Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tình hình kinh doanh hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt hà Nội - 6 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.63 KB, 8 trang )


41

thường ngày nếu con người không biết tự bảo vệ lấy chính mình bằng những hành
động cụ thể nhằm ngăn chặn rủi ro có thể xảy ra. Ngoài ra, hàng năm công ty vẫn
cùng các công ty bảo hiểm khác như Vinare, Muniche, hoặc cùng các công ty bảo
hiểm trong Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam đồng tổ chức các hội nghị, thông qua
đó tiến hành tìm hiểu, phân tích, đánh giá và rút ra kinh nghiệm từ thực tiễn để đề ra
các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất có hiệu quả nhất.
Tóm lại, rõ ràng công ty có chú trọng tới công tác đề phòng và hạn chế tổn thất đối
với nghiệp vụ bảo hiểm cháy cũng như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
Theo tỷ lệ chi đề phòng, hạn chế tổn thất tối đa tính trên phí bảo hiểm giữ lại của
từng nghiệp vụ bảo hiểm ban hành kèm theo thông tư số 71/2001/TT-BTC ngày
28/8/2001 của Bộ Tài chính qui định tỉ lệ chi đề phòng hạn chế tổn thất của bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh là 5% trên tổng phí bảo hiểm giữ lại của nghiệp vụ này.
Trên thực tế thì số chi đề phòng, hạn chế tổn thất cho nghiệp vụ này tại Bảo Việt Hà
Nội qua các năm chủ yếu thấp hơn 5%. Như vậy, Bảo Việt Hà Nội đã giảm được
chi phí trong công tác đề phòng, hạn chế tổn thất. Tuy nhiên, để có thể đánh giá
được kết quả của công tác này, chúng ta phải xem xem công tác đề phòng, hạn chế
tổn thất có mang lại kết quả là làm giảm tình hình xảy ra rủi ro hay không, cụ thể là
thông qua số liệu về các vụ bồi thường tại Bảo Việt Hà Nội.
2.3.3. Công tác giám định và bồi thường
Mục đích của hoạt động bảo hiểm là bồi thường nhanh chóng, chính xác, kịp thời và
công bằng cho người được bảo hiểm khi không may họ gặp phải rủi ro. Công tác
bồi thường được thực hiện hiệu quả chính là một biện pháp tốt nhất để tạo ra sự tín
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

42

nhiệm cũng như niềm tin của khách hàng đối với công ty bảo hiểm. Khi công tác
này được chú trọng thực hiện tất sẽ gây ra tiếng vang lớn, uy tín của công ty sẽ


được nâng cao và khi đó khách hàng sẽ trở thành người quảng cáo có hiệu quả nhất
cho công ty. Để tiến hành công tác bồi thường đủ, chính xác, công ty bảo hiểm phải
dựa chủ yếu vào kết quả thu được từ công tác giám định tổn thất. Chính vì vậy, đối
với Bảo Việt Hà Nội, công tác giám định và bồi thường được đánh giá là một dịch
vụ sau bán hàng hết sức quan trọng.
Trong thời gian qua, trên địa bàn Hà Nội cũng đã xảy ra nhiều vụ cháy và gây thiệt
hại không nhỏ cho các tổ chức, cá nhân liên quan và hậu quả là dẫn đến nhiều thiệt
hại ảnh hưởng tới quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp bị cháy. chúng ta có
thể đơn cử một số vụ sau:
- Vụ cháy ở công ty liên doanh sản xuất xà phòng Lever Haso với thiệt hại
khoảng1,5 tỷ đồng (năm 1998)
- Vụ cháy ở Công ty TNHH Transfield Việt nam với thiệt hại hơn 2 tỷ đồng
(năm 1999)
- Vụ cháy ở Công ty may Hải Sơn với thiệt hại là 7,5 tỷ đồng (năm 2000)
- Vụ cháy ở Công ty Muraya Việt Nam với thiệt hại là 6,25 tỷ đồng (năm
2000)
- Vụ cháy ở Công ty TNHH Thịnh Khang với trị giá 6,2 tỷ đồng (năm 2000)
Tuy nhiên, các vụ cháy xảy ra hầu hết đều ở các đơn vị kinh doanh có chăng thì mới
tham gia bảo hiểm cháy, và chưa tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Công
tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội mới
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

