Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Các chính sách và chương trình dân số ở đông á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (893.03 KB, 71 trang )









CÁC CHÍNH SÁCH VÀ CHƯƠNG TRÌNH DÂN SỐ
Ở ĐÔNG Á
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


1

LỜI NÓI ĐẦU

Đây là một trong hai cuốn sách báo cáo kết quả của một dự án do Trung
tâm Đông-Tây đề xướng. Các báo cáo đã được trình bày tại ba hội nghị tổ chức
trong năm 1997: Hội nghị về Dân số và kỳ tích kinh tế ở châu Á (Trung tâm
Đông-Tây, Honolulu, HI, từ 7-10 tháng 1 năm 1997); Diễn đàn tri thức về đà
tăng dân số và kinh tế vĩ mô (Học viện Ngân hàng Thế giới và Trung tâm Đông
Tây, Washington, DC, 21-22 tháng 7 năm 1997) và Hội thảo chính sách về phát
triển kinh tế châu Á: Những triển vọng lâu dài (trường đại học Nihon, Trung tâm
Đông-Tây và Học viện Ngân hàng Thế giới, Tokyo, 20-21 tháng 10 năm 1997).
Cuốn sách thứ hai - Biến động dân số và phát triển kinh tế ở Đông Á: Đương đầu
với thách thức và nắm bắt cơ hội - do nhà in Đại học Standford xuất bản, nghiên
cứu những tác động của biến động dân số đối với kinh tế ở Đông Á.
Ngoài các tác giả còn có rất nhiều người đã đóng góp cho dự án này bằng
cách tham gia các hội nghị, hội thảo, có báo cáo tham luận cũng như cung cấp


các tư liệu có giá trị. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người có tên sau:
Sajeda Amin, Mahluddin Khan Alamgir, Nancy Birdsall, David Bloom, Colin
Bradford, Jeff brown, lee-jay Cho, Minja Kim Choe, Julie DaVanzo, Angus
Deaton, Phil Estermann, Jacques van des Gaag, David Horlacher, Ponciano Intal,
Ir., Andrew Kantner, Mitsuaki Kojima, Toshio kuroda, Sumner La Croix, Karen
Mason, Thomas Merrick, Duck Woo Nam, Naohiro Ogawa, Catherine pierce,
Mathana phananiramai, lant Pritchett, Robert Rethorford, Gerard Russo, Joanne
Salop, T. Paul Schultz, Sara Seims, Yukiyasu Sezai, R. Paul Shaw, Young-Soo
Shin, Hananto Sigit, Steven Sinding, Kenjin Sumida, Krishnamurthy Sundaram,
Ann Takayesu, Noreen Tanouye, Pravin Visaria, Michael Ward, Sidney Westley,
John Williamson và Sharon Yamamoto. Hai cá nhân đã có những đóng góp đặc
biệt: Sandra Ward đã dành thời giờ liên tục biên tập bản thảo cho những cuốn
sách này và Burnham O. Campbell - người góp phần khởi xướng dự án này- đã
trở thành đồng biên tập nếu như anh không mất sớm.
Tài trợ cho dự án này là Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID),
Quỹ tài trợ Rockefeller, Quỹ tài trợ William và Flora Hewlett, Ngân hàng Thế
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


2

giới và Bộ Ngoại giao Nhật Bản (MOFA). Tài trợ của USAID và MOFA được
coi như là một phần của Chương trình hợp tác chung toàn cầu.
DANH SÁCH CÁC TÁC GIẢ
Chirapun Gullaprawit: Phó giám đốc Vụ kế hoạch nguồn nhân lực, Uỷ ban phát
triển kinh tế và xã hội quốc gia, Bangkok.
Shunichi Inoue: Giáo sư, Trường cao đẳng khoa học và nhân văn, Đại học Nihon,
Tokyo.
Tai-Hwan Kwon: Giáo sư xã hội học, Khoa xã hội học, Đại học Quốc gia Seoul.

Paul K.C liu: Viện sĩ Viện Kinh tế, Học viện Sinica, Taipei.
Andrew Mason: Giáo sư kinh tế, Khoa Kinh tế, Đại học Hawai, và ủy viên cao
cấp của Trung tâm Đông-Tây, Honolulu.
N. Haidy A. Pasay: Giáo sư kinh tế, Khoa Kinh tế, Đại học Inđônêsia, Jakarta.
Turro S. Wonngkaren: Trợ giáo nghiên cứu tại Viện Dân số, Khoa Kinh tế, Đại
học Inđônêsia, Jakarta.
Mui teng Yap: Nghiên cứu viên cao cấp, Viện nghiên cứu chính sách, Xinh-ga-
po.











Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


3

TÓM TẮT
Biến động dân số và phát triển kinh tế ở Đông Á: Thách thức và Cơ hội
Biên tập: Andrew Mason

Mục đích của cuốn sách này là đưa ra lời giải đáp toàn diện cho câu hỏi

đơn giản: “Biến động dân số đóng vai trò gì trong sự phát triển kinh tế vượt bậc ở
Đông Á?” Trả lời câu hỏi này là quan trọng bởi thành tựu kinh tế phi thường của
các nền kinh tế Đông Á trong suốt kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ đã trở thành
tâm điểm của các cuộc tranh luận về chính sách phát triển hiện nay. Những
nghiên cứu trước đây đã bỏ qua những biện pháp cơ bản và quan trọng trong đó
có những ảnh hưởng của dân số đối với tăng trưởng kinh tế và hội nhập kinh tế
khu vực. Do đó, những người được giao nhiệm vụ hoạch định và thực hiện các
chương trình nâng cao chất lượng sống trên quy mô thế giới đã không đánh giá
đầy đủ tầm quan trọng của việc giảm đáng kể mức sinh ở Đông Á, giảm tỷ lệ gia
tăng dân số và gắn liền với những thay đổi đó là những biến động về cơ cấu tuổi.
Có hai nhóm vấn đề lớn được đề cập đến. Trước hết là sự biến động nhanh
chóng của dân số có đóng góp cho phát triển kinh tế của Đông Á hay không? Cụ
thể hơn, các xu hướng dân số đã ảnh hưởng đến những khía cạnh nào của phát
triển trong khu vực - tăng trưởng kinh tế, sự bất bình đẳng, địa vị kinh tế của phụ
nữ? Dân số tác động đến các nền kinh tế Đông Á thông qua những cơ chế nào?
Những đặc điểm về thể chế, chính trị, xã hội và kinh tế nào là điều kiện để dân số
tác động đến phát triển? Liệu kinh nghiệm của Đông Á có cung cấp những bài
học hữu ích cho các nước đang phát triển khác hay chỉ là cá biệt? Hai là chính
sách dân số đóng vai trò như thế nào ở Đông Á? Những chính sách và chương
trình nào đã được thực hiện và chi phí là bao nhiêu? Có bằng chứng nào chứng tỏ
chính sách dân số Đông Á đạt được những mục tiêu của mình? Liệu khả năng
phát triển kinh tế nhanh trong khu vực có phải là yếu tố duy nhất dẫn đến những
kết quả của công tác dân số hay không? Hoặc liệu có phải các chính sách dân số
đã đẩy nhanh thời kỳ quá độ chuyển sang mức sinh thấp và làm chậm lại tốc độ
tăng trưởng dân số hay không?
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


4


Những vấn đề này đã được giải quyết thông qua những nghiên cứu cụ thể
kinh nghiệm của sáu nền kinh tế Đông Á thời kỳ 1960-90 bao gồm: Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan, Xinh-ga-po, Thái lan và In-đô-nê-xia. Những cách tiếp cận
riêng biệt của các quốc gia này trong các chính sách dân số đã được so sánh và
những đường hướng quan trọng mà qua đó biến động dân số đã tác động đến sự
phát triển kinh tế cũng được xem xét. Trong số những vấn đề được nghiên cứu
có nội dung tác động của dân số tới năng suất lao động và sự đổi mới, cơ cấu
kinh tế, tiết kiệm, đầu tư, các dòng vốn quốc tế, di cư lao động quốc tế, phát triển
nguồn nhân lực, phân phối thu nhập và địa vị kinh tế của phụ nữ.
Một trong những bài học quan trọng nhất từ kinh nghiệm của Đông Á là
tác động của biến động dân số đối với nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào môi
trường xã hội, kinh tế và chính sách trong thời kỳ quá độ dân số. Trong những
năm 1960, gia tăng nhanh dân số đã bộc lộ một số yếu tố tiềm ẩn cản trở phát
triển kinh tế Đông Á. Các chính sách có hiệu quả và nhiều thể chế không liên
quan trực tiếp đến dân số đã góp phần ngăn ngừa hoặc giảm thiểu những tác động
bất lợi. Gia tăng nhanh dân số đã không làm suy giảm sản lượng lương thực tính
theo đầu người là nhờ có các Viện nghiên cứu được thành lập để phát triển các
loại giống cao sản, một yếu tố cần thiết cho thành công về kinh tế. Việc lực lượng
lao động tăng trưởng nhanh ở Đông Bắc Á đã không dẫn đến nạn thất nghiệp hay
thiếu việc làm ở khu vực nông nghiệp bởi thị trường lao động đã hoạt động tốt
hơn đồng thời nhiều chính sách kinh tế cũng đã rất thành công trong việc thúc
đẩy tăng trưởng các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ.
Tương tự như vậy, những biến động dân số tiếp theo chỉ tạo nên những cơ
hội phát triển kinh tế nhanh hơn. Những tác động tích cực còn phụ thuộc vào
những đặc trưng đa dạng của các quốc gia trong khu vực. Độ vênh giữa tăng
trưởng lực lượng lao động và tăng trưởng dân số chỉ tạo điều kiện thuận lợi vì các
chính sách phát triển – ví dụ như đẩy mạnh xuất khẩu có hiệu quả - đã tạo việc
làm hấp dẫn cho lực lượng lao động đang tăng trưởng nhanh. Biến động dân số
đã đem lại tỷ lệ tiết kiệm cao bởi vì sự ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển của các

