Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

HOA KỲ HỌC: TÌM HIỂU ĐẢNG CỘNG HÒA Ở MỸ pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.31 KB, 5 trang )

CÁC ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG HÒA, ĐẢNG DÂN
CHỦ VÀ PHÁI BẤT KHẢ TRI
Những đối thủ chính trị của Jackson đã không có hy vọng thành công là vì trong
số họ còn có ý định trái nhau. Do vậy họ đã câu kết tất cả những thành phần bất
mãn lại với nhau, nhập vào một chính đảng chung có tên gọi là Đảng Whig. Tuy
họ tổ chức ngay sau khi chiến dịch bầu cử năm 1832 nhưng phải mất hơn một thập
niên trước khi họ có thể giải quyết được những điểm khác biệt và có thể tạo nên
một cương lĩnh chính thống. Phần lớn nhờ sức hấp dẫn của Henry Clay và Daniel
Webster - những chính khách mẫn tuệ bậc nhất của Đảng Whig - họ đã củng cố
được lực lượng đảng viên của mình. Nhưng vào cuộc bầu cử năm 1836, Đảng
Whigs vẫn còn bị chia rẽ nên không thể đoàn kết được dưới sự dẫn dắt của một
nhà lãnh đạo duy nhất hay dựa trên một lập trường chung. Martin Van Buren ở
New York, Phó Tổng thống của Jackson, đã thắng trong cuộc đua này.
Tình trạng trì trệ kéo dài của kinh tế và nhân cách được phóng đại của người
tiền nhiệm đã làm lu mờ những công lao của Van Buren. Những hoạt động công
khai của ông không làm dấy lên được lòng nhiệt tình say mê vì ông thiếu những
phẩm chất có sức hấp dẫn mạnh mẽ của phong cách lãnh đạo và tài nhạy cảm gây
ấn tượng sâu sắc vốn thể hiện trong mọi động thái của Jackson. Cuộc bầu cử năm
1840 đã xảy ra vào lúc đất nước đang đau đớn vật vã với thời kỳ gian khổ và đồng
lương thấp, và đặc biệt là các đảng viên Đảng Dân chủ đang trong thế phòng ngự.

ứng cử viên tổng thống của Đảng Whig là William Henry Harrison của bang
Ohio. Ông nổi tiếng với tư cách là một người hùng trong các trận xung đột với
người da đỏ cũng như chiến tranh năm 1812. Cũng như Jackson, ông được coi là
đại diện cho miền Tây dân chủ. ứng cử viên phó tổng thống là John Tyler người
Virginia. Ông có những quan điểm ủng hộ các quyền của các bang và các biểu
thuế thấp rất nổi tiếng ở miền Nam. Harrison đã giành được chiến thắng áp đảo.
Tuy nhiên ngay trong tháng tổ chức lễ nhậm chức, Harrison đã qua đời ở tuổi 68,
và Tyler trở thành tổng thống. Những niềm tin của Tyler rất khác với niềm tin của
Clay và Webster, nhưng ông vẫn là người có ảnh hưởng lớn nhất trong Quốc hội.
Kết quả là đã có sự đoạn tuyệt công khai giữa tân tổng thống và đảng đã bầu ông.


Nhiệm kỳ tổng thống của Tyler không đạt được điều gì khác rõ ràng hơn ngoài
quy định, nếu một tổng thống qua đời thì phó tổng thống sẽ kế nhiệm với đầy đủ
quyền lực trong suốt nhiệm kỳ của mình.
Tuy vậy người Mỹ thấy mình bị chia rẽ ở những phương diện phức tạp hơn
nhiều. Đông đảo những người nhập cư theo công giáo La-mã vào nửa đầu thế kỷ
XIX, chủ yếu là người Ai-len và người Đức đã châm ngòi gây nên những phản
ứng cực đoan trong những người Mỹ bản địa theo Tin Lành giáo. Dân nhập cư đã
mang tới bờ biển nước Mỹ những phong tục và hành đạo mới thật kỳ lạ. Họ đã đua
tranh với dân bản địa để giành giật việc làm ở các thành phố dọc vùng bờ biển
miền Đông. Hơn nữa, những thay đổi về chính trị của những năm 1820 và 1830 đã
làm gia tăng khả năng hoạt động chính trị của những người nhập cư. Những chính
trị gia dòng dõi quý tộc bị thất thế đã đổ lỗi cho người nhập cư vì đã làm họ mất đi
quyền lực. Sự thất bại của Cơ đốc giáo nhằm ủng hộ phong trào giảm uống rượu
mạnh đã làm dấy lên những lời buộc tội rằng La-mã đang cố gắng lật đổ nước Hoa
Kỳ bằng rượu.
Quan trọng nhất trong các tổ chức theo thuyết bẩm sinh vốn đã xuất hiện trong
giai đoạn này là một hội kín, đó là Dòng tu của Lá cờ điểm sao, thành lập năm
1849. Khi các thành viên của hội này từ chối nhận diện mình, họ mau chóng được
đặt tên là Những người bất khả tri. Trong một số năm, họ đã tổ chức được bộ máy
khắp cả nước và có quyền lực chính trị tương đối.
Những người bất khả tri cổ xúy việc mở rộng về thời gian đòi hỏi cho việc nhập
quốc tịch từ 5 năm lên tới 21 năm, và loại trừ người nhập cư và các tín đồ công
giáo La-mã khỏi các chức vụ nhà nước. Năm 1855, tổ chức này đã giành được
quyền kiểm soát các cơ quan lập pháp ở bang New York và Massachusetts. Đến
lúc đó, chừng 90 nghị sỹ Mỹ đã có liên hệ với đảng này. Sau đó, cuộc khủng
hoảng giữa Bắc và Nam về vấn đề mở rộng chế độ nô lệ đã gây chia rẽ sâu sắc
trong đảng, gợi lại các cuộc tranh luận giữa Đảng Whig và Dân chủ vốn đã áp đảo
nền chính trị Mỹ trong 25 năm cuối cùng của nửa đầu thế kỷ XIX.
NHỮNG KHUẤY ĐỘNG CỦA CẢI CÁCH
Sự biến động đột ngột của tinh thần dân chủ trong vấn đề chính trị mà được

