Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tóm tắt luân án tiến sĩ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.46 KB, 28 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN HƯNG BÌNH
B¶O VÖ QUYÒN Vµ LîI ÝCH HîP PH¸P
CñA NG¦êI CH¦A THµNH NI£N THEO PH¸P LUËT
Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành : Luật Hình sự
Mã số : 62.38.40.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2013
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH
TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học: GS, TSKH Đào Trí Úc
Phản biện 1: PGS, TS. Trần Đình Nhã
Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội

Phản biện 2: PGS, TS. Phùng Thế Vắc
Học viện An ninh
Phản biện 3: PGS, TS. Hoàng Thị Minh Sơn
Đại học Luật Hà Nội
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án
cấp Học viện, họp tại Học viện Khoa học Xã hội
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2014
Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài
người. Quyền con người bao gồm những quyền không thể tước bỏ, do đó, bảo vệ
quyền con người chính là những bảo đảm pháp lý toàn cầu.
Tố tụng hình sự của bất kỳ quốc gia và hệ thống pháp lý nào cũng đều phải


thực hiện cùng một lúc hai nhiệm vụ: vừa phải xác định cho được sự thật của vụ
án, bảo đảm để công lý được thực thi, nhưng lại vừa phải làm thế nào để trên con
đường đi tìm sự thật và công lý thì quyền của tất cả những người có liên quan đều
phải được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ. Trọng tâm của nhiệm vụ bảo đảm quyền
con người trong tố tụng hình sự vẫn là việc bảo đảm quyền con người cho người
bị buộc tội: người bị tình nghi, bị can, bị cáo.
Đối tượng người chưa thành niên (nói chung) và trẻ em (nói riêng) là những
chủ thể đặc biệt, có những đặc điểm riêng về tâm sinh lý và sự phát triển chưa đầy
đủ, chưa biết cách tự bảo vệ mình khi đứng trước những sự kiện pháp lý nên cần
phải có những bảo đảm pháp lý đầy đủ, cần thiết và đáp ứng phù hợp. Đối với
NCTN vi phạm pháp luật, trong thời gian qua đang có xu hướng gia tăng về số
lượng và mức độ nguy hiểm của hành vi. Hiện tại Việt Nam chưa có hệ thống tư
pháp dành riêng cho NCTN theo đúng ý nghĩa của thuật ngữ này. Do đó, trên thực
tế, như nhận định của của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 08/NQ-TƯ ngày
02/01/2001: Công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi
của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi
phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân
với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. Điều này đồng nghĩa với việc quyền,
lợi ích của con người (trong đó có thể có NCTN) chưa thực sự được bảo vệ.
Vì lý do trên, việc nghiên cứu đề tài "Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam" là đáp
ứng tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1
Mục đích nghiên cứu, luận án giải quyết toàn diện, đầy đủ sâu sắc và có hệ
thống những vấn đề lý luận về quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong tố tụng
hình sự. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng
hình sự; nâng cao nhận thức của các chủ thể tiến hành tố tụng, cũng như toàn xã
hội trong việc bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS.
Nhiệm vụ: 1) Làm rõ hệ thống quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong

pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam; 2) Chỉ ra những bất cập, hạn chế trong
các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của NCTN, cũng như những tồn tại trong thực tiễn áp dụng; 3) Kiến giải
hướng tới hoàn thiện các quy định của pháp luật thực định và hệ thống các cơ
quan tiến hành tố tụng đặc thù nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN.
Đối tượng nghiên cứu của luận án: 1) quyền và lợi ích hợp pháp của
Người chưa thành niên phạm tội; 2) Cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NCTN phạm tội ở các giai đoạn TTHS: Điều tra, Truy tố và Xét xử sơ thẩm.
Phạm vi nghiên cứu của luận án được đặt trong Phạm vi về không gian là
hệ thống pháp luật quốc tế (các công ước, điều ước quốc tế) và hệ thống pháp luật
quốc gia (các quan điểm của Đảng, Nhà nước về vấn đề quyền con người, quyền
của NCTN, quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS; về vai trò, nhiệm
vụ bảo vệ quyền con người của pháp luật TTHS); Phạm vi về thời gian: từ thời
điểm có hiệu lực của BLTHS 2003 (ngày 1/7/2004) đến thời điểm hiện tại.
3. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận án, cụ thể: Phương pháp luận biện
chứng duy vật; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam về con người và quyền con người; Đặc biệt phương pháp nghiên cứu tiếp cận
đa ngành, liên ngành, đa ngành khoa học xã hội được vận dụng tối đa. Ngoài việc
tiếp cận vấn đề nghiên cứu quyền con người của người CTN trong TTHS dưới góc
độ luật học, vấn đề nghiên cứu còn được đặt trong mối liên hệ với các ngành khoa
học xã hội khác.
Tác giả chú trọng phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh luật học, các
phương pháp xã hội học pháp luật để đưa ra các quan điểm, các giải pháp về việc
hoàn thiện pháp luật TTHS, các biện pháp kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục…
nhằm bảo vệ tốt hơn nữa các quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS
Việt Nam.
2
Phương pháp nghiên cứu: Để đạt được các mục tiêu và nhiệm vụ đề ra,
trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu dự kiến được áp dụng cụ