thể chế tài chính đã khuyến khích tiết kiệm đồng thời Chính phủ các nước đã hạn
chế được các hệ thống chuyển nhượng quy mô lớn có thể làm suy giảm động cơ
tiết kiệm. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao là có lợi vì các chính sách, đặc biệt là
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


5

chính sách kinh tế vĩ mô ổn định đã giữ tỷ lệ lạm phát ở mức thấp, tạo ra một môi
trường kinh tế trong đó các công ty có thể hoạt động một cách có hiệu quả và duy
trì tốc độ quay vòng vốn cao. Những biến động cơ cấu tuổi của dân số dẫn đến
chi tiêu cho giáo dục lớn hơn vì chính sách công là ưu tiên cao cho giáo dục.
Những thay đổi trong trách nhiệm sinh con của phụ nữ đưa lại hiệu quả kinh tế
thuận lợi vì Chính phủ các nước đã xoá bỏ các luật và chính sách quản lý hành
chính gây phân biệt đối xử với phụ nữ. Tóm lại, những biến động nhanh về dân
số là điều kiện cần nhưng chưa đủ để tăng trưởng nhanh kinh tế. Những thay đổi
về dân số đã tạo ra nhiều cơ hội và các quốc gia Đông Á đã nắm bắt được thông
qua việc theo đuổi các chính sách kinh tế - xã hội và phát triển những thể chế hỗ
trợ các nỗ lực phát triển.
Hiểu được mối quan hệ giữa sự biến động dân số và nền kinh tế sẽ giúp
sáng tỏ hơn tương lai của Đông Á. Nhiều biến động dân số được nghiên cứu
trong các đề tài về bản chất là diễn ra liên tục và sẽ ảnh hưởng đến các nền kinh
tế Đông Á trong nhiều thập niên. Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á
gần đây đã trở thành dĩ vãng nhưng những ảnh hưởng dân số vẫn gây tác động
sâu sắc và chủ yếu. Các điều kiện dân số còn cho phép khu vực này phát triển
kinh tế mạnh mẽ hơn trong một vài thập niên tới, trừ Nhật Bản. Chỉ có thời gian
mới cho câu trả lời chính xác liệu các nước Đông Á có nắm bắt được những cơ
hội tiếp theo hay không.











Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


6

1
Giới thiệu
Andrew Manson

Thế kỷ XX là giai đoạn biến động dân số chưa từng có trong lịch sử. Dân
số toàn cầu đã tăng gần gấp bốn, từ 1,6 tỷ người năm 1900 lên 6 tỷ người năm
2000 (Cohen 1995, App.2, 400-401; UN 1998). Tỷ lệ gia tăng dân số, đặc biệt
trong thế giới đang phát triển, tăng nhanh hơn trong suốt nửa đầu thế kỷ và đạt
đỉnh điểm vào cuối những năm 1960. Phản ứng đối với tình trạng gia tăng nhanh
dân số cũng là chưa từng có trong lịch sử. Những quan ngại về ảnh hưởng của gia
tăng nhanh dân số đối với môi trường và kinh tế đã thúc đẩy Liên Hợp Quốc, các
cơ quan viện trợ song phương của nước ngoài, các tổ chức đa phương cũng như
các quỹ tư nhân đã đầu tư hàng tỷ đô la vào các chương trình dân số. Chính phủ
nhiều nước đang phát triển, đặc biệt ở châu Á, đã theo đuổi mạnh mẽ những
chính sách nhằm làm chậm tốc độ gia tăng dân số.

Các quốc gia Đông Á nằm trong số những quốc gia đi đầu và tích cực
trong chính sách dân số. Ngay từ đầu những năm 1960, nhiều nước đang phát
triển ở Đông Á đã từ bỏ những chính sách khuyến sinh, xác định ổn định dân số
là mục tiêu phát triển quốc gia và đã thông qua rất nhiều chương trình tổng thể
nhằm làm chậm tốc độ gia tăng dân số. Thoáng nhìn, kinh nghiệm Đông Á tưởng
như đã hỗ trợ mạnh mẽ cho các chính sách ổn định dân số. Tỷ lệ sinh và tỷ lệ gia
tăng dân số ở khu vực này đã giảm nhanh hơn so với các khu vực khác của thế
giới đang phát triển cũng như những quốc gia đã hoàn thành công nghiệp hoá.
Trong cùng thời kỳ, các quốc gia Đông Á đã đạt được những thành công về kinh
tế chưa từng có trong lịch sử. Trong ba thập niên, 1960-90, các quốc gia đó đã
chuyển từ khu vực tụt hậu sang khu vực năng động nhất của kinh tế thế giới.
Những đất nước nghèo khổ vào năm 1960 đã được xếp hạng và trong một số lĩnh
vực đã vượt cả những nước có mức thu nhập cao ở phương Tây.
Dự án nghiên cứu được thể hiện trong cuốn sách này là một phần công
việc khảo sát đánh giá các mối quan hệ gắn kết giữa biến động dân số và phát
triển kinh tế ở Đông Á với mục đích xác định liệu biến động dân số nói chung và
chính sách dân số nói riêng, đã đóng vai trò quan trọng như thế nào trong những
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


7

thành công về kinh tế của Đông Á. Kết quả nghiên cứu đã được trình bày trong
hai cuốn sách. Trọng tâm của cuốn sách này là chính sách dân số ở Đông Á.
Những chính sách và chương trình nào đã được thực hiện và mức chi phí là bao
nhiêu? Có bằng chứng nào minh chứng rằng chính sách dân số của các quốc gia
Đông Á đã đạt được các mục tiêu dân số? Những chương trình đó có những đặc
trưng gì để đem lại thành công của các quốc gia này và đưa ra những bài học kinh
nghiệm gì cho các quốc gia khác? Cuốn sách tiếp theo nghiên cứu tác động của

biến động dân số đối với phát triển (Manson- Sắp xuất bản). Cụ thể là, những
lĩnh vực nào của phát triển đã chịu ảnh hưởng của các xu hướng dân số khu vực?
Dân số đã ảnh hưởng đến các nền kinh tế Đông Á thông qua những cơ chế nào?
Những đặc điểm thể chế, chính trị, xã hội và kinh tế nào tạo điều kiện để dân số
ảnh hưởng đến phát triển?
Cuộc nghiên cứu đã kiểm định kinh nghiệm của sáu nền kinh tế Đông Á
thời kỳ 1960-90 gồm: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Xinh-ga-po, Thái Lan và
In-đô-nê-xia. Những quốc gia này được lựa chọn vì một số lý do. Thứ nhất, các
quốc gia đó nằm trong nhóm các quốc gia đang phát triển đầu tiên đạt mức sinh
thấp, thấp đến mức đủ để đạt được tăng trưởng dân số bằng 0 hoặc tăng trưởng
âm, trừ In-đô-nê-xia. Chuyển đổi từ mức sinh cao sang sinh thấp đã được cô đọng
lại vì chúng ta đã thực sự đạt được thành tích trong thời kỳ quá độ dân số và
những đổi thay về kinh tế đi kèm. Những biến động dân số – giảm mức sinh, tăng
tuổi thọ trung bình và những làn sóng cơ cấu tuổi – là khá rõ nét đến mức những
tác động của dân số đối với phát triển sẽ hiện hữu nếu dân số thực sự là vấn đề.
Thứ hai, Chính phủ các quốc gia Đông Á đã sớm thay đổi quyết sách đối
với dân số ngay từ kỷ nguyên hậu Đại chiến thế giới thứ 2. Họ đã từ bỏ quan
điểm đông dân và tăng trưởng dân số là sức mạnh của quốc gia đồng thời theo
đuổi quan điểm tăng trưởng dân số là mối đe doạ đối với các mục tiêu phát triển.
Trong khoảng thời gian tương đối ngắn, các chính sách khuyến sinh đã bị bãi bỏ
và chỉ một thời gian sau, đủ các loại chương trình và chính sách hạn chế sinh đẻ
đã được thông qua. Chính phủ các quốc gia đã tham gia vào các chương trình
giáo dục, tăng cường cung ứng và tổ chức thực hiện các dịch vụ tránh thai, thuyết
phục công dân chấp nhận chuẩn mực gia đình ít con và thực hiện các chính sách
thưởng phạt để khuyến khích các cặp vợ chồng sinh ít con hơn. Tuy nhiên, ở
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