minh chứng bằng cuộc bầu cử Jackson chỉ là một giai đọan trong cuộc tìm kiếm
dài lâu của nước Mỹ vì những quyền và những cơ hội lớn hơn cho tất cả các công
dân. Một cuộc biến động khác là sự bắt đầu của tổ chức người lao động. Năm
1835, các lực lượng lao động ở Philadelphia, bang Pennsylvania đã thành công
trong việc giảm thời gian làm việc trong ngày trước đây từ sáng sớm đến tối mịt
xuống còn 10 tiếng một ngày. Đến 1860, quy định ngày làm việc mới đã được ban
hành trong luật ở một số tiểu bang, và nhìn chung được chấp nhận là chuẩn mực.
Sự lan truyền của phong trào đòi quyền bầu cử đã dẫn tới quan điểm mới về
giáo dục, vì các chính khách nhìn xa trông rộng ở khắp nơi hiểu rằng phổ thông
đầu phiếu đòi hỏi cử tri phải biết chữ và có kiến thức. Các tổ chức của công nhân
đã đòi hỏi phải có trường học miễn phí, được hỗ trợ thuế dành cho tất cả trẻ em.
Dần dần, hết bang này đến bang khác, các đạo luật đã được ban hành để cung cấp
giáo dục miễn phí cho trẻ em. Sự lãnh đạo của Horace Mann ở bang
Massachusetts lúc này đặc biệt hiệu quả. Hệ thống trường công đã trở thành phổ
biến ở khắp khu vực miền Bắc nước Mỹ. Tuy nhiên, ở các khu vực khác của đất
nước, cuộc đấu tranh vì nền giáo dục công lập vẫn tiếp tục xảy ra trong nhiều năm.
Một phong trào xã hội có ảnh hưởng lớn khác xuất hiện trong giai đoạn này là
sự chống lại việc bán và sử dụng rượu, tức là phong trào vận động hạn chế rượu.
Phong trào này bắt nguồn từ những mối quan tâm lo ngại về hệ quả của nó như:
các niềm tin tôn giáo, hậu quả của rượu đối với sức khỏe của người lao động, nạn
bạo lực và nạn ngược đãi phụ nữ và trẻ em. Vào năm 1826 các mục sư ở Boston
đã tổ chức hội khuyếch trương phong trào hạn chế rượu. Bảy năm sau ở
Philadelphia, Hội này đã tổ chức một hội nghị quốc gia và thành lập Liên hiệp hạn
chế rượu Mỹ. Liên hiệp này đã kêu gọi từ bỏ tất cả các loại đồ uống có cồn và gây
áp lực với các cơ quan lập pháp bang cấm việc bán và sản xuất rượu. Cho tới năm
1855, 13 bang đã thực hiện như vậy, tuy nhiên các bộ luật sau đó đã bị thách thức
tại tòa án. Các bộ luật này chỉ tồn tại ở miền Bắc New England, nhưng dù sao thì
vào những năm, từ 1830 đến 1860, phong trào hạn chế rượu cũng đã làm giảm sản
lượng rượu tiêu thụ theo đầu người.
Những nhà cải cách khác đã hướng tới các vấn đề nhà tù và chăm sóc những

người bị bệnh tâm thần. Những nỗ lực đã được thực thi để biến các nhà tù vốn
nhấn mạnh việc trừng phạt trở thành các trại cải huấn, tại đây, các phạm nhân sẽ
được phục hồi, cải tạo. Ở bang Massachusetts, Dorothea Dix đã lãnh đạo cuộc
tranh đấu nhằm cải thiện các điều kiện cho những người mắc chứng tâm thần,
những người đã bị giam giữ trong những trại tế bần thảm hại, khốn khổ và các nhà
tù. Sau khi giành được sự cải thiện ở Massachusetts, bà đã đưa chiến dịch của
mình hướng tới miền Nam nơi có chín bang đã lập các bệnh viện cho người mắc
chứng tâm thần vào những năm 1845 và 1852.

×