Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Chính sách đẩy mạnh Xuất khẩu may mặc của Tổng Cty dệt may Việt Nam - 6 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.11 KB, 12 trang )

61

ký tại vòng đàm phán thương mại đa biên tháng 4/1994 ở Maraket ghi nhận rằng
ATC sẽ thay cho hiệp định đa sợi (MFA) đến ngày 1-1-2005, tất cả hàng dệt may
phải được hoà nhập trở lại theo những nguyên tắc thương mại thông thường của
WTO và như vậy hàng rào hạn ngạch hàng may mặc vào Mỹ sẽ được loại bỏ và
thuế trung bình sẽ giảm 9%. Đây là một thời cơ để có thể đi vào thị trường đầy tiềm
năng này. Nhờ những cơ hội trên mà trong suốt thời kỳ 1995-1998 hàng may mặc
xuất khẩu không ngừng tăng lên, đặc biệt là hạn ngạch xuất khẩu vào EU luôn tăng
tạo ra một thị trường vững chắc cho Tổng Công ty. Do biết vận dụng những cơ hội
về chính sách mở cửa của Chính Phủ vì vậy cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ
trong khu vực vừa qua không làm ảnh hưởng lớn đến sản lượng xuất khẩu hàng may
mặc của Tổng Công ty so với năm 1997, 1998 sản lượng xuất khẩu hàng may mặc
vẫn tăng khoảng 8% nhưng kim ngạch xuất khẩu vẫn không đạt được mức kế hoạch
do nguyên nhân chính là do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực làm sức
mua của các bạn hàng lớn như Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc giảm mạnh.
Ngoài ra, nguồn hàng may mặc chủ yếu phải thu mua, gia công ở các cơ sở sản xuất
dẫn tới giá thành cao, không chủ động, hạh chế hiệu quả sản xuất kinh doanh, việc
thu gom khối lượng hàng xuất khẩu thường gặp nhiều khó khăn.
Ngành may chủ yếu là may gia công cho nước ngoài nên kim ngạch xuất khẩu lơn
nhưng thực thu ngoại tệ thấp, chỉ chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch. Thị trường
xuất khẩu không ổn định, bị động, bị ép giá Có tới 85% sản phẩm may là làm gia
công, chỉ còn 10-15% sử dụng vải trong nước. Thị trường nội địa còn để cho sản
phẩm ngoại chiếm phần lớn.
Đặc biệt, đối với thị trường phi hạn ngạch, hoạt động xuất khẩu hàng may mặc vẫn
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
62

chưa ổn định chủ yếu là do:
+ Hàng hoá của ta sản xuất chưa phù hợp với nhu cầu thị hiếu của khách hàng.
+ Phương thức hoạt động chủ yếu là gia công xuất khẩu.


+ Việc tổ chức mạng lưới thông tin, tiếp thị ở nước ngoài chưa được triển khai
thống nhất.
+ Một số thị trường chưa được hưởng các quy chế ưu đãi.
+ Còn thiếu hiểu biết về thủ tục, tập quán và luật lệ của các nước và khu vực trên
toàn thế giới.
Do xu hướng tự do hoá thương mại, nên hàng may mặc bên ngoài tràn vào nước ta
từ nhiều nguồn: Hàng nhập lậu, trồn thuế, hàng SIDA giá rất rẻ, tràn ngập thị
trường trong nước làm cho sản xuất hàng may mặc trong nước bị thu hẹp. Hơn nữa,
ngành may còn gặp nhiều khó khăn ở cả đầu vào và đầu ra. ở đầu vào, nguyên kiệu
trong nước ( ngành Dệt) chưa đáp ứng được do chất lượng vải thấp nên phải nhập
khẩu, vì vậy rất bị động thường không đồng bộ và bị hạn chế nhiều mặt về thời gian
(nếu xuất sản phẩm quá 90 ngày thì phải chịu thuế nhập khẩu). Giá gia công những
năm gần đây không tăng, thậm chí còn giảm. Chẳng hạn như giá gia công một áo sơ
mi năm 1992 là 10 nghìn đồng thì giảm xuống còn 5 nghìn đồng năm 1994; áo Jaket
từ 80 nghìn đồng xuống còn 30 nghìn đồng, thậm chí gia công lại chỉ còn 20 nghìn
Năng suất ngành may còn thấp (một công lao động ở ta chỉ làm được 10 áo sơ mi
thấp hơn 27 áo ở nước ngoài). ở đầu ra, đối với EU có đến một nửa thị trường tiêu
thụ bị khống chế bằng hạn ngahch. Hạn ngạch 1998-2000 với sơ loại sản phẩm lên
tới 54 nhóm so với 20 nhóm của các nước ASEAN khác. Thị trường không hạn
ngạch gần đây giảm như Nhật, thị trường Mỹ chưa sử dụng quy chế tối huệ quốc
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
63