8


những nước được khảo sát này đã không phải sử dụng đến các chương trình
mang tính áp đặt, cưỡng bức giống như chương trình triệt sản bắt buộc tồn tại
trong một thời gian ngắn ở Ấn Độ hay chính sách một con của Trung Quốc.
Thứ ba, kinh nghiệm Đông Á đáng để học hỏi vì môi trường thực thi chính
sách chưa thật hoàn thiện. Nhiều học giả vẫn khư khư quan điểm rằng gia tăng
nhanh dân số làm tăng chi phí của chính sách kinh tế nghèo nàn. Tuy vậy, cũng
không thấy rõ lắm tác động của các biến dân số trong một môi trường hoạch định
và thực thi chính sách chưa hoàn thiện. Dĩ nhiên, các quốc gia Đông Á cũng đã
mắc phải những sai lầm, ví dụ như những sự kiện xảy ra gần đây đã minh chứng
khá thuyết phục, nhưng vài nước đã đạt được thành tích trước kỷ nguyên hậu Đại
chiến thế giới thứ 2.
Tuy kinh nghiệm có thể chia sẻ được của sáu nền kinh tế này đã thúc đẩy
tìm tòi nghiên cứu song những khác biệt giữa các quốc gia này cũng đáng để học
hỏi. Những nền kinh tế này bao trùm phạm vi khá rộng về những điều kiện thực
tế về phát triển và dân số. Mức thu nhập ở Nhật Bản và Xinh-ga-po rõ ràng cao
hơn ở Thái Lan và In-đô-nê-xia vào năm 1960. Trung bình mỗi phụ nữ Nhật Bản
chỉ sinh hai con vào năm 1960, trong khi đó mức sinh ở In-đô-nê-xia chỉ mới bắt
đầu giảm vào những năm cuối của thập niên 60. In-đô-nê-xia và Nhật Bản nằm
trong số những nước có quy mô dân số lớn nhất thế giới trong khi Xinh-ga-po
nằm trong số những nước có quy mô dân số nhỏ nhất. Nhập cư là một thành tố
quan trọng trong biến động dân số chỉ ở Xinh-ga-po, ngoài ra không xuất hiện ở
các quốc gia khác. Những khác biệt về dân số và kinh tế của các vùng ở Thái Lan
và In-đô-nê-xia là khá quan trọng để hiểu được về sự phát triển của hai quốc gia
này và giúp thấy rõ hơn so với trường hợp của Đài Loan hay Hàn Quốc. Vào
khoảng năm 1960, các nước Đông Bắc Á có mật độ dân cư cao nhưng lại hạn chế
về nguồn tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, vào năm 1960 Thái Lan vẫn đang sử
dụng đất đai vào canh tác và trong suốt thập niên 70 In-đô-nê-xia phát triển chủ
yếu do có trữ lượng dầu mỏ lớn.
THÀNH CÔNG CỦA ĐÔNG Á

Trong thập niên 50, các nước Đông Á còn nghèo nàn và triển vọng chưa có
gì hứa hẹn. Năm 1960, thu nhập bình quân đầu người hàng năm của Nhật Bản đã
tăng xấp xỉ 3.000 đôla Mỹ, chưa bằng một phần ba mức thu nhập của Mỹ. Tuy
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


9

nhiên, ở các quốc gia khác, GDP bình quân đầu người hàng năm dao động từ
mức thấp 600 đôla Mỹ ở In-đô-nê-xia đến mức cao 1.700 đôla Mỹ ở Xinh-ga-po
2.

Ngoại trừ Nhật Bản và Thái Lan, lịch sử chịu ách đô hộ của nước ngoài đã làm
suy yếu sự phát triển của những thể chế mạnh về chính trị và kinh tế. Sự giàu có
và các thể chế tồn tại ở khu vực này đã bị các cuộc cách mạng và chiến tranh tàn
phá - Đại chiến thế giới thứ 2, nội chiến ở Trung Quốc và chiến tranh Liên Triều.
Tỷ lệ tiết kiệm/tích luỹ và đầu tư quá thấp đã cản trở những nỗ lực tái thiết cơ sở
vật chất và thực hiện công nghiệp hoá. Các nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp,
đặc biệt là ở Đông Bắc Á, triển vọng tăng sản lượng lương thực hoặc tăng việc
làm trong nông nghiệp xem ra có vẻ ảm đạm do hạn chế cấp đất nông nghiệp.
Ngoại trừ In-đô-nê-xia có trữ lượng dầu mỏ lớn, các quốc gia khác rất nghèo về
tài nguyên thiên nhiên.
Tỷ lệ gia tăng nhanh dân số duy trì liên tục qua các năm thực sự đã trở
thành mối quan tâm. Cả Đài Loan và Hàn Quốc đã trải nghiệm những luồng dân
cư lớn. Hơn một triệu người Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc đã bỏ chạy khỏi
Đại lục sang Đài Loan trong năm 1949 và 1950. Hàn Quốc trải qua hai cuộc di
dân trên qui mô lớn - lần thứ nhất là sự kiện hồi hương của người Triều Tiên sau
thất bại của Nhật Bản trong Đại chiến thế giới thứ 2 và lần thứ hai là dòng người
từ Bắc Triều Tiên tràn sang Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) khi Trung Quốc tham

gia chiến tranh Liên Triều. Tuy nhiên, những năm cuối của thập niên 50 và đầu
thập niên 60, dân số tăng nhanh do mức chết giảm và mức sinh cao. Mức sinh đã
giảm ở Nhật Bản, nhưng ở những quốc gia khác trung bình mỗi phụ nữ vẫn sinh
khoảng sáu con trong suốt thời kỳ sinh sản của mình. Do tình hình tử vong trong
những năm đầu của thế kỷ XX, nhiều trẻ em đã chết trong những năm đầu đời.
Song tỷ suất chết trẻ sơ sinh và trẻ em đã giảm đáng kể dẫn đến quy mô gia đình
ngày càng lớn và dân số gia tăng ngày một nhanh.
Có một số điểm cần lưu ý là mức độ bất bình đẳng trong sở hữu của cải và
thu nhập ở Đông Bắc Á là tương đối thấp. Đó là hậu quả đồng thời của sự tàn phá
trong thời gian chiến tranh và các chương trình cải cách ruộng đất lớn ở Đài Loan
và Hàn Quốc. Ở cả hai địa bàn này tỷ lệ biết đọc biết viết là tương đối cao và có
nguồn nhân lực đã qua đào tạo đáng kể. Những nỗ lực tái thiết đất nước đã nhận
được trợ giúp to lớn từ nước ngoài, đặc biệt là Mỹ.
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


10

Không ai dự đoán được thành quả kinh tế mà các quốc gia Đông Á sẽ được
hưởng trong những thập niên tới. Sự tăng trưởng kinh tế khác thường bắt đầu ở
Nhật Bản trong thập niên 50, ở Hàn Quốc, Đài Loan, Xinh-ga-po, Thái Lan trong
thập niên 60 và ở In-đô-nê-xia trong thập niên 70. Trong thời kỳ 1960-90, tổng
sản phẩm quốc nội bình quân đầu người thực tế hàng năm tăng trên 6% ở Hàn
Quốc, Xinh-ga-po, Đài Loan, 5,3% ở Nhật Bản, 4,4% ở Thái Lan và 3,8% ở In-
đô-nê-xia. Cùng thời kỳ, tăng trưởng của Mỹ chỉ đạt trung bình 2%/năm. Thu
nhập bình quân đầu người hàng năm ở Hàn Quốc tăng từ 900 đôla Mỹ năm 1960
lên 6.700 đôla Mỹ năm 1990 và tương ứng ở Xinh-ga-po là 1.700 đôla Mỹ lên
11.700 đôla Mỹ (Summer và Heston 1991).
Việc tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm chỉ là một trong những