thể trong từng Chương của Luận án: Chương 2: Phương pháp nghiên cứu là phân
tích văn bản, phân tích thuần túy quy phạm, tổng hợp, đối chiếu văn bản, so sánh
liên ngành và nghiên cứu lịch sử; Chương 3: tổng hợp, phân tích văn bản, thống
kê việc bảo vệ các quyền của NCTN tham gia trong quá trình giải quyết VAHS.
Những vướng mắc này sẽ được phân tích từ hai phía chủ thể, là người tiến hành tố
tụng và những người tham gia tố tụng; Chương 4: Tác giả tập trung đưa ra các giải
pháp trong từng giai đoạn trước mắt và lâu dài, trên cơ sở sử dụng phương pháp
phân tích, diễn giải.
4. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Thứ nhất, nghiên cứu, đề xuất một số khái niệm về " Quyền và lợi ích hợp
pháp của NCTN theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam" và "Bảo vệ Quyền và
lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam";
Thứ hai, Đánh giá đầy đủ, hoàn chỉnh qua đó làm rõ những bất cập, thiếu
sót, vướng mắc đối với các quy định của BLTTHS 2003 trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của NCTN cũng như thực tiễn áp dụng;
Thứ ba, nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng bổ sung những quy định thể chế;
thiết chế TTHS; gia đình - xã hội đặc thù cho NCTN nhằm tăng cường hiệu quả
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN vi phạm pháp luật.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án làm giàu thêm lý luận
về quyền của NCTN nói chung và quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong tố
tụng hình sự nói riêng.
Ý nghĩa về thực tiễn: Góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS cũng như góp
phần thay đổi nhận thức của NCTN, các cơ quan/người tiến hành tố tụng, gia đình,
nhà trường và các tổ chức xã hội.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án gồm 4 chương, 12 tiết.
3
Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới, trong lĩnh vực nghiên cứu về Quyền con người và Bảo vệ
quyền con người, Bảo vệ quyền con người của NCTN, tác giả đánh giá một số văn
bản quốc tế và công trình nghiên cứu như sau:
Đối với văn bản quốc tế: Trước tiên, phải kể đến Bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền (ngày 26/08/1789) được các nhà cách mạng Pháp công bố,
đánh dấu sự phát triển lên một bậc thang mới của quyền con người. Tuyên ngôn
thế giới về quyền con người (UDHR) - được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông
qua ngày 10/12/1948, tại Palaisde Chaillot, Paris, Pháp. Ngày 16/12/1966, Liên
Hợp Quốc thông qua hai Công ước quốc tế về quyền con người, là Công ước về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) và Công ước về các quyền dân sự,
chính trị (ICCPR).
Ngoài ra, Liên Hợp Quốc đã thông qua một loạt các văn bản như sau: Quy
tắc tiêu chuẩn tối thiếu của Liên Hợp Quốc về quản lý tư pháp đối với NCTN
(Quy tắc Bắc Kinh) 1985; Quy tắc của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa NCTN bị
tước quyền tự do, 1990; Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm
pháp của NCTN (Hướng dẫn Riyadh), 1990; Tuyên bố về các nguyên tắc xã hội
và pháp lý liên quan đến việc bảo vệ và phúc lợi của trẻ em, đặc biệt là việc bảo
trợ và nuôi con nuôi trong nước và nước ngoài, 1986; Hướng dẫn về hành động
đối với trẻ em trong Hệ thống luật hình sự, phụ lục của Nghị quyết số 1997/30 của
Hội đồng kinh tế và xã hội về việc quản lý tư pháp với NCTN (ICCPR, Đại Hội
đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 16/12/1966, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976).
Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu: Cuốn sách: "American juvenle
Justice" (Tư pháp NCTN của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ) là công trình của Franklin
E.Jimring được Oxford University xuất bản năm 2005; Cuốn "Juvenile Court: A
Judge's Guide for young adults and Their Parents" (Tòa án NCTN: Hướng dẫn
pháp lý cho NCTN và cha mẹ) do Leora Krygier công bố được The Scarecrow
phát hành năm 2009… đặc biệt là Cuốn: "Handbook for Professionals And