nên vẫn chịu thuế suất cao. Đối với thị trường trong nước cũng đang bị hàng nhập
lậu trốn thuế cạnh tranh gay gắt.
Về mặt quản lý vĩ mô, một số chính sách hiện hành vẫn chưa thực sự tạo điều kiện
cho hoạt động xuất khẩu hàng may mặc, như hiện tượng thuế trùng thuế, không
cạnh tranh được với giá thành, giá bán trên thị trường. Chính phủ chưa có ưu đãi về
vốn vay hoặc miễn giảm thuế cho đầu tư phát triển ngành Dệt-May nên các dự án
đầu tư mới, vốn lớn không dám triển khai vì không tính toán trả được lãi vay và

vốn.
Vấn đề tỷ lệ xuất khẩu quy định tại giấy phép cũng cần có sự nhất trí chỉ đạo trong
các cơ quản lý Nhà nước sao cho công bằng và hợp lý.
Bên cạnh những khó khăn tồn tại, Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam cũng phải
đương đầu với không ít những thách thức mới.
Cùng với tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thực hiện viẹc cắt giảm thuế
quan CEPT của khối mậu dịch ASEAN (AFTA), đàm phán để gia nhập tổ chức
thương mại quốc tế (WTO) đặt ra những thời cơ và thách thức lớn đối với các
doanh nghiệp Việt Nam, trong đó những cố gắng nỗ lực trong việc điều hành hoạt
động xuất nhập khẩu nói chung, xuất khẩu may nói riêng.
Hiện nay, hiệp định mới được ký kết với EU cho giai đoạn 1998-2000 có tăng lên
nhưng thực tế ngành may Việt Nam vẫn dư thừa từ 20-25% năng lực. Trong khi tình
hình kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc đang có những diễn biến phức tạp với những
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính, do vậy sức mua trong nước sẽ
trì trệ, thậm chí giảm. Theo nguồn tin thương mại Nhật Bản, nhập khẩu quần áo
năm 1997 đã giảm 13% về sản lượng và 5% về giá trị so với năm 1996. Năm 1998,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
64

nhập khẩu quần áo tiếp tục giảm xuống còn 20% về số lượng. Trong số các thị
trường xuất khẩu lớn nhất phi hạn ngạch của Tổng Công ty thì Nhật bản là thị
trường lớn nhất. Hiện tượng thị trường xuất khẩu của Tổng Công ty bị trì trệ, cơ cấu
cung cầu không cân đối này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng may mặc
của Tổng Công ty, đòi hỏi Tổng Công ty phải có biện pháp kịp thời để ổn định và
thức đẩy sự phát triển hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của mình.
Mặt khác, do cơn bão tài chính tiền tệ ở khu vực Đông Nam á đã làm một số nước
phải phá gái hoặc thả nổi đồng tiền nước họ, do vậy cạnh tranh xuất khẩu hàng may
mặc vào EU, Mỹ sẽ rất ác liệt. Khi đầu tư, mở rộng sản xuất Tổng Công ty cần thấy
rõ để tính toán đầy đủ các yếu tố rủi ro nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Hơn nữa, nước ta đã là thành viên đầy đủ của ASEAN và thực hiện các điều khoản