nét đặc trưng của thành tựu kinh tế trong khu vực. Mặc dù quỹ đất nông nghiệp bị
hạn chế nhưng sản lượng lương thực vẫn tăng nhanh nên vấn đề gia tăng dân số
dễ bị bỏ qua. Tăng trưởng trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ đã tạo đủ việc
làm thích ứng với việc gia tăng nhanh dân số trong độ tuổi lao động đồng thời
tăng khả năng tiếp nhận lao động nữ. Giáo dục đã có nhiều tiến bộ đáng kể và cơ
bản đã xóa nạn mù chữ. Tỷ lệ tích lũy vốn và đầu tư tăng ở mức cao và những
nền kinh tế tiên tiến hơn đã trở thành những chủ nợ chủ chốt trong thị trường vốn
quốc tế. Địa vị của người phụ nữ ở nhiều quốc gia được cải thiện với việc giảm
đáng kể khoảng cách về giới trong duy trì học tập, việc làm và tiền lương.
Biến động dân số ở Đông Á cũng gây ấn tượng sâu sắc không kém những
thay đổi về kinh tế. Tỷ suất chết sơ sinh và trẻ em đã xuống tới mức thấp, đồng
thời tuổi thọ bình quân lúc sinh đã gần đạt mức của phương Tây (riêng Nhật Bản
cao hơn). Mức sinh giảm từ mức cao xuống mức thấp diễn ra với tốc độ khá kinh
ngạc. Trong tất cả các quốc gia có mức sinh cao vào năm 1960, chỉ có sáu quốc
gia và vùng lãnh thổ có mức sinh trung bình 2 con và dưới 2 con vào năm 1990.
Đó là: Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Xinh-ga-po, Hồng Kông và Trung Quốc.
Trong 36 nước có thu nhập bình quân đầu người hàng năm dưới 1.000 đô la Mỹ
và dân số trên 2 triệu người vào thời điểm 1960, chỉ có 5 quốc gia đã đạt được
mức sinh trung bình dưới 3 con vào năm 1990 là: Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái
Lan, In-đô-nê-xia và Ru-ma-ni (Feeney và Mason – sắp xuất bản).
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


11

Những biến động về mức sinh, mức chết tác động đến hai biến dân số quan
trọng khác là tăng trưởng dân số và cơ cấu tuổi của dân số. Vào những năm đầu
của thập niên 90, tỷ lệ tăng trưởng dân số ở Nhật Bản đã giảm trung bình 0,2 %
mỗi năm. Tỷ lệ tăng trưởng dân số ở Hàn Quốc, Đài Loan, Xinh-ga-po và Thái

Lan đã giảm trung bình khoảng 1% mỗi năm. Ở In-đô-nê-xia, nơi mức sinh giảm
hơi muộn hơn một chút, thì tỷ lệ tăng trưởng dân số đã giảm trung bình xuống
1,6% mỗi năm trong giai đoạn 1990-94. Cho dù các quốc gia Đông Á đã điều
chỉnh để dân số tăng trưởng chậm hơn, song vẫn không tránh khỏi việc tăng dân
số với quy mô lớn. Trong thời kỳ 1950-95, dân số Nhật Bản tăng khoảng 50%,
dân số Hàn Quốc và In-đô-nê-xia tăng hơn gấp đôi còn dân số Đài Loan, Xinh-
ga-po và Thái Lan tăng gần gấp ba (Feeney và Mason – sắp xuất bản).
Tại sao dân số tăng lên nhiều đến vậy mặc dù mức sinh đã giảm khá ấn
tượng? Hiện tượng được gọi là đà tăng dân số này diễn ra vì dân số liên tục tăng
nhanh tạo nên cơ cấu tuổi đặc trưng khiến cho dân số tăng. Tỷ lệ lớn dân số của
các nhóm tuổi trẻ, trưởng thành đang trong độ tuổi sinh đẻ và chỉ có một tỷ lệ
nhỏ những người thuộc nhóm dân số già có nguy cơ tử vong cao hơn. Cơ cấu tuổi
như vậy sẽ dẫn đến mức sinh cao, mức chết thấp và do đó dân số tăng nhanh hơn.
Cơ cấu tuổi thay đổi chậm vì mức sinh đã thấp hơn và tuổi thọ bình quân lúc sinh
cao hơn. Chỉ khi tỷ lệ dân số trong tuổi sinh đẻ giảm xuống và tỷ lệ dân số có
mức chết cao hơn tăng lên thì tốc độ tăng trưởng dân số mới chậm lại. Rốt cuộc
dân số sẽ chỉ dừng tăng trưởng nếu trung bình mỗi phụ nữ sinh khoảng hai con
trong suốt cuộc đời của họ (mức sinh thay thế) hay nếu mức sinh giảm xuống
dưới mức thay thế thì dân số sẽ suy giảm.
Dự báo dân số Nhật Bản bắt đầu giảm xuống trong thập niên này, nhưng ở
các quốc gia Đông Á khác dân số sẽ tiếp tục tăng trưởng ít nhất trong một vài
thập niên nữa. Các phương án dự báo dân số của Liên Hợp Quốc gần đây dự kiến
dân số Thái Lan sẽ tiếp tục tăng trưởng đến năm 2040 và dân số In-đô-nê-xia sẽ
còn tăng trưởng đến năm 2045-2050 là giai đoạn cuối của các phương án dự báo
này (UN 1998). Tuy nhiên, kỷ nguyên gia tăng nhanh dân số đã kết thúc ở Đông
Á và quy mô dân số đã ít hơn nhiều so với trường hợp nếu vẫn tiếp tục duy trì
mức sinh ở mức cao hay chỉ giảm từ từ.
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế



12

Những biến động trong cơ cấu tuổi ở các quốc gia Đông Á là khá lớn và
diễn ra nhanh hơn so với các quốc gia khác. Đặc biệt quan trọng đối với tăng
trưởng kinh tế là những biến động về quy mô dân số trong độ tuổi lao động liên
quan đến dân số phụ thuộc, tức là những người quá trẻ hoặc quá già không thể
lao động. Hầu hết các quốc gia Đông Á đã trải qua ba giai đoạn. Trong giai đoạn
đầu, dân số phụ thuộc tăng nhanh hơn dân số lao động do mức chết sơ sinh và trẻ
em giảm khiến cho số trẻ con tăng nhanh trong tổng dân số. Trong giai đoạn thứ
hai, dân số lao động tăng nhanh hơn dân số phụ thuộc. Số trẻ em phụ thuộc ổn
định do mức sinh thấp hơn, song dân số lao động tiếp tục được bổ sung từ những
nhóm dân số trẻ. Giai đoạn hai chi phối những biến động về cơ cấu tuổi ở Đông
Á trong suốt giai đoạn 1960-90. Nhật Bản đã bước vào giai đoạn thứ ba và những
quốc gia khác sẽ theo sau trong những thập niên tới. Trong giai đoạn ba tăng
trưởng của dân số trong độ tuổi lao động sẽ chậm lại trong khi dân số phụ thuộc
già tiếp tục tăng nhanh. Vậy là, dân số lao động sẽ giảm tương quan với tăng dân
số phụ thuộc.
Ba giai đoạn này được thể hiện bởi tỷ lệ hỗ trợ kinh tế, thể hiện sự tương
quan giữa dân số lao động và dân số tiêu dùng
3
. Biểu đồ I.1 cho thấy tỷ lệ hỗ trợ
của Đông Nam Á. Trong giai đoạn thứ nhất 1950-60, tỷ lệ hỗ trợ bị giảm rõ rệt.
Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ những năm 1970 và dự kiến kéo dài 50 năm. Trong
giai đoạn này, ước tính số người lao động bình quân cho một người tiêu dùng sẽ
tăng từ 0,50 lên 0,62 (tăng 24%). Những năm đầu của thập niên tới, tỷ lệ hỗ trợ
dự kiến sẽ bắt đầu đi xuống và kéo dài liên tục. Đồ thị của tỷ lệ hỗ trợ được thể
hiện ở phía dưới biểu đồ I.1. Trục tung cho thấy tỷ lệ tăng trưởng trung bình hàng
năm của từng thập niên. Trục hoành biểu thị ba giai đoạn và tỷ lệ tăng trưởng
trung bình trong mỗi giai đoạn.