Policymakers on Justice Matters Involving Child Victims and Witnessed of
4
Crime" (Sổ tay cho những người làm công tác pháp luật và xây dựng chính sách
liên quan đến nạn nhân và nhân chứng trẻ em), là một trong số series các cuốn sổ
tay tư pháp hình sự do Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về ma túy và hình sự
phát hành năm 2009;
Từ việc tham khảo các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, tác giả sẽ kế
thừa các ưu điểm: 1) việc bảo vệ quyền con người trong TTHS, trước hết là xuất
phát từ mối quan hệ giữa quyền con người, quyền công dân và những bảo đảm
quyền con người trong các quan hệ phát sinh trong TTHS; 2) cách nhìn toàn diện
về khái niệm quyền của NCTN và tiếp cận được với khái niệm quyền và lợi ích
hợp pháp của NCTN trong TTHS dưới góc độ luật học so sánh; 3) khái quát
được một cách khá đầy đủ thực trạng pháp luật quốc tế về quyền và lợi ích hợp
pháp của NCTN.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này,
tác giả tập hợp, phân loại và đánh giá các tài liệu thành ba nhóm theo các vấn đề
trên. Cụ thể như sau:
Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền con người và bảo vệ quyền
con người nói chung gồm có: Sách chuyên khảo “Quyền con người - Tiếp cận đa
ngành và liên ngành luật học” - GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH, Hà
Nội, 2010 (3 tập, 1010 tr), “Quyền con người” (Giáo trình giảng dạy sau đại học) -
GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH 2011 (487 tr), Sách chuyên khảo:
“Cơ chế bảo đảm và bảo vệ Quyền con người” -GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên,
Nxb KHXH 2011 (431 tr).
Nhóm nghiên cứu về quyền của trẻ em, trong đó có Quyền và lợi ích hợp
pháp của NCTN, đáng kể đến các công trình: Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp
luật Việt Nam, Hoàng Thế Liên, NXB Giáo dục 1996; Vì quyền trẻ em và sự bình
đẳng của phụ nữ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000; Quyền của trẻ
em và phương tiện thông tin đại chúng, NXB Chính trị quốc gia, 2000; Thúc đẩy