của hiệp định AFTA, tiến trình giảm thuế nhập khẩu là không thể đảo ngược. Xu thế
hội nhập thế giới ngày càng cao nên việc lựa chọn và định hướng đầu tư đúng, có
hiệu quả đang đặt ra rất bức thiết. Đón nhạn thời cơ đồng thời dám chấp nhận thử
thách, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam cần phải có những bước đi và giải pháp
phù hợp trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc. Cạnh tranh gay gắt song không
có nghĩa là không dám cạnh tranh, đây là một bài toán khó đối với Tổng Công ty.
Đặc biệt Tổng Công ty đang phải đương đầu với những đối thủ trên sức mình trong
lĩnh vực hàng may mặc cả về thị trường trong và ngoài nước. Chẳng hạn như Trung
Quốc, một nước láng giềng của ta có hoạt động xuất khẩu hàng may mặc rất phát
triển. Hàng may mặc Trung Quốc tràn ngập trên thị trường Việt Nam với những ưu
thế hơn hẳn cả về chất lượng và giá cả. Năm 1997, hàng may mặc xuất khẩu chiếm
hơn 1/4 tổng xuất khẩu của Trung Quốc. Trung Quốc đã mở rộng xuất khẩu sang
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
65

các thị trường Liên Xô cũ và các nước Châu Phi-đây vốn là những thị trường dễ tính
đối với hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam. Liệu Tổng Công ty sẽ đối phó ra
sao để cạnh tranh với một đối thủ tầm cỡ như vạy để có thể duy trì và phát triển thị
trường xuất khẩu của mình.
Với những thách thức đó, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam cần phải cân nhắc và
chuẩn bị thị trường xuất khẩu thật chu đáo mới có thể có cơ hội thắng lợi trong cạnh
tranh quốc tế.
2. Về mặt chủ quan
Tuy mới được thành lập, nhưng Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam đã không ngừng
vươn lên, khẳng định chỗ đứng của mình ở cả thị trường trong nước và ngoài nước.
Với một đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, am hiểu thị trường đồng bộ và phối
hợp chặt chẽ giữa khâu ở công đoạn từ giao dịch đàm phán với khách hàng đến ký
kết các điều khoản trong hợp đồng, bảo đảm được chất lượng và tiến bộ giao hàng
gắn với thời gian nhập khẩu nguyên phụ liệu. Tổng Công ty lại có ưu thế về nguồn
vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ, tiên tiến, qua đó tạo được thế ổn định trong

kinh doanh. Tổng Công ty rất có uy tín, được Nhà nước và Bộ thương mại tin cậy
nên Tổng Công ty luôn được ưu đãi trong việc ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng may
mặc. Mặt khác, do Tổng Công ty được Bộ gia cho làm hàng trả nợ và ký kết được
hợp đồng gia công nên kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc luôn ổn định và ở mức
cao. Hiện nay, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam là Tổng Công ty có giá trị xuất
khẩu trong các Tổng Công ty trực thuộc Bộ công nghiệp (56%) và cũng là một trong
những Tổng Công ty có xuất siêu lớn nhất của ngành công nghiệp.
Tổng Công ty cũng nhận biết thế mạnh của từng đơn vị trực thuộc, các phòng ban,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
66

phân công nhiệm vụ cụ thể, nguồn hàng may mặc chất lượng cao, đảm bảo hợp lý
về sản lượng và giá cả. Với những đóng góp của ngành may trong thời gian qua đã
chứng minh cho khả năng phát triển mạnh mẽ của ngành.
Đến nay, Tổng Công ty đã khẳng định được vị thế của mình bằng việc phát triển với
tốc độ nhanh, giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn lao động, tạo nguồn
ngoại tệ cho đất nước, tham gia vào quá trình phân công và hợp tác quốc tế, nhanh
chóng hội nhập vào quốc tế và khu vực, từng bước thiết lập nền công nghiệp chuyên
ngành trên phạm vi toàn quốc. Những thành tựu đạt được đó góp phần không nhỏ
vào công việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Tổng Công ty cũng còn có những hạn chế
như:
- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt với dệt, may với may
trong việc khai thác năng lực thiết bị và trong tiêu thụ sản phẩm (còn có tình trạng
cạnh tranh nội bộ , thiếu hỗ trợ nhau, chạy theo lợi ích riêng).
- Thị trường xuất khẩu còn dựa nhiều vào quato và hạn ngạch Nhà nước, sức cạnh
tranh hàng may mặc còn yếu nên thị trường nội địa không đủ sức cạnh tranh với
hàng nhập ngoại, hàng của các Công ty 100% vốn nước ngoài.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư chưa cao, còn nhiều đơn vị làm ăn thua lỗ, một số đơn
vị chưa mạnh dạn đầu tư. Việc quản lý sản xuất, quản lý thiết bị. Quản lý lldj, vệ

sinh môi trường còn nhiều việc phải củng cố lại. Chưa có sự liên kết giữa các đơn
vị thuộc Tổng Công ty với các ngành khác, với địa phương dẫn đến tình trạng nhiều
sản phẩm trong nước sản xuất ra đảm bảo chất lượng nhưng vẫn còn nhập, quá trình
cổ phần hoá triển khai còn chậm chưa đạt được tiến độ như mong muốn
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
67