Các mô hình khác nhau của tỷ lệ hỗ trợ và những nét đặc trưng của Đông
Á được thể hiện rõ trong biểu đồ I.2. Ở Hàn Quốc và In-đô-nê-xia, giai đoạn tăng
trưởng của tỷ lệ hỗ trợ được dự báo kéo dài 50 năm và tỷ lệ tăng hàng năm là
đáng kể. Đài Loan và Xinh-ga-po đã trải qua những thay đổi tương tự (không thể
hiện trên biểu đồ). Những biến động cơ cấu tuổi ở Thái Lan và Phi-líp-pin cũng
có triển vọng, nhưng tỷ lệ hỗ trợ tăng ít hơn một chút so với In-đô-nê-xia và Hàn
Quốc. Hiện tại Nhật Bản đã hoàn tất giai đoạn tăng trưởng. Ở Ấn Độ, nơi mức
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


13

sinh bắt đầu giảm muộn hơn và giảm chậm hơn so với Đông Á, giai đoạn tăng
trưởng của tỷ lệ hỗ trợ vừa ngắn về thời gian đồng thời chỉ ở mức khá khiêm tốn.
Ở Băng-la-đét, nơi mà mức sinh giảm khá nhanh trong những năm gần đây, xu
hướng về tỷ số hỗ trợ có triển vọng tốt hơn.
Những phân tích đưa ra trong cuốn Biến động dân số và phát triển kinh tế
ở Đông Á: Đương đầu với thách thức và nắm bắt cơ hội (Manson sắp xuất bản)
nhằm nghiên cứu sự gắn kết giữa những biến động dân số quan trọng diễn ra ở
Đông Á và những biến kinh tế chủ yếu như đổi mới công nghệ, năng suất lao
động, tích luỹ và đầu tư, dòng vốn quốc tế, y tế, giáo dục, thu nhập bình quân đầu
người, và bất bình đẳng
4
. Những kết quả đã được mô tả ngắn gọn ở đây trước khi
trở lại kết quả nghiên cứu được trình bày trong cuốn sách này.
Biểu đồ I.1: Tỷ số hỗ trợ của Đông Nam Á








Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


14

NHỮNG THÁCH THỨC DO TĂNG TRƯỞNG DÂN SỐ
Năm 1960, các quốc gia Đông Á phải đối mặt với hai thách thức – cung
cấp lương thực cho dân số đang gia tăng nhanh và cung ứng việc làm phù hợp
cho lực lượng lao động cũng đang gia tăng nhanh, trong đó phần lớn là lao động
trong lĩnh vực nông nghiệp (trừ Nhật Bản và Xinh-ga-po). Mặc dù tốc độ sinh đẻ
giảm nhưng dân số vẫn tăng đáng kể vì những nguyên nhân bất khả kháng đã nói
ở trên. Chính sách dân số, dù có hiệu quả thế nào đi nữa, cũng không thể một
sớm một chiều đạt được sự ổn định dân số. Tuy nhiên, với một ngoại lệ quan
trọng, tăng trưởng dân số đã không gây cản trở đối với những nỗ lực phát triển
của Đông Á.
Biểu đồ I.2. Tỷ lệ tăng trưởng (%) của tỷ lệ hỗ trợ từ kinh tế
tại một số quốc gia châu Á


















Thách thức về lương thực đã được giải quyết thành công rực rỡ. Mặc dù
quỹ đất nông nghiệp bị hạn chế nhưng sản lượng lương thực bình quân đầu người
tăng 36 % ở châu Á và 47% ở Đông Á trong thời kỳ 1963-92. Trong cùng thời
kỳ, sản lượng lương thực bình quân đầu người ở Mỹ La tinh chỉ tăng 13% và
thậm chí còn giảm 7% ở châu Phi. Thành công của Đông Á là do sản lượng nông
nghiệp tăng rất cao. Nhu cầu về lương thực tăng chủ yếu là do gia tăng dân số
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


15

cộng với giá phân bón giảm đáng kể giúp cho việc phát triển nhiều giống gạo, lúa
mì mới có sản lượng cao (Hayami – sắp xuất bản)
Thách thức việc làm ở Đông Bắc Á đã được giải quyết thành công hơn ở
Đông Nam Á. Ở Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc, nơi mà quỹ đất rất hạn chế,
những cơ hội việc làm được tạo ra thông qua việc chuyển đổi cơ cấu công nghiệp
và cơ cấu ngành nghề. Mặc dù lực lượng lao động nói chung vẫn tăng nhưng lực
lượng lao động nông nghiệp giảm 4% mỗi năm ở Nhật Bản, 2% ở Đài Loan và
1% ở Hàn Quốc trong thời kỳ 1960-90. Các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ được
mở rộng nhanh chóng đến mức giá trị của đất không còn gắn với việc làm. Thái

Lan và In-đô-nê-xia đã có cách giải quyết hơi khác một chút đối với việc gia tăng
nhanh của lực lượng lao động. Trong giai đoạn này ở cả hai quốc gia, đất đai
canh tác vẫn tăng. Cụ thể, Thái Lan đã tìm cách thu hút số lượng lớn lao động
nông nghiệp cùng lúc với việc giảm không đáng kể diện tích đất trồng trọt bình
quân đầu người lao động nông nghiệp. Trong số những quốc gia được lựa chọn
khảo sát trong nghiên cứu này, chỉ có In-đô-nê-xia đã có sự sụt giảm đáng kể về
diện tích đất trồng trọt bình quân đầu người lao động nông nghiệp. Việc làm phi
nông nghiệp cũng phát triển rất nhanh ở Thái Lan và In-đô-nê-xia, nhưng năm
1960 các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ còn rất nhỏ đến nỗi sự tăng trưởng nhanh
của các quốc gia này không đủ để thu hút số lượng lớn lao động mới. Ở hai quốc
gia này, năng xuất lao động trong khu vực nông nghiệp tăng chậm hơn rất nhiều
so với trong khu vực phi nông nghiệp. Điều này không những chỉ là trở ngại cho
tăng trưởng kinh tế mà còn là nguồn gốc của bất bình đẳng (Manson – sắp xuất
bản).
Hồi cứu lại, chính những e ngại về ảnh hưởng của phát triển đối với tăng
trưởng dân số đã bị cường điệu hóa ở Đông Á. Dân số tăng trưởng đáng kể ở
Đông Bắc Á không có những tác động bất lợi đối với kinh tế và thực tế này đã
được chỉ ra một cách rõ ràng và ở Nam Á chỉ có những khó khăn vừa phải. Tuy
nhiên, cần lưu ý một số điểm. Thứ nhất là những tác động bất lợi của tăng trưởng
dân số có thể tránh được, một phần là do trên thực tế tăng trưởng dân số đã chậm
lại trong suốt giai đoạn này.
Thứ hai, tuy kết quả thuận lợi ở Đông Á không phải là tất yếu, nhưng đó là
sự kết hợp của chính sách phát triển có hiệu quả với môi trường kinh tế thuận lợi.
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


16

Kinh nghiệm Đông Á về sự đổi mới nông nghiệp chứng minh cho quan điểm này.

Thậm chí, trong nửa đầu của thập niên 60, dân số đã tăng đáng kể, giá phân bón
giảm, các giống cao sản đã thích nghi với vùng ôn đới và đã đạt được nhiều tiến
bộ lớn mặc dù những nỗ lực vừa phải. Tuy nhiên, việc tăng sản lượng không gây
ấn tượng sâu sắc cho đến sau năm 1965, khi đưa ra một quyết định xã hội nhằm
đầu tư cho nghiên cứu mà lẽ ra đã không xảy ra. Bên cạnh đó, so với các khu vực
khác trên thế giới, châu Á có những hệ thống vận chuyển và tưới tiêu phát triển
khá tốt. Đây chính là những nhân tố cơ bản của cách mạng xanh. Cả hai việc: nỗ
lực nghiên cứu và hệ thống cơ sở hạ tầng đều đòi hỏi phải có những thể chế chính
trị có thể nhận biết và đáp ứng một cách có hiệu quả những nhu cầu của cộng
đồng (Hayami – sắp xuất bản).
Thứ ba là sự thay đổi nhanh chóng của cơ cấu tuổi, sinh đẻ và tuổi thọ
bình quân đã tạo ra những cơ hội tăng trưởng kinh tế nhanh chóng hơn ở Đông Á
ngay cả khi tăng trưởng dân số chậm đi. Những cơ hội này thể hiện dưới ba dạng:
Sự khác biệt khá lớn giữa tăng trưởng dân số và tăng trưởng lực lượng lao động
tiềm năng; những thay đổi trong chính sách khuyến khích và cơ cấu tuổi tạo điều
kiện thuận lợi giúp cho tỷ lệ tích luỹ và đầu tư cao hơn; và những thay đổi trong
chính sách khuyến khích và cơ cấu tuổi đã giúp cho đầu tư nhiều hơn cho nguồn
nhân lực. Phần chính của câu chuyện thành công của Đông Á chính là cách mà
khu vực này đã nắm bắt các cơ hội.
BIẾN ĐỘNG DÂN SỐ VÀ CÁC CƠ HỘI PHÁT TRIỂN
Trong thời kỳ 1960-90 đã có sự cách biệt lớn giữa tăng trưởng lực lượng
lao động và tăng trưởng dân số khi mà lực lượng lao động trong khu vực tăng
hơn 25% so với dân số, dẫn đến thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 0,6%
mỗi năm. Lực lượng lao động tăng trưởng chậm đi rất nhiều so với tăng trưởng
dân số do những biến động có lợi về cơ cấu tuổi và do phụ nữ tham gia lực lượng
lao động ngày một tăng. Việc phụ nữ tham gia nhiều trong lực lượng lao động
chính thức có thể định ra hàng loạt đổi thay phức hợp, trong đó phải kể đến
những thay đổi về dân số (tuổi kết hôn lần đầu muộn hơn và giảm khả năng sinh
sản), những đổi thay về kinh tế (tiền lương tăng và cơ cấu việc làm cũng thay
đổi) cũng như những thay đổi về chính trị (thay đổi về bộ luật thuế và những

chính sách phân biệt đối xử) (xem Bauer – sắp xuất bản, Okunishi – sắp xuất bản)
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