các phương pháp tiếp cận dựa trên quyền trẻ em, kinh nghiệm và sáng kiến từ các
nước châu Á, NXB Chính trị quốc gia năm 2006; Quyền trẻ em (Sách chuyên đề
nghiên cứu và giảng dạy và thực hiện quyền trẻ em), Trung tâm nghiên cứu quyền
con người năm 2000.
5
Nhóm nghiên cứu về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong
TTHS, bao gồm các công trình tiêu biểu sau: Phòng ngừa người chưa thành niên
phạm tội - PTS. Vũ Đức Khiển chủ biên, Nhà xuất bản pháp lý, Hà Nội, 1987;
Vấn đề trách nhiệm Hình sự của vị thành niên phạm tội theo luật Hình sự việt
Nam - Luận án PTS pháp lý - Đinh Xuân Nam, Kiev, 1994; Tư pháp với người
chưa thành niên và quyền trẻ em - Vũ Ngọc Bình, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1996; Bảo vệ quyền con người trong TTHS Việt Nam - Nguyễn
Quang Hiền, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, 2009; Thủ tục
tố tụng đối với người chưa thành niên trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đỗ
Thị Phượng, Luận án Tiến sỹ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, 2008;
Qua nghiên cứu các công trình nêu trên, tác giả có thể đưa ra một số nhận
xét như sau: 1) Các công trình nghiên cứu về quyền con người sẽ là nền tảng để tác
giả tiếp cận sâu hơn quyền con người của nhóm “yếu thế” là NCTN và trong lĩnh
vực cụ thể là TTHS; 2) vẫn còn "khoảng trống" trong nghiên cứu với đối tượng
đặc biệt là NCTN; cụ thể là: chưa có nghiên cứu đầy đủ, toàn diện, chuyên sâu, có
hệ thống cả về lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn TTHS các vấn đề liên
quan đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN. Nói cách khác chỉ tiếp cận
vấn đề quyền của NCTN dưới góc độ thủ tục TTHS mà chưa có cách tiếp cận rộng
hơn dưới góc độ quyền con người.
1.2. MỘT SỐ NỘI DUNG CẦN TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT TRONG LUẬN ÁN
Thứ nhất, nghiên cứu luận giải để đưa ra khái niệm và phân tích nội hàm
của khái niệm “quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS Việt Nam”.
Thứ hai, vấn đề Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong hệ
thống tư pháp hình sự (thế giới và Việt Nam) cần được so sánh, phân tích và luận
giải.

Thứ ba, cần so sánh các quyền của NCTN với người đã thành niên tham gia
TTHS để tìm sự khác biệt, qua đó tìm những "khoảng trống pháp lý" còn tồn tại;
Thứ tư, thực trạng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong các
hoạt động TTHS ở Việt Nam hiện nay cần được quan tâm nghiên cứu, bởi vì đây
là cơ sở để đưa ra các giải pháp;
Thứ năm, ở Việt Nam, các cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NCTN trong pháp luật TTHS chưa hề được đề cập nghiên cứu ở mức độ cần thiết.
6
Thứ sáu, các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và hoàn thiện các thiết
chế bảo đảm quyền của NCTN trong TTHS phù hợp với tình hình của Việt Nam
hiện nay.
1.3. CÁC CÂU HỎI ĐẶT RA KHI NGHIÊN CỨU
Với mục đích tiếp cận Quyền con người của NCTN trong TTHS, làm sâu
sắc thêm TTHS cả về phương diện lý luận và thực tiễn, tác giả cần làm rõ mối
quan hệ giữa Quyền con người (trong đó có quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN)
với TTHS); mối quan hệ này, tiếp theo, sẽ đóng vai trò là “cầu nối” giữa Luật
Hình sự - Tố tụng hình sự - Quyền con người. Để giải quyết được hai vấn đề lớn
này, cần đặt ra giả thuyết nghiên cứu như sau:
Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong pháp luật TTHS Việt Nam
chưa được qui định đầy đủ, cụ thể và chưa tổ chức được thiết chế đặc thù
hoặc đã có nhưng hoạt động thiếu hiệu quả nhằm bảo vệ tốt nhất các quyền
của họ trên thực tế.
Từ đó, tác giả cần nghiên cứu và giải đáp có hệ thống các câu hỏi, cụ thể:
1. Khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN? Khái niệm quyền và
lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS? Quyền và lợi ích hợp pháp của
NCTNPT trong TTHS Việt Nam? Lịch sử bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NCTN trong TTHS Việt Nam; xu hướng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NCTN trong hệ thống tư pháp hình sự thế giới và Việt Nam?
2. Thực trạng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong các giai
đoạn TTHS ở Việt Nam từ năm 2004 đến nay: Quy định của pháp luật tố tụng