Nhìn lại những năm qua, mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện vô
cùng khó khăn do ảnh hưởng còn thiên tai, hạn hán, bão lụt đặc biệt gần đây do
ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, Tổng Công ty
Dệt-May Việt Nam vẫn đảm bảo được nhịp độ tăng trưởng khá, ổn định sản xuất,
không ngừng đầu tư phát triển tuy vậy vẫn còn tồn tại một số hạn chế không thể
tránh khỏi nhưng đay cũng là một thành tựu đáng ghi nhận của toàn Tổng Công ty
Dệt-May Việt Nam.
Chương III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu hàng may
mặc ở Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam trong thời gian tới.
I. Triển vọng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty trong thời gian tới.
1. Mục tiêu và định hướng phát triển của Tổng Công ty:
1.1. Một số quan điểm cơ bản phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam.
a/ Công nghiệp Dệt-May phải được ưu tiên phát triển và được coi là một trong
những ngành trọng điểm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
những năm tiếp theo:
Trong bốn năm qua kim ngạch xuất khẩu hàng dệt-may đều tăng và đã vươn tới
đứng thứ hai (sau dầu khí) trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước. Dự
báo tốc độ tăng trưởng sẽ vào khoảng 10% trong giai đoạn 1996-2000 và trên 10%
giai đoạn 2000-2010. Đó là tỷ lệ tăng trưởng cao so với nhiều ngành công nghiệp
khác. Như vậy, trong những năm tiếp theo cảu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, ngành dệt may phải được ưu tiên phát triển.
b/ Phát triển công nghiệp Dệt-May theo hướng hiện đại và đa dạng về sản phẩm.
Công nghiệp hiện đại ngày nay đã trở thành yếu tố quyết định cho sự phồn vinh của

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
68

một quốc gia, hay sức mạnh cạnh tranh kinh tế cảu một sản phẩm. Chúng ta chỉ có
thể thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển và tham gia vào quá trình phân
công lao động quốc tế thông qua việc tăng cường năng lực công nghệ quốc gia, tiếp
cận và làm chủ công nghệ tiến tiến và công nghệ cao.
Từ nhận thức đó, công nghiệp Dệt-May phảu được ưu tiên phát triển theo hướng
hiện đại và đa dạng về sản phẩm.
Trong thời gian tới, cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước nhu cầu hàng tiêu
dùng sẽ tăng lên nhưng không đơn giản tăng về số lượng các mặt hàng cao cấp cũng
tăng lên. Theo quy luật tiêu dùng thì khi thu hập tăng lên, tỷ lệ chi cho ăn uống sẽ
giảm tương đối, còn tỷ lệ tiêu dùng cho các như cầu khác cũng sẽ tăng lên trong đó
có nhu cầu về may mặc. Như vậy, cũng với việc tăng dan số và tăng thu nhập, trong
những năm tới thị trường trong nước sẽ là tiền đề phát triển cho công nghiệp sản
xuất tiêu dùng nói chung và công nghiệp Dệt-May nói riêng.
Đối với thị trường nước ngoài, để tiếp nhạn thành công có sự dịch chuyển kinh tế
từ các nước phát triển hơn và nhanh chóng thay thế họ xâm nhập vào các thị trường
quốc tế mới, ngành Dệt-May càng cần phải được trang bị lại theo hướng hiện đại.
Có như vậy mới có thể đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao, càng đa dạng của thị
trường trong và ngoài nước
Tất cả các yếu tố đó đòi hỏi bức xúc ngành phải có kế hoạch hiện đại hoá từng
bước, kết hợp giữa thay thế và hiện đại hoá, đồng thời nhanh chóng tiếp thu công
nghệ mới để giảm bớt khoảng cách tụt hậu.
c/ Phát triển công nghiệp Dệt-May theo hướng kết hợp hướng về xuất khẩu với thay
thế nhập khẩu.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
69

Hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả, đó là kinh

nghiệm cuả nhiều nước công nghiệp mới (NICs) và ở nước ta cũng đã được xác
nhận. Đó là một chiến lược cơ bản của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong những điều kiện của thế giới ngày nay. Chúng ta phải tận dụng các lợi thế so
sánh về lao động và tài nguyên để đẩy mạnh nhịp độ phát triển của các ngành và sản
phẩm công nghiệp xuất khẩu, xem đây là mục tiêu hàng đầu. Xuất khẩu càng nhiều,
kinh tế phát triển càng nhanh, có hiệu quả và bền vững, đồng thời càng có thêm khả
năng thay thế hiệu quả, không mâu thuẫn với hướng về xuất khẩu.
Ngành Dệt-May Việt Nam là một trong những ngành có khả năng làm đuợc điều đó.
Thực tế những năm qua cho thấy, chiến lược hướng về xuất khẩu đã thu được những
kết quả đáng khích lệ. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may không ngừng tăng lên.
Nhờ nguồn ngoại tệ thu được, ngành có điều kiện phát triển tái đầu tư để hiện đại
hoá, đẩy mạnh sản xuất.
Song song với xu hướng đẩy mạnh xuất khẩu, cần kết hợp sản xuất các mặt hàng
thay thế nhập khẩu. Thị trường trong nước với số dân đông và sức mua ngày càng
lớn là đối tượng rất quan trọng mà công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nói chung
và công nghiệp Dệt-May nói riêng phải đáp ứng cho được các nhu cầu cơ bản, từ
những sản phẩm dệt may bình thường, phù hợp với đa số người dân lao động đến
các sản phẩm cao cấp hơn phục vụ những nhóm người có thu nhập cao. Để làm
được điều này, vấn đề quyết định là phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dệt
may trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thế giới, trên cơ sở nâng cao
năng suất, chất lượng và hiệu qủa.
Trước mắt cần có sự phối hợp giữa các nhà sản xuất, những người làm công tác
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
70

nghiên cứu, lựa chọn ra những mặt hàng thích hợp đang được nhập khẩu nhiều mà
năng lực sản xuất và trình độ kỹ thuật, công nghệ của các doanh nghiệp trong nước
có khả năng đáp ứng. Sau đó, các doanh nghiệp trong nước phối hợp với nhau tập
trung vào sản xuất các mặt hàng này.
Hiện tại, các sản phẩm dệt may của ta bị cạnh tranh gay gắt bởi các sản phẩm nhập

khẩu chủ yếu ở giá cả. Mặc dù chất lượng có kém hơn song do thắng áp đảo về giá
nên họ chiếm lĩnh được thị trường rộng lớn ở khu vực nông thôn.
Đó là điểm yếu quan trọng buộc các nhà sản xuất bằng nhiều cách để tiết kiệm chi
phí, giảm giá thành sản phẩm thì mới có thể cạnh tranh được.
d/ Phát triển công nghiệp Dệt-May phải gắn liền với sự phát triển của ngành nông
nghiệp và các ngành kinh tế khác, đồng thời góp phần đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta.
Trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội từ nay đến năm 2000 và 2010 Đảng ta chỉ
rõ, cần phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền kinh tế mà trước
hết là công nghiệp hóa nông thôn.
Như vậy, đối với tất cả các ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp Dệt-
May là ngành sử dụng nhiều nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp như bông, tơ tằm,
trong chiến lược phát triển của mình cần xác định được hướng phát triển là gắn với
sự phát triển của ngành nông nghiệp.
Trong suốt quá trình phát triển của mình, ngành công nghiệp Dệt-May Việt Nam
luôn ở trong tình trạng bị động về nguyên liệu. Hầu hết tất cả các loại nguyên liệu
đều phải nhập khẩu. Kể cả bông xơ là loại nguyên liệu mà ta có thể cung cấp một
phần. Tơ tằm tuy không phải nhập khẩu, nhưng nguồn tơ sản xuất bị hạn chế cả về
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
71