17

Sự gia tăng ấn tượng những khoản tiết kiệm và đầu tư thường được viện
dẫn như những nguồn tăng trưởng kinh tế quan trọng ở Đông Á (Bauer – sắp xuất
bản). Tác động của dân số đối với tỷ lệ tiết kiệm/tích luỹ và đầu tư là một vấn đề
gây tranh cãi và sẽ được nghiên cứu kỹ lưỡng trong dự án này. Những nghiên cứu
gần đây cho thấy những biến động về cơ cấu tuổi, sinh đẻ và tuổi thọ bình quân
có ảnh hưởng đến tỷ lệ tiết kiệm/tích luỹ, nhưng đánh giá về quy mô ảnh hưởng
thì rất khác nhau ở mỗi nghiên cứu (Williamson và Higgins – sắp xuất bản, Lee,
Mason và Miller – sắp xuất bản, 2000, Toh – sắp xuất bản và Deaton và Paxson
2000). Việc đánh giá “ôn hòa” về tác động của tiết kiệm đi đến kết luận là tỷ lệ
tiết kiệm/tích luỹ và đầu tư cao hơn là do những biến động dân số. Điều này giải
thích nguyên nhân tăng năng suất lao động lên khoảng
1
/
5
. Kết hợp với sự khác
nhau giữa tăng trưởng dân số và tăng trưởng lực lượng lao động, xem ra dân số
học giải thích được nguyên nhân sản lượng bình quân đầu người ở Xinh-ga-po và
Đông Bắc Á tăng thêm khoảng ¼ trong thời kỳ 1960-90.
Ở Thái Lan, In-đô-nê-xia, trước năm 1990, dân số trong nước ít ảnh hưởng
đến độ chênh giữa tăng trưởng dân số lao động và tăng trưởng dân số chung, tỷ lệ
tiết kiệm và đầu tư. Quá độ dân số ở 2 quốc gia này diễn ra muộn hơn so Xinh-
ga-po và Đông Bắc Á. Thí dụ như ở Đài Loan, dân số đã tạo điều kiện thuận lợi
để tiết kiệm/ tích lũy vào khoảng năm 1970, nhưng với Thái Lan 10 năm sau mức

sinh mới bắt đầu giảm và với In-đô-nê-xia còn muộn hơn. Ở Thái Lan và In-đô-
nê-xia, khoảng cách chênh lệch giữa tăng trưởng dân số và tăng trưởng dân số
tuổi lao động là nhỏ hơn. Ngoài ra, những quốc gia này cũng ít thành công hơn
trong việc tận dụng lực lượng lao động tăng trưởng nhanh để nâng cao thu nhập
bình quân đầu người bởi vì, như đã giải thích ở trên, các quốc gia này ít thành
công hơn trong việc thu hút lực lượng lao động vào những khu vực phi nông
nghiệp có giá trị gia tăng cao hơn. Thái Lan và In-đô-nê-xia đã được hưởng lợi
do những thay đổi về điều kiện dân số ở Nhật Bản, một quốc gia đã trở thành
nguồn cung cấp vốn chủ yếu trong thập niên 80. Phần nào đó có thể thấy, thặng
dư tài chính khổng lồ hiện nay của Nhật Bản đã tác động đến địa vị của dân số
trong việc cung cấp tiền tiết kiệm và những nhu cầu về vốn (Williamson và
Higgins – sắp xuất bản)
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


18

Những biến động dân số ở Đông Á đã có những tác động thuận lợi đến sức
khoẻ và giáo dục trẻ em, nhưng những cải thiện nguồn nhân lực đã ảnh hưởng
không đáng kể đến bản thân sự tăng trưởng kinh tế trước năm 1990. Dân số bắt
đầu tác động tích cực đến đầu tư cho nguồn nhân lực vào khoảng năm 1970 hoặc
sau đó, trừ Nhật Bản. Vì sự lệch pha vốn có giữa việc đầu tư cho trẻ em với việc
tận dụng các đặc trưng của dân số trưởng thành và người lao động, giảm sinh
không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng lực lượng lao động cho mãi đến những
năm 1980 hoặc sau đó. Những ảnh hưởng của nguồn nhân lực là quan trọng,
nhưng người ta sẽ chỉ cảm nhận được nhiều hơn trong tương lai so với những gì
đã chứng kiến trong thời gian qua. Tất nhiên, những cải thiện về sức khoẻ và giáo
dục trẻ em đã góp phần trực tiếp hơn đến sự thịnh vượng theo những cách không
bị ràng buộc bởi những thước đo kinh tế thông thường như thu nhập bình quân

đầu người (Ahlburg và Jensen – sắp xuất bản, Jensen và Ahburg – sắp xuất bản).
Với những thu nhập trong sản xuất nông nghiệp đã trích dẫn ở trên, việc
gia tăng mạnh mẽ công ăn việc làm, tăng tỉ lệ tiết kiệm và đầu tư cũng như đầu
tư lớn vào nguồn nhân lực không phải là kết quả thường thấy do sự thay đổi dân
số học ở Đông Á. Nạn thất nghiệp đang tăng lên là một khả năng dẫn đến việc gia
tăng mạnh mẽ công ăn việc làm. Một loạt các chính sách phát triển thành công
đã nhanh chóng tạo ra những cơ hội việc làm rộng lớn. Những cơ hội này bao
gồm cả những chiến lược hướng ngoại đã khuyến khích các tổ chức kinh doanh
trong nước cạnh tranh trên thị trường toàn cầu; những chính sách vĩ mô nhất quán
đã bảo đảm tỉ lệ lạm phát thấp, ngăn ngừa thất thoát vốn và thúc đẩy hiệu quả
kinh tế; sử dụng các khuyến khích tài chính, tiền trợ cấp và các phương tiện tín
dụng để thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp then chốt. Tương tự,
tăng cường đầu tư vào con người và vốn tự nhiên không những là kết quả tất yếu
của thay đổi dân số học mà còn phụ thuộc vào những chính sách thúc đẩy việc
tiết kiệm và tăng chi phí cho giáo dục.
NHỮNG CHÍNH SÁCH VÀ CHƯƠNG TRÌNH DÂN SỐ
Các chương trong cuốn sách này cung cấp đầy đủ các dẫn chứng về các
chương trình và chính sách được thực hiện trong kỷ nguyên hậu Đại chiến thế
giới thứ 2, động cơ của những chính sách đó, chi phí của các chương trình đồng
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


19

thời đánh giá đóng góp của những chính sách và chương trình này đối với kết quả
giảm sinh nhanh ở Đông Á.
Các quốc gia Đông Á vẫn theo đuổi tư tưởng và chính sách khuyến sinh
cho đến nửa sau của thế kỷ XX. Inoue đã mô tả tình hình ở Nhật Bản trong
chương tiếp theo (Chương 2). Chính phủ Meiji của Nhật Bản đã không những