hình sự Việt Nam? Tổ chức các thiết chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NCTN trong TTHS?
3. Các yêu cầu về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN ở Việt Nam
giai đoạn hiện nay, hướng đến năm 2020? Các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp
luật TTHS Việt Nam nhằm bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của
NCTN? Các giải pháp hoàn thiện các thiết chế bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích
hợp pháp của NCTN trong TTHS ở Việt Nam?
Cuối Chương 1, tác giả kết luận: Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN
trong TTHS là vấn đề được các ngành khoa học trong đó có luật học và khoa học
tố tụng hình sự quan tâm nghiên cứu, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang xây
dựng nhà nước pháp quyền "của dân, do dân, vì dân". Chính vì vậy, việc tiếp cận
vấn đề nghiên cứu dưới góc độ quyền con người trong TTHS là một cách tiếp cận
7
mới, sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và đề ra các giải pháp đồng
bộ nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Ở Chương này, tác giả tập trung làm rõ một số vấn đề sau:
2.1. KHÁI NIỆM
Phần này, tác giả phân tích đặc điểm của người chưa thành niên, tư cách là
một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù, có những dấu hiệu đặc trưng về mặt thể chất,
tâm lý, nhân cách cũng như các đặc điểm về xã hội học, tác giả có thể khái quát
như sau: do sự phát triển chưa hoàn thiện về tâm, sinh lý của lứa tuổi này, NCTN
có những thái độ, nhận thức chưa hoàn chỉnh trong học tập, giao tiếp xã hội; từ
những đặc thù này, đòi hỏi xã hội phải công bằng khi đánh giá về họ, phải giành
cho họ những quyền được đối xử phù hợp với lứa tuổi của họ. Điều này cũng đồng
nghĩa với đòi hỏi chính đáng của nhóm đối tượng xã hội đặc thù này khi họ vi
phạm pháp luật hình sự, đó là, phải có thể chế đặc thù, các thiết chế đặc thù đối
với họ.

Tiếp theo, để làm rõ Khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa
thành niên, thông qua các phân tích khái quát về một số đặc điểm cơ bản quyền
con người và chỉ ra mối liên hệ hữu cơ, tồn tại khách quan giữa Tính phổ biến và
tính đặc thù của quyền con người: theo đó tính phổ biến chỉ tồn tại trong tính đặc
thù của quyền con người, thông qua tính đặc thù của quyền con người mà biểu
hiện sự tồn tại của mình; Tính đặc thù của quyền con người chỉ tồn tại trong mối
liên hệ với tính phổ biến của quyền con người. Sau đó, tác giả đánh giá quan điểm
của Đảng và Nhà Nước ta trong vấn đề bảo vệ quyền con người. Từ những phân
tích ở tính phổ biến của quyền con người, tác giả tập trung làm rõ về Quyền con
người của người chưa thành niên và Quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa
thành niên.
Về Quyền con người của người chưa thành niên, chủ yếu, tác giả căn cứ vào
hai văn kiện: Tuyên bố Liên hợp quốc về quyền trẻ em, năm 1959 và Công ước
quốc tế về quyền trẻ em năm 1989. Từ hai văn kiện quan trọng này, càng khẳng
định lý do để bảo vệ các quyền trẻ em là “do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ
8
em cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp
lý trước cũng như sau khi ra đời”.
Về Quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, do cho đến hiện
nay, thuật ngữ "Quyền và lợi ích hợp pháp" chưa có khái niệm chính thống. Bởi,
đây là một cách gọi khác của Quyền con người được ghi nhận trong hệ thống pháp
luật của mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, tập quán quốc
gia…; được bảo vệ, bảo đảm bởi pháp luật và các thể chế khác nhau. Do đó, khi
nói đến "quyền và lợi ích hợp pháp", chỉ có thể hiểu ở phạm vi Quốc gia mà thôi
và trong phạm vi Luận án, chúng tôi chỉ đề cập đến phạm vi Việt Nam. Tại Việt
Nam, do khái niệm Trẻ em và NCTN chưa đồng nhất, nên "Quyền và lợi ích hợp
pháp của Trẻ em" đương nhiên thuộc "Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN",
nhưng nếu hiểu ngược lại thì không hoàn toàn đúng, bởi luôn tồn tại một "khoảng
trống" quy định với các đối tượng thuộc nhóm tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Do đó, hiện nay tại Việt Nam, "quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN" cơ bản là

