.
Thứ hai, phối hợp cùng Bộ Tài chính tham gia xây dựng và phát triển đa dạng thị
trường vốn, tạo điều kiện san sẻ bớt gánh nặng cung cấp vốn hiện nay mà các NHTM
đang phải gánh vác.
Trang: 17
Thứ ba, NHNN cần nhanh chóng xin phép Chính phủ để đẩy nhanh thực hiện cổ
phần hóa các NHTM nhà nước, tạo điều kiện cho các ngân hàng này hoạt động an toàn và
hiệu quả hơn.
3.3. Giải pháp trong nội bộ các ngân hàng thương mại:
- Nâng cao năng lực tài chính
Năng lực tài chính của các NHTM nước ta nhìn chung là kém, tất cả các chỉ số
đều còn là thấp so với các nước trong khu vực. Do đó, để nâng cao năng lực tài chính,
các ngân hàng nên thực hiện một số biện pháp như: Khẩn trương tăng vốn điều lệ và xử
lý dứt điểm nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao khả năng cạnh

tranh và chống rủi ro.
Đối với các NHTM nhà nước, cần áp dụng các biện pháp thực tế như phát hành
cổ phiếu ở mức cần thiết hoặc bán tài sản và thuê lại để bổ sung vốn điều lệ nhằm đạt
được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, xử lý hết nợ tồn đọng.
Đối với các NHTM cổ phần, cần tăng vốn điều lệ thông qua sáp nhập, hợp nhất,
phát hành bổ sung cổ phiếu; đối với những NHTM hoạt động quá yếu kém, không thể
tăng vốn điều lệ và không khắc phục được những yếu kém về tài chính thì có thể thu hồi
giấy phép hoạt động.
- Hiện đại hoá công nghệ, chú trọng hoạt động Marketing, đa dạng hoá và nâng
cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ kỹ thuật tiên
tiến.
Công nghệ ngân hàng nước ta dù được chú trọng trong thời gian qua nhưng vẫn
bị đánh giá là yếu kém. Hiện nay, nhiều ngân hàng đã triển khai các phần mềm hiện đại
với chức năng hoạt động trực tuyến (Online), tạo thêm nhiều sản phẩm gia tăng cho
khách hàng trong quá trình giao dịch với ngân hàng. Nhìn chung, các phần mềm mà một
số NHTM đang ứng dụng đều là những phần mềm thế hệ mới được nhiều ngân hàng trên
thế giới đang sử dụng. Tuy nhiên, công tác triển khai chậm và khi triển khai xong, một số
bộ phận lại chưa tạo được một cơ chế nhằm khai thác hiệu quả công nghệ đó.
Song song với việc hiện đại hoá công nghệ, các NHTM cần có chính sách khai
thác công nghệ hiệu quả thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm sản phẩm
dựa trên công nghệ cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, tạo ra
sự đa dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cường bán chéo (Cross - selling) cho khách
hàng. Đồng thời, việc phát triển đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân tán
và hạn chế bớt rủi ro trong quá trình hoạt động.
Trang: 18
Ngoài ra, các NHTM cần cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục vay vốn nhằm tạo
thuận lợi cho khách hàng.
- Xây dựng chiến lược khách hàng và phát triển mạng lưới
Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn
bó với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả khách

hàng. Cần đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao dịch
ngân hàng. Đối với những khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng phải hết
sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng với hoạt động của khách hàng, thẩm định và
đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả rõ ràng.
Ngoài ra, các đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau nên
việc tạo ra sự khác biệt là hết sức quan trọng. Về chiến lược thu hút tiền gửi, cần xây
dựng một hệ thống thanh toán điện tử rộng khắp nhằm tạo cho dân chúng thói quen sử
dụng tài khoản ngân hàng. Đồng thời, những thủ tục rắc rối cần được cắt giảm để tạo
thuận lợi tối đa cho khách hàng.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh tín dụng cần tạo được quy trình cung cấp linh hoạt
sản phẩm của ngân hàng, đặc biệt đối với khách hàng tiềm năng có thể đưa ra điều kiện
cho vay và lãi suất ưu đãi hơn theo thoả thuận giữa hai bên.
- Nâng cao năng lực quản trị điều hành
Cần cải cách bộ máy quản lý điều hành theo tư duy kinh doanh mới. Đồng thời,
xây dựng chuẩn hoá và văn bản hoá toàn bộ quy trình nghiệp vụ của các hoạt động chủ
yếu của NHTM, thực hiện cải cách hành chính doanh nghiệp.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng.
Cần đào tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại.
Hơn nữa, cần tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất là những
cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng quốc tế, cán bộ thanh
tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế, cán bộ sử dụng và
vận hành công nghệ mới.






Trang: 19
KẾT LUẬN


Mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế, nhưng hệ thống Ngân hàng thương mại Việt nam trong
thời gian qua, đặc biệt là từ năm 2006 đến 2008 đã đóng góp rất tích cực góp phần tăng
trưởng kinh tế của cả nước, đồng thời hỗ trợ mạnh mẽ cho Ngân hàng Nhà nước thực
hiện chính sách thắt chặt tiền tệ chống lạm phát trong năm 2008 của Chính phủ. Và cũng
trong thời gian này các Ngân hàng thương mại Việt nam đã tích cực cải thiện năng lực tài
chính, hiện đại hóa công nghệ, tăng cường phát triển sản phẩm, mạng lưới để đưa dịch vụ
ngân hàng đến từng nhà, chuẩn bị sẵn sàng cho việc cạnh tranh với các ngân hàng quốc tế
trên sân nhà theo lộ trình mở cửa thị trường tài chính của Việt nam khi cam kết gia nhập
WTO.




Tài liệu tham khảo:
- Sách Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại của TS. Nguyễn Minh Kiều
- Tạp chí Ngân hàng
- Các trang Web: www.economy.com; trang diện tử Đảng cộng sản, vietnamnet,…

×