nghiêm cấm các hành vi đe doạ tính mạng của trẻ em, nạo phá thai mà còn cấm
sản xuất và phân phối phương tiện tránh thai vì Chính phủ này coi đông dân là
yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh quân sự và kinh tế của Nhật Bản (Inoue,
Chương 2). Tôn Trung Sơn, người sáng lập Cộng hoà Trung Hoa tin tưởng rằng
làm giảm tốc độ tăng trưởng dân số sẽ làm giảm sức mạnh của dân tộc (Liu,
Chương 4). Chính phủ Thái Lan đã thưởng tiền cho những gia đình đông con từ
cuối năm 1956 (Gullaprawit, chương 6). Ở In-đô-nê-xia, tổng thống Su-các-nô
không quan tâm đến việc dân số gia tăng nhanh và những nỗ lực kế hoạch hoá gia
đình không được giáo chức và cộng đồng chấp nhận rộng rãi (Pasay và
Wongkaren, Chương 7).
Cuối thập niên 50, đầu thập niên 60, những tư tưởng ủng hộ việc đông dân
đã nhường chỗ cho những quan ngại về hậu quả và hệ luỵ của việc gia tăng
nhanh dân số. Mặc dù có một vài nhóm chính trị gia phản đối nhưng Chính phủ
các quốc gia vẫn khởi xướng một cách thận trọng những nỗ lực nhằm giảm tỷ lệ
gia tăng dân số. Chính phủ các quốc gia bắt đầu dỡ bỏ những rào cản pháp lý đối
với việc giảm sinh. Nhật Bản dẫn đầu khuynh hướng này, đã hợp pháp hoá việc
sản xuất, phân phối hầu hết các loại thuốc và phương tiện tránh thai của các công
ty tư nhân. (Tuy nhiên, gần đây viên uống tránh thai mới được hợp pháp hoá)
Năm 1948, thực chất Nhật Bản đã hợp pháp hoá dịch vụ nạo phá thai, cho phép
thực hiện thủ thuật nếu thai kỳ đe doạ sức khoẻ hoặc tình trạng kinh tế của phụ
nữ mang thai (Inoue, chương 2). Năm 1961, Hàn Quốc đã bãi bỏ điều luật cấm
nhập khẩu hoặc sản xuất phương tiện tránh thai. Ở In-đô-nê-xia, Bộ Y tế bãi bỏ
việc cấm phân phối phương tiện tránh tránh thai trong thập niên 60. Chính phủ
các quốc gia đã vào cuộc cùng với các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh
vực kế hoạch hoá gia đình mới được thành lập trong khu vực. Các tổ chức tư
nhân như Hội Dân số và Phát triển Cộng đồng của Thái Lan, Quỹ KHHGĐ của
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế



20

In-đô-nê-xia và Hội KHHGĐ của Hàn Quốc đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong giai đoạn quá độ này.
Với những tốc độ nhập cuộc khác nhau, Chính phủ ở các quốc gia trong
khuôn khổ của nghiên cứu này đã can thiệp ngày một nhiều trong các chính sách
và chương trình dân số. Các nhóm chính trị và tôn giáo chủ yếu đã thừa nhận
tầm quan trọng của việc giảm tốc độ tăng trưởng dân số đối với phát triển. Chính
phủ các quốc gia cũng đã phê duyệt các kế hoạch phát triển quốc gia với những
chỉ tiêu cụ thể về giảm gia tăng dân số. Họ đã khởi xướng các cuộc vận động để
tuyên truyền về tầm quan trọng của việc sinh ít con hơn đối với các cặp vợ
chồng. Bằng những nỗ lực giáo dục ở cả cộng đồng và trong trường học, Chính
phủ các quốc gia đã tuyên chiến với tình trạng thiếu hiểu biết về những biện pháp
tránh thai hiện đại. Để phương tiện tránh thai có ở mọi nơi, các phòng khám kế
hoạch hoá gia đình và các hệ thống phân phối đã được thiết lập (phần lớn các
dịch vụ được trợ giá là chính).
Trước hết các quốc gia tập trung nỗ lực cho giáo dục, tuyên truyền và tăng
khả năng tiếp cận phương tiện tránh thai. Tuy nhiên, đầu thập niên 70, Chính phủ
một số quốc gia đã thực hiện những chính sách “vượt ra ngoài khuôn khổ của kế
hoạch hoá gia đình”. Xinh-ga-po đã ban hành một loạt chính sách thưởng phạt
tổng thể (Yap, Chương 5) và ở một vài nơi trong khu vực cũng có những nỗ lực
tương tự. Hầu hết là những chính sách khuyến khích bằng tiền, ngoài ra còn có
một số chính sách khác nhằm giải quyết tận gốc nguyên nhân xã hội của mức
sinh cao. Ví dụ như ở Hàn Quốc, những đổi mới về tư pháp nhằm giải quyết
những quan niệm sai lầm về giới với hy vọng làm thay đổi mong muốn có con
trai của các cặp vợ chồng, qua đó làm giảm mức sinh (Kwon, Chương3). Tuy
nhiên, ở các quốc gia được khảo sát trong nghiên cứu này, các giải pháp dân số
đã bị dỡ bỏ sau một thời gian ngắn không giống như các chương trình mang tính
áp đặt, cưỡng bức, ví dụ như các chiến dịch triệt sản thảm bại ở Ấn Độ và chính
sách một con ở Trung Quốc.

Điều gì đã khiến các nước châu Á đang phát triển phản ứng nhanh và dứt
khoát với việc gia tăng nhanh dân số? Và tại sao phản ứng này lại nhanh hơn rất
nhiều so với các khu vực đang phát triển khác? Một phần câu trả lời nằm trong
những điều kiện dân số liên tục thay đổi. Châu Á là khu vực đông dân nhất thế
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


21

giới và tỷ lệ tăng trưởng dân số không ngừng tăng trong thập niên 50 và 60. Quan
điểm đông dân sẽ góp phần làm tăng sức mạnh quốc gia bắt đầu bị thay thế. Các
nhà lãnh đạo chính trị và trí thức chịu ảnh hưởng một phần của những quan điểm
của phương Tây. Các học giả phương Tây tham gia các hoạt động tái thiết Đài
Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản đã bày tỏ những quan ngại, lo âu về tình trạng gia
tăng nhanh dân số. Thí dụ, nhà hoạt động trong lĩnh vực kế hoạch hoá gia đình,
Margaret Sanger là một khách mời thường xuyên và có ảnh hưởng ở Nhật Bản.
Tuy nhiên, Chính phủ các quốc gia và các học giả ở Đông Á đã tự mình đánh giá
và đưa ra kết luận rằng nếu dân số tiếp tục gia tăng nhanh sẽ là trở ngại lớn đối
với các mục tiêu phát triển (Liu, Chương 4, Yap, Chương 5, Gullaprawit,
Chương 6).
Có một vài yếu tố khác khiến Chính phủ các quốc gia hưởng ứng một cách
nhanh chóng và mạnh mẽ với chính sách dân số ở châu Á. Trước hết, trái ngược
với châu Mỹ La-tinh, Chính phủ một số quốc gia châu Á phải đối mặt với sự
phản đối quyết liệt từ các nhóm tôn giáo có thế lực. Nhà thờ Thiên chúa giáo ở
Phi-líp-pin, các lãnh tụ đạo Hồi ở Pa-kít-xtan có ảnh hưởng đáng kể trong việc
chống đối sử dụng các phương tiện tránh thai hiện đại. Tuy nhiên, tại các nước
được khảo sát không vấp phải những phản đối với kế hoạch hoá gia đình từ các
lực lượng tôn giáo hoặc nếu có chỉ là ngầm chống đối. Ngay cả ở In-đô-nê-xia,
một quốc gia Đạo Hồi lớn nhất thế giới, những người đứng đầu tôn giáo cũng

không phản đối quyết liệt những quyết định của tổng thống Su-hắc-tô nhằm thúc
đẩy những nỗ lực kế hoạch hoá gia đình .
Thứ hai, các quốc gia châu Á ổn định chính trị nhiều hơn so với hầu hết
các quốc gia châu Mỹ La-tinh và châu Phi. Bởi vậy, Chính phủ các quốc gia này
mới có thể theo đuổi những mục tiêu lâu dài một cách thực tế. Ở Hàn Quốc, tổng
thống Pắc-Chung-Hy đã cầm quyền suốt 18 năm sau khi tuyên bố ủng hộ việc
làm chậm đà gia tăng dân số. Ở Đài Loan, tổng thống Tưởng Giới Thạnh giữ vị
trí này từ năm 1950 đến năm 1975. Lý Quang Diệu làm thủ tướng Xinh-ga-po từ
năm 1959 đến năm 1990. Trước cuộc khủng hoảng chính trị và tài chính gần đây,
In-đô-nê-xia chỉ có hai nguyên thủ là Su-các-nô cầm quyền từ năm 1945 đến năm
1966 và Su-hắc-tô duy trì quyền lực của mình hơn ba thập niên. Trong sáu quốc
gia được khảo sát, chỉ có Thái Lan liên tục thay đổi nội các, nhưng chế độ quân
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