"quyền và lợi ích hợp pháp của Trẻ em".
Qua những phân tích khái quát về Hệ thống pháp luật Việt Nam, tác giả đưa
ra khái niệm "Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN", theo đó:
Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN là những quyền con người đặc thù
chỉ dành cho người chưa thành niên, là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất
và tâm thần, dễ bị tổn thương, mà Nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến
pháp và hệ thống pháp luật quốc gia; được Nhà Nước bảo đảm thực hiện và bảo
vệ khi bị xâm hại.
Sau khi đã xây dựng được khái niệm về "Quyền và lợi ích hợp pháp của
NCTN", tác giả tập trung làm rõ khái niệm "Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NCTN theo pháp luật TTHS Việt Nam" tại tiểu mục 2.1.3.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu này, tác giả đã dẫn dắt từ việc khái quát
về cơ chế bảo vệ quyền con người, đó là, nói đến cơ chế là nói đến cơ cấu tổ chức,
quá trình vận hành của một hệ thống nào đó; thường đề cập đến hai nội dung: Thể
chế và Thiết chế; theo đó: Thể chế có thể được hiểu bao gồm hai khía cạnh khác
nhau: 1) là các quy định pháp luật, các quy tắc được ban hành theo thẩm quyền,
trình tự, thủ tục nhất định có tính ràng buộc đối với các chủ thể; 2) là thiết kế hệ
thống các cơ quan được lập ra để thực thi những chức năng, nhiệm vụ nhất định;
9
Thiết chế là sự vận hành các cơ quan, tổ chức đã được xây dựng, quy định để thực
hiện các nhiệm vụ đã được phân công.
Tiếp theo, tác giả phân tích, làm nổi lên về vai trò của pháp luật tố tụng
hình sự, là một phương tiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người nói
chung, của NCTN nói riêng, bởi vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng
hình sự có thể được coi là trục xoay của toàn bộ các hoạt động tố tụng hình sự.
Vai trò này được chứng minh trong các văn kiện Quốc tế về quyền con người
trong TTHS như Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948; Công ước quốc tế
về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; Những nguyên tắc cơ bản trong việc
đối xử với tù nhân; Công ước chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con
người năm 1985… Đây được coi là tiêu chuẩn về nhân quyền trong TTHS, theo

đó, quyền con người trong TTHS bao gồm những quyền sau Quyền được xét xử
công bằng bởi một thủ tục TTHS và tòa án công bằng, công khai; Quyền bất
khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phâm và quyền tự do cá
nhân khác. Mọi trường hợp áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS phải trên
cơ sở luật định; Quyền được suy đoán vô tội; Quyền được bào chữa và biện hộ,
quyền không bị xét xử quá mức chạm trễ; Áp dụng thủ tục TTHS đặc biệt với
NCTN; Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm, quyền được nhanh chóng
minh oan. Quyền không bị kết tội hai lần về cùng 1 hành vi…
Với nhóm đối tượng đặc thù, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ được quy định trong các văn bản quốc tế về tư pháp người chưa thành niên,
đó là: 1) Công ước về quyền trẻ em do Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua
ngày 20/11/1989, có hiệu lực từ ngày 2/9/1990; 2) Quy tắc tối thiểu phổ biến
của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên do
Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua 29/11/1985 (từ đây gọi tắt là Quy tắc
Bắc kinh); 3) Hướng dẫn Riyadh về việc phòng ngừa người chưa thành niên
phạm tội được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990 (từ đây
gọi tắt là Hướng dẫn Riyadh); 4) Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc
về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do được Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990 (từ đây gọi tắt là Quy tắc 1990)…
Các văn kiện này có tính hướng dẫn, đưa ra những khuyến nghị về việc
thiết lập một hệ thống tư pháp người chưa thành niên trong khuôn khổ pháp luật
10
ở mỗi quốc gia nhằm vừa tôn trọng quyền và bảo vệ trẻ em, vừa duy trì trật tự,
an toàn trong xã hội. Do đó, các văn kiện này nhằm giúp các quốc gia hoạch
định các chính sách về tư pháp người chưa thành niên, đồng thời để giải thích
cách áp dụng trong thực tế những quy định của Công ước về quyền trẻ em liên
quan đến tư pháp người chưa thành niên.
Ở Việt Nam, tác giả khái lược chính sách hình sự của Nhà nước đối với
NCTNPT, mang tính nhân đạo sâu sắc Đảng và Nhà nước ta luôn giành sự quan
tâm đặc biệt đối với NCTNPT, được thể hiện qua Hệ thống pháp luật tố tụng