chất lượng lẫn số lượng nên giá trị xuất khẩu thấp.
Do vậy, muốn từng bước tiến tới sự phát triển ổn định, bền vững, ngành Dệt-May
phải tạo được cho mình một một cơ sở nguyên liệu thích hợp và ổn định.
Phát triển công nghiệp Dệt-May còn gắn liền với sự phát triển của một loạt các
ngành công nghiệp khác như hoá chất, hoá dầu để tạo ra các dạng nguyên liệu tổng
hợp, nhân tạo, các loại hoá chất, thuốc nhuộm Công nghiệp cơ khí chế tạo để sản
xuất ra các loại máy móc từ đơn giản đến phức tạp cho ngành. Ngoài ra còn kéo
theo sự phát triển của các ngành sản xuất phụ liệu, bao bì.
Để làm được những vấn đề trên,điều đặc biệt có ý nghĩa quan trọng là phải xây

dựng được hệ thống các qui hoạch phát triển ngành và liên ngành, tạo ra sự liên kết
ngang chặt chẽ giữa ngành công nghiệp Dệt-May với các ngành công nghiệp khác
và nông nghiệp. Các qui hoạch này cần được phối hợp, bảo đảm tính cân đối, ăn
khớp giữa chúng với nhau. Đặc biệt đối với nông nghiệp, thì phải có qui hoạch từ
khâu sản xuất nguyên liệu, sơ chế đến tiêu thụ sản phẩm.
Làm được như vậy, ta sẽ đáp ứng được yêu cầu phát triển của bản thân ngành công
nghiệp Dệt-May, đồng thời còn góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nhiều ngành khác.
1.2. Mục tiêu và định hướng phát triển của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.
Ngành công nghiệp dệt may là ngành truyền thống lâu đời của nhân dân ta, từ trồng
bông, nuôi tằm đến ươm tơ dệt vải đã có những làng nghề từ xưa đến nay. Nhiều
mặt hàng dệt may đã có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước.
Kinh nghiệm của nhiều nước, thời kỳ đầu phát triển ngành dệt may làm tiền đề phát
triển các ngành kinh tế khác phù hợp với khả năng vốn đầu tư vừa phải, vòng quay
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
72

vốn nhanh, giải quyết nhiều lao động, góp phần tăng tích luỹ. Với nền kinh tế Việt
Nam, thời gian trước mắt và vài ba thập kỷ tới đẩy nhanh phát triển ngành dệt may
là đúng hướng và cần thiết.
Nhận thức rõ được vai trò của mình Tổng Công ty dệt-May Việt Nam đang đặt ra
cho mình những mục tiêu phấn đấu lớn như: đảm bảo nhu cầu của hơn 100 triệu dân
vào năm 2010 với mức tiêu thụ 3,6 kg vải/ người và nhu cầu an ninh quốc phòng;
phấn đấu đạt mức tăng trưởng bình quân 13% năm, sau năm 2005 có mức tăng
trưởng trên mức tiên tiến trong khu vực, tương đương với Hongkong, Thái Lan hiện
nay
Để thực hiện được những mục tiêu trên Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam đang từng
bước định hướng phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình mà đặc
biệt là hàng may mặc. Các xí nghiệp may được phân bố rộng rãi trên các địa phương
tại các thị trấn, thị xã, thành phố để phục vụ nhân dân địa phương, đáp ứng yêu cầu

phong tục tập quán địa phương. Các công trình may xuất khẩu thì trọng tâm vào 3
vùng phát triển ngành Dệt, ưu tiên thuận tiện giao thông đến các cảng. Đầu tư
những năm tới tập trung vào những mặt hàng cao cấp như: mặt hàng sợi bông 100%
cho thị trường Mỹ, EU và nội địa; hàng len và giả len cho thị trường EU, Mỹ,
Đông âu
Đầu tư chiều sâu là đầu tư bổ sung để cân đối lại dây chuyền cho đồng bộ, bổ sung
thiết bị lẻ hoặc loại trừ các máy cũ trong dây chuyền đã quá lạc hậu, cải tạo nâng
cấp một số trang bị, đổi mới công nghệ nhằm tăng chất lượng, mở rộng mặt hàng,
khắc phục ô nhiễm môi trường đồng thời tăng sản lượng giảm chi phí sản xuất.
Thời kỳ 200-2005 là thời kỳ năng cao chất lượng và giá trị sản phẩm, phong phú
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×