22

chủ ở Thái Lan vẫn có ảnh hưởng liên tục và ổn định. Sự thay đổi chính trị của
Thái Lan thường tương đối hoà bình và không kèm theo những thay đổi về đường
lối. Mặc dù các nhà lãnh đạo chính trị cứng rắn trong khu vực cho phép chuyển
đổi rất nhanh chóng trong chính sách dân số song không đảm bảo bằng những
giải pháp để có được kết quả mong muốn. Một số chính sách cụ thể được ban
hành phụ thuộc vào quan điểm của giới lãnh đạo quốc gia. Ví dụ như, chỉ có thể
thay đổi chính sách ở In-đô-nê-xia khi tổng thống Su-các-nô không còn đảm
nhiệm vị trí này (Pasay và Wonkaren, Chương 7).
Thứ ba, Chính phủ nhiều quốc gia châu Á có khuynh hướng cánh tả. Chính
phủ Ấn Độ, Xơ-ri-lan-ka, các quốc gia theo chế độ cộng sản và một số quốc gia
châu Á khác trực tiếp can thiệp vào nhiều vấn đề tiểu tiết của nền kinh tế và các
vấn đề xã hội. Các quốc gia được khảo sát ở Đông Á đã tránh được những hậu

quả thảm khốc của nền kinh tế mệnh lệnh, nhưng Chính phủ của các quốc gia này
lại sa đà vào quản lý kinh tế nhiều hơn so với các Chính phủ phương Tây đồng
thời cũng tích cực nhiều hơn trong giải quyết những vấn đề xã hội.
Những chương trình kế hoạch hoá gia đình ở Đông Á có thể là những
chương trình được điều hành tốt nhất thế giới. Trong một thời gian rất ngắn, các
quốc gia này đã phát triển rộng rãi mạng lưới cung cấp các dịch vụ tránh thai với
chi phí khiêm tốn. Những chương trình ở Đài Loan, Hàn Quốc và Thái Lan đã
thành công như những mô hình mẫu cho các nước khác học tập. Tsui (sắp xuất
bản) cho rằng thành công của các quốc gia này là do bốn yếu tố. Thứ nhất, mặc
dù mục tiêu hàng đầu của Chính phủ các quốc gia là hạn chế gia tăng nhanh dân
số song các chính sách và chương trình vẫn đặt trọng tâm vào những mục tiêu kế
hoạch hoá gia đình và sức khoẻ. Thứ hai, các nhóm tôn giáo và các nhóm có
quyền lực chính trị khác không phản đối quyết liệt các chương trình. Thứ ba,
Chính phủ các quốc gia đã duy trì những nỗ lực lớn và liên tục, bao gồm cả việc
tài trợ đáng kể về tài chính. Cuối cùng là Chính phủ các quốc gia này đã vào cuộc
một cách tự nguyện và phối hợp với các thực thể phi chính phủ thực hiện thành
công.
Mặc dù các quốc gia thành công trong các mục tiêu của chương trình nghị
sự đặt ra tại các hội nghị, nhưng khó mà đánh giá được hiệu quả, tác động của
các chính sách và chương trình dân số đối với các kết quả dân số– nghĩa là, xác
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế


23

định tốc độ giảm sinh trong điều kiện không có sự can thiệp của Chính phủ. Tất
cả các quốc gia được khảo sát đều đang trong thời kỳ phát triển nhanh về kinh tế
và xã hội nhanh chóng. Mức chết trẻ em giảm xuống; tỷ lệ phụ nữ có việc làm
tăng lên; tiền công cao; phụ nữ có nhiều cơ hội giáo dục hơn và hàng loạt các

nhân tố phát triển khác đã góp phần thay đổi những quan điểm về sinh đẻ. Có thể
các mô hình sinh đã thay đổi nhiều với tốc độ khá nhanh là do những sáng kiến
của Chính phủ song không dễ dàng gì khi đánh giá những sáng kiến đó đã tác
như thế nào. Tương tự như vậy, rất khó xác định liệu có thể thực hiện kiểm soát
sinh hiệu quả hơn, an toàn và ít tốn kém hơn vì là các chương trình của Chính
phủ không? Khi phân tích các yếu tố quyết định giảm mức sinh, Tsui (sắp xuất
bản) ước tính mức đóng góp của kế hoạch hoá gia đình và các yếu tố phát triển.
Bà kết luận rằng tổng tỷ suất sinh ở các nước đang phát triển khác trên thế giới sẽ
giảm được 1 con từ năm 1982 nếu như các quốc gia này cũng thực hiện các
chương trình kế hoạch hoá gia đình như ở các quốc gia được khảo sát ở Đông Á.
Thành công của các chính sách dân số ở Đông Á đạt được nhờ có nguồn
chi. Các tác giả đã đưa ra những quan điểm khác nhau về tầm quan trọng của
viện trợ từ bên ngoài. Liu (Chương 4) tin rằng ở Đài Loan trợ giúp từ bên ngoài
đóng vai trò hết sức quan trọng vì vấn đề gây tranh luận xoay quanh bản chất của
chương trình kế hoạch hoá gia đình chứ không phải là vấn đề chi phí. Đầu tư tài
chính công cho kế hoạch hoá gia đình chỉ được thực hiện ở Đài Loan vào năm
1968. Kwon (Chương 3) tin rằng trợ giúp bên ngoài là hết sức quan trọng đối với
những nỗ lực của Hàn Quốc vì những thúc ép về tài chính. Tất nhiên, Hàn Quốc
năm 1961 nghèo hơn nhiều so với Đài Loan năm 1968.
Khi các quốc gia Đông Á đã phát triển, tuy trợ giúp từ bên ngoài giảm
nhưng tài trợ cho chương trình kế hoạch hoá gia đình từ Chính phủ và những
người sử dụng lại tăng lên. Thông tin có giá trị nhất thừa nhận rằng kinh phí hàng
năm dành cho kế hoạch hóa gia đình bình quân đầu người khoảng 20 xu Mỹ vào
giữa thập niên 70 và tăng lên khoảng 1 đôla Mỹ vào đầu thập niên 90. Ở Xinh-
ga-po và Hàn Quốc, chi phí công đạt đỉnh điểm trong thập niên 80 và trong
những năm gần đây đã giảm đáng kể vì ngày càng nhiều cặp vợ chồng quay sang
sử dụng các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình của khu vực tư nhân.(Tsui-sắp xuất
bản). Chưa khi nào chi phí cho kế hoạch hoá gia đình chiếm tỷ trọng lớn trong
Quá độ dân số và phát triển kinh tế-xã hội * Các chính sách và chương trình dân số ở Đông Á * Tài liệu phục vụ xây dựng CLDS-SKSS 2020
Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình, Bộ Ytế



24

tổng ngân sách nhà nước. Ví dụ như ở Thái Lan mức đòi hỏi cao nhất từ ngân
sách là vào năm 1977, song chi phí cho kế hoach hoá gia đình cũng chỉ chiếm
0,38% tổng chi của Chính phủ (Gullaprawit, Chương 6, bảng 6.6). Chi phí cho kế
hoạch hoá gia đình ở In-đô-nê-xia chiếm 0,6% ngân sách Chính phủ năm 1986-
87 (Pasay và Wongkaren, Chương 7, bảng 7.8). Rõ ràng rằng ngân quỹ cho các
chương trình dân số không phải là một gánh nặng tài chính lớnu đối với các quốc
gia Đông Á.
KẾT LUẬN
Năm 1960, các quốc gia Đông Á đã phải đối mặt với nhiều khó khăn. Theo
quan điểm của đa số tại thời điểm đó, gia tăng nhanh dân số là một trong những
vấn đề nghiêm trọng nhất. Sau hơn ba thập niên, những quốc gia này đã thành
công vượt trội trong giảm sinh và làm chậm tốc độ gia tăng dân số; khắc phục
được những vấn đề tiềm ẩn liên quan đến việc tăng đáng kể quy mô dân số; đồng
thời đã biến những biến đổi về cơ cấu tuổi và các đặc trưng dân số khác thành
những lợi thế kinh tế. Kết thúc việc này như thế nào là hết sức quan trọng vì
những giá trị tiềm tàng của các bài học đối với những nước đang phát triển khác
khi phải đương đầu với những vấn đề phát triển tương tự.
Những bài học dưới đây là quan trọng nhất trong số những bài học kinh
nghiệm của các quốc gia Đông Á:
 Thứ nhất, với những điều kiện thích hợp, mức sinh sẽ giảm với tốc độ đáng
kể. Trong khoảng hai đến ba thập niên tổng tỷ suất sinh đã giảm từ sáu con
xuống còn hai con hoặc dưới hai con trung bình một phụ nữ. Ở hầu hết các
quốc gia, ép buộc không giữ vai trò chủ yếu hay có hệ thống.
 Thứ hai, có nhiều cách để giảm sinh. Ở Nhật Bản và các nước công nghiệp
hoá khác, phát triển kinh tế và xã hội đã khiến cho mức sinh giảm xuống
mức thấp. Chính phủ các quốc gia chỉ giữ vai trò thứ yếu bằng cách ngăn

cản hoặc là tạo điều kiện thuận lợi cho công nghệ tránh thai. Nhưng ở các
quốc gia đang phát triển Đông Á mức sinh đã giảm rất nhanh, một phần là
kết quả của phát triển nhanh về kinh tế xã hội trong khu vực và một phần
là do những chương trình tổng thể và có hiệu quả của Chính phủ khuyến

×