hình sự Việt Nam, bao gồm: BLHS, BLTTHS, một số văn bản quy phạm pháp
luật đơn ngành (như Nghị quyết Hội đồng thẩm phán TANDTC) và liên ngành
(như Thông tư liên tịch); thậm chí tuy không phải là văn bản quy phạm pháp
luật nhưng vẫn có giá trị hướng dẫn áp dụng pháp luật (như Tổng kết ngành
Tòa án hàng năm; Công văn hướng dẫn của TANDTC)…
Từ những nghiên cứu quốc tế và Việt Nam, tác giả đưa ra Khái niệm Bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS như sau:
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS là việc Nhà
Nước, bằng việc quy định thể chế và thiết chế đặc thù trong BLTTHS nhằm
chống lại mọi sự xâm hại đến NCTN, tuỳ theo lứa tuổi, mức độ trưởng thành và
nhu cầu cá nhân cần được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật, khi họ
tham gia tố tụng hình sự.
2.2. CÁC PHƯƠNG THỨC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NCTN THEO PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM
Ở phần này, tác giả căn cứ vào thực tiễn pháp luật TTHS Việt Nam để
làm rõ các phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN, đó là:
Về thể chế TTHS, được thể hiện qua hai phương diện:
Một là, quy định trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự theo các giai
đoạn tố tụng; trong đó, thiết kế một chương riêng quy định về thủ tục hình sự
đối với những vụ án mà người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN.
Tuy nhiên, ngoài những quy định này ra thì những quy định chung khác của
BLTTHS cũng được áp dụng.
Hai là, quy định hoạt động (chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn) của các cơ
quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án), người tiến
11
hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và
Thư ký Toà án) và các cơ quan nhà nước khác và tổ chức góp phần vào việc
giải quyết vụ án hình sự.
Về thiết chế, là tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng,
đó là các quy định về Nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN

khi tiến hành tố tụng và bằng Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân.
Ngoài thiết chế tư pháp, quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN còn được
bảo vệ thông qua hoạt động của các thiết chế gia đình và xã hội, đó là sự tham
gia của các cơ quan, tổ chức, gia đình trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
có bị can, bị cáo là NCTN.
2.3. KINH NGHIỆM BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ CỦA MỘT SỐ
QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
2.3.1. Khái quát về một số phương thức bảo vệ NCTN trong TTHS
trên thế giới
Phần này, tác giả nghiên cứu mô hình bảo vệ người chưa thành niên trong
TTHS đã và đang hoạt động trên thế giới. Các mô hình này được lựa chọn
nghiên cứu vì mỗi một mô hình đại diện cho một phương pháp pháp luật. Có
thể tìm hiểu qua một số Quốc gia điển hình: Thái Lan; Canada; Philippin, New
Zealand, New South Wales; Nhật Bản; Scottland; Cộng hoà Séc; Hoa Kỳ,
Nhận xét: Qua nghiên cứu các mô hình này, tác giả nhận thấy, để bảo vệ
hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN, bên cạnh xây dựng, hoàn thiện
thể chế đặc thù thì việc tổ chức cơ quan tiến hành tố tụng đặc thù là rất quan
trọng, trong đó, mô hình Tòa chuyên trách NCTN là một xu hướng tất yếu.
2.3.2. Một số mô hình Tòa án chuyên trách NCTN trên thế giới
Qua nghiên cứu ba mô hình Tòa chuyên trách NCTN trên thế giới, đó là
Mô hình Toà cho Trẻ em có nguy cơ (Mô hình An sinh Phúc lợi); Mô hình Tư
pháp Người chưa thành niên (Mô hình Trừng phạt) và Mô hình Toà Gia đình,
tác giả đã rút ra nhận xét: Mô hình Toà gia đình hợp nhất có thể coi là một mô
hình tư pháp lý tưởng xét trên nhiều phương diện. Đây là một phương pháp tiếp
cận tổng thể nhằm xử lý các vấn đề của gia đình trên cơ sở đảm bảo cuộc sống
và phúc lợi cho tất cả các thành viên của gia đình đó.
12
Cuối Chương 2, tác giả kết luận: Để bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp
pháp của NCTN trong TTHS, các Quốc gia trên thế giới đã thực hiện đồng bộ

các phương thức bảo vệ, như: xây dựng các quy định đặc biệt trong chính sách
pháp luật; tổ chức các thiết chế đặc biệt và các thiết chế bảo đảm khác. Trước
những yêu cầu ngày càng cao của bối cảnh hội nhập quốc tế sâu, rộng như hiện
nay, Việt Nam cũng đã nỗ lực tiếp cận với Thế giới thông qua nội luật hóa các
quy định của Quốc tế và xây dựng các phương thức bảo vệ hiệu quả quyền và
lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS. Tuy nhiên, thực trạng pháp luật và
thực tiễn áp dụng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, cần được tiếp tục nghiên cứu
để đề xuất những giải pháp khả thi nhằm bảo vệ hiệu quả nhất quyền và lợi ích
hợp pháp cuả nhóm đối tượng đặc biệt này
Chương 3
THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chương này, tác giả nghiên cứu, đánh giá thực trạng của các phương thức
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp luật TTHS Việt Nam,
đó là: 1) Quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS; 2) thực trạng tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng; 3) Thực trạng bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS từ phía gia đình, tổ chức. Tác giả đã sử
dụng phương pháp: kết hợp đối chiếu các quy định, khuyến nghị của quốc tế
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN (đã làm rõ tại Chương 2
Luận án) với việc phân tích với các quy định trong BLTTHS có liên quan đến
NCTN, nhằm chỉ ra những "lỗ hổng pháp lý" cùng những bất cập, khó khăn
trong thực tiễn áp dụng; đồng thời, lồng ghép việc đánh giá các nguyên nhân
của những bất cập, vướng mắc để làm căn cứ đề xuất các giải pháp ở Chương 4.
Cụ thể là:
3.1. CÁC QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
13
Trong phần này, tác giả tập trung đánh giá những vấn đề bất cập, vướng

mắc trong các quy định của BLTTHS về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của NCTN và thực tiễn áp dụng pháp luật; đó là những khó khăn trong trong
việc thực hiện quy định những điều cần chứng minh trong điều tra, truy tố, xét
xử vụ án NCTNPT (quy định tại Điều 302 BLTTHS); những bất cập trong các
trường hợp bắt (khẩn cấp và quả tang), trong áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giữ, tạm giam NCTN. Qua phân tích những tồn tại của việc áp dụng biện pháp
này, tác giả đã chỉ rõ nguyên nhân việc "lạm dụng" biện pháp tạm giữ, tạm
giam đối với NCTN, cụ thể: 1) thực trạng quản lý lý lịch tư pháp, điều kiện kỹ
thuật giám định; 2) thiếu quy định về những biện pháp thay thế bảo đảm việc
chấp hành của NCTN khi được cơ quan tố tụng cho tại ngoại; thiếu chế tài xử lý
đối với người bảo lãnh, giám sát khi để xảy ra hậu quả.
Ngoài ra, một phương tiện hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của NTCN trong quá trình tiến hành tố tụng, đó là bảo đảm cho việc tham gia tố
tụng của người bào chữa và trợ giúp pháp lý khác, cũng được tác giả quan tâm
làm rõ. Qua đó đã xác định được nguyên nhân của những bất cập, khó khăn là
từ: 1) các quy định BLTTHS chưa tạo cơ chế bảo đảm thực hiện quy định này,
khiến quy định này không thể hoặc khó thực hiện trên thực tế; 2) xuất phát từ
phía đội ngũ luật sư (năng lực, trách nhiệm); 3) nhận thức hạn chế từ phía
NCTN và gia đình của họ.
3.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN
TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Phần này là điểm mới của Luận án, tác giả đã thông qua việc phân tích
những hoạt động quản lý điều hành của các cơ quan tiến hành tố tụng, những
hoạt động nghiệp vụ của cá nhân người tiến hành tố tụng để làm rõ thực trạng
của Thiết chế tư pháp, là một trong những phương thức bảo vệ NCTN trong
TTHS. Những hạn chế và tồn tại của hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng
xuất phát từ các nguyên nhân:
Thứ nhất, nhận thức hạn chế trong vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của NCTN trong TTHS: 1) Từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng (thiếu

hướng dẫn cụ thể; thậm chí, ban hành quy định gây khó khăn cho việc bảo vệ