43

trải nghiệm qua tổn thất gây ra bởi một số vụ cháy ước tính thiệt hại khoảng vài
trăm triệu đồng/vụ, nhưng không vì thế mà công tác giám định không gặp phải khó
khăn. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh có đặc điểm riêng là sau khi tổn thất xảy ra
người ta chưa thể xác định được ngay thiệt hại thực tế mà phải chờ một thời gian
nhất định (giai đoạn bồi thường) người bảo hiểm mới có thể tính được thiệt hại
thuộc trách nhiệm bồi thường. Do đó, việc hoàn tất hồ sơ giám định nhiều khi kéo

dài hàng năm gây không ít trở ngại cho cán bộ Bảo Việt Hà Nội. Tuy nhiên, khó
khăn đó là khó khăn mang tính khách quan do đặc điểm của nghiệp vụ bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh. Thực tế, không thể phủ nhận rằng cán bộ Bảo Việt Hà Nội đã
có nhiều cố gắng trong việc hoàn thành các biên bản giám định khách quan, vô tư,
trung thực nhằm chi trả bồi thường đúng cho khách hàng.
Để phân tích tình hình bồi thường tại Bảo Việt Hà Nội đối với nghiệp vụ bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh sau cháy, chúng ta hãy cùng xem xét bảng số liệu sau:
Qua bảng trên, rõ ràng số vụ bồi thường của nghiệp vụ này còn quá ít để có thể đưa
ra một kết luận chính xác. Trước năm 1999, thực tế Bảo Việt Hà Nội chưa hề bồi
thường cho bất cứ vụ tổn thất nào. Và cho tới năm 1999 thì Bảo Việt Hà Nội cũng
mới chỉ bồi thường cho 1 vụ với số tiền bồi thường là 10,2 triệu đồng, với tỉ lệ bồi
thường 2%, một tỉ lệ quá nhỏ so với tỉ lệ bồi thường trung bình của các nghiệp vụ
bảo hiểm. Việc không phải bồi thường cho một vụ nào trong những năm trước và
bồi thường quá ít trong năm 1999 tuy có ưu điểm là không phát sinh trách nhiệm
bồi thường của Bảo Việt Hà Nội, tăng lợi nhuận cho công ty nhưng cũng gây cho
Bảo Việt Hà Nội khó khăn trong việc nâng cao uy tín đối với khách hàng, khách
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

44

hàng chưa thực sự nhìn thấy tác dụng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Thêm
vào đó, cán bộ Bảo Việt Hà Nội cũng không có cơ hội tích luỹ kiến thức thực tế để
hoàn thiện công tác triển khai nghiệp vụ. Trong ba năm trở lại đây, Bảo Việt đã phải
đối mặt với một số vụ bồi thường, trong đó có 2 vụ bồi thường lớn vào năm 2000.
Tuy nhiên, do khả năng tài chính lớn mạnh của Bảo Việt Hà Nội cùng với việc phối
kết hợp sức mạnh của nhiều nghiệp vụ lại với nhau nên việc bồi thường nói chung
không có gì khó khăn về tài chính. Hơn nữa, các cán bộ bảo hiểm đã và đang cố
gắng hết sức mình để đạt được mục tiêu bồi thường thoả đáng cho khách hàng, tạo
sự an tâm cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt Hà Nội. Cụ thể, đối
với nghiệp vụ này, Bảo Việt Hà Nội đã bồi thường thành công cho một số vụ lớn và

phức tạp như bồi thường cho B-Broun (năm 2000), Melia hotel (năm 2001).
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, không thể phủ nhận một thực tế rằng Bảo Việt
Hà Nội cũng đã vấp phải những vướng mắc trong công tác bồi thường. Ví dụ như
với vụ bồi thường cho Hà Nội Club năm 2001, việc Bảo Việt Hà Nội chỉ chấp nhận
bồi thường phần mất lợi nhuận do gián đoạn kinh doanh và phần chi phí gia tăng
hợp lý sau khi đã trừ đi mức khấu trừ hai ngày, và không chấp nhận bồi thường
phần chi phí làm ngoài giờ của nhân viên trong công ty nhằm mục đích rút ngắn
thời gian gián đoạn kinh doanh đã gây ra bất đồng lớn giữa khách hàng và công ty
bảo hiểm. Về phần khách hàng, họ nghĩ rằng họ hoàn toàn có quyền đòi công ty bảo
hiểm bồi thường cho chi phí họ bỏ ra để đưa công ty trở về hoạt động kinh doanh
bình thường như trước khi tổn thất xảy ra. Về phía công ty thì nhân viên không giải
thích cho khách hàng lý do vì sao lại từ chối bồi thường, do đó đã gây mối nghi ngờ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

45

cho khách hàng. Xét cho cùng thì nguyên do chính của thực trạng này là do tính
phức tạp trong quá trình tính số tiền bồi thường. Trong khi tất cả các vụ bồi thường
đều cho các đối tác nước ngoài, những người đã quá quen thuộc và có kiến thức sâu
về loại hình bảo hiểm này, thì những người cán bộ bảo hiểm lại cảm thấy bị động
khi tiếp xúc với loại hình bảo hiểm mà chính họ đang triển khai. Điều đáng nói là số
cán bộ bảo hiểm biết lợi nhuận gộp là gì, tỉ lệ lợi nhuận gộp là gì hay số tiền bồi
thường trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được tính trên cơ sở nào tại Bảo Việt
Hà Nội không nhiều, vì vậy khi gặp trường hợp phải bồi thường, tất cả trông chờ
vào số ít người am hiểu nghiệp vụ làm cho công tác bồi thường bị chậm lại, tạo sự
bực tức cho khách hàng. Hơn nữa, khi tiếp xúc với khách hàng là đối tác nước
ngoài, hầu hết cán bộ của Bảo Việt Hà Nội không đủ trình độ ngoại ngữ để giải
thích với khách hàng, mà những người phiên dịch thì không đủ kiến thức về bảo
hiểm để truyền đạt lại những gì cần truyền đạt, do vậy dẫn đến việc khách hàng hiểu
nhầm và mất lòng tin vào Bảo Việt Hà Nội.

2.3.4. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh
Như chúng ta biết, kết quả kinh doanh được xác định bằng chênh lệch giữa tổng các
khoản thu và tổng các khoản chi. Đối với một doanh nghiệp bảo hiểm, muốn nâng
cao hiệu quả kinh doanh thì cùng với việc phải tăng cường tổng thu còn phải chú ý
đến các khoản chi sao cho việc chi phải hết sức tiết kiệm, chi đúng mục đích và theo
đúng chế độ qui định của Bộ Tài Chính. Trong hoạt động bảo hiểm tại Bảo Việt Hà
Nội hiện nay, khoản thu chủ yếu vẫn là thu từ phí bảo hiểm, hoạt động đầu tư còn
hạn chế nên thu từ hoạt động đầu tư hầu như không có. Do đó, các khoản thu có thể
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

46

thấy được rất dễ dàng thông qua doanh thu phí, còn việc tập hợp các khoản chi có
vẻ phức tạp hơn. Bảng số liệu sau là một minh chứng giúp chúng ta thấy rõ hơn về
thực tế chi cho nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội trong
giai đoạn 1998 -2001.
Thông qua bảng trên ta có thể thấy rằng :
Trong tổng chi thì khoản chi hoa hồng ở hầu hết các năm đều chiếm tỷ trọng chủ
yếu. Riêng năm 2000, có một số vụ cháy lớn diễn ra trên địa bàn Hà Nội dẫn tới
thiệt hại kinh doanh cho người tham gia bảo hiểm, do đó đã khiến cho số tiền bồi
thường tăng lên rất cao chiếm tới 62,1%, đưa số chi hoa hồng xuống hàng thứ hai so
với tổng các khoản chi trong năm. Chi hoa hồng chiếm tỉ trọng cao như vậy chứng
tỏ công ty rất quan tâm tới quyền lợi của đội ngũ cộng tác viên, đại lý, người trực
tiếp khai thác nhằm tăng số hợp đồng được kí kết. Số chi hoa hồng tăng đều đặn
hàng năm, đồng thời như kết quả khai thác chúng ta đã phân tích ở trên cho thấy số
hợp đồng khai thác được hàng năm cũng tăng lên tương ứng, điều đó cho thấy việc
tăng khoản chi hoa hồng là hợp lý so với tốc độ tăng doanh thu. Tuy vậy, trên thực
tế triển khai nghiệp vụ này, rất nhiều hợp đồng trong khoảng 2 năm gần đây kí được
là do các doanh nghiệp tự yêu cầu bảo hiểm, vậy số chi hoa hồng tăng tương ứng
với doanh thu như vậy có phải là dấu hiệu cho thấy Bảo Việt Hà Nội đã chi hoa

hồng cho chính người tham gia bảo hiểm? Thực tế triển khai các nghiệp vụ bảo
hiểm khác tại Bảo Việt Hà Nội không phải là không có hiện tượng này.
Về phía các khoản chi bồi thường thì rõ ràng chúng ta thấy nhìn chung tỉ trọng số
chi bồi thường của nghiệp vụ này trong tổng chi so với các nghiệp vụ khác là rất ít,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

47

ví dụ như so với bảo hiểm cháy tỉ trọng số chi bồi thường trung bình trong 5 năm
trở lại đây vào khoảng 30%, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh có số chi trung bình
trong giai đoạn 1997-2001 là 17,12%. Riêng năm 2000 được đánh giá là năm chi
bồi thường cho nghiệp vụ này lớn nhất trong lịch sử triển khai nghiệp vụ tại Bảo
Việt Hà Nội thì tỉ trọng mới chỉ đạt 62,1% (bảo hiểm cháy có tỉ trọng chi bồi
thường cao nhất trong 5 năm trở lại đây là xấp xỉ 65%). Điều đó chứng tỏ đây là
một nghiệp vụ có tiềm năng mang đến lợi nhuận cao cho công ty.
Ngoài ra, trong các khoản chi thì chi đề phòng hạn chế tổn thất tăng khá chậm qua
các năm 1998 - 1999 cho thấy công ty chưa thực sự đầu tư lớn cho công tác này.
Tuy nhiên, khoản chi này có xu hướng tăng nhanh hơn kể từ năm 2000, có lẽ đó là
do vào năm 2000 xảy ra các vụ cháy lớn gây thiệt hại cho công ty trong công tác bồi
thường cả về nghiệp vụ bảo hiểm cháy và gián đoạn kinh doanh sau cháy đã khiến
cho công ty thấy rõ hơn sự cần thiết của công tác đề phòng hạn chế tổn thất.
Tuy vậy, để đánh giá hiệu quả hoạt động của cả một nghiệp vụ bảo hiểm thì không
thể tách rời việc so sánh, phân tích thu và chi. Do đó, cần thiết phải có một bảng so
sánh như sau:
Như vậy, có thể thấy hầu hết ở các năm cứ 1 đồng chi phí tạo ra hơn 2 đồng doanh
thu và hơn 1 đồng lợi nhuận. Năm 2000 con số này tụt xuống tới mức 1 đồng chi
phí tạo ra được có 0,95 đồng doanh thu và mang đến mức lợi nhuận âm ( -0,05
đồng). Rõ ràng nhìn vào kết quả trên ta thấy rằng cứ tính trung bình 1 đồng chi phí
bỏ ra mang lại doanh thu cũng như lợi nhuận có xu hướng giảm qua các năm. Điều
đó chứng tỏ tốc độ tăng chi phí nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu. Theo kết quả bảng

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

48

5, số chi hoa hồng, chi quản lý, chi đề phòng, hạn chế tổn thất, chi dự trữ và chi
khác đều tăng tương ứng với thu. Vậy việc tăng chi chủ yếu là do tăng về số chi bồi
thường, nếu như vào năm 1998 không có vụ tổn thất nào liên quan tới trách nhiệm
bồi thường, năm 1999 chỉ bồi thường có 10,2 triệu đồng thì tới năm 2000 số tiền bồi
thường lên tới 425 triệu đồng, năm 2001 là 76,4 triệu đồng. Mặc dầu vậy, do đặc
thù của lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm phụ thuộc một phần vào nguyên lý tích luỹ
rủi ro nên sẽ có sự bất thường về rủi ro xảy ra dẫn tới trách nhiệm bồi thường khác
nhau giữa các năm. Do vậy, chúng ta không thể đưa ra kết luận rằng việc tăng chi
phí nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu chứng tỏ công ty hoạt động không hiệu quả
trong quản lý thu chi. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là vì sao số chi cho hạn chế, đề
phòng tổn thất hàng năm đều tăng như vậy mà tổn thất dẫn tới trách nhiệm bồi
thường ngày càng có xu hướng tăng? Liệu có phải là chi phí chi đề phòng, hạn chế
tổn thất không hiệu quả?
Tóm lại, về mặt hiệu quả xã hội, số lượng khách hàng ngày càng được phục vụ
nhiều hơn, uy tín của công ty ngày càng cao, đó là lợi thế rất quí để nghiệp vụ này
có khả năng phát triển. Về góc độ kinh tế thì doanh thu phí cũng như lợi nhuận thu
được từ nghiệp vụ này ngày càng tăng, đó là đáng mừng cho một nghiệp vụ non trẻ
như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
Qua phân tích cả bốn khâu như trên, chúng ta thấy rằng nghiệp vụ bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh là một nghiệp vụ đầy tiềm năng phát triển và có khả năng mang lại
doanh thu cũng như lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Vấn đề nổi cộm nhất hiện nay
khi triển khai công tác này tại Bảo Việt Hà Nội tập trung chủ yếu trong khâu khai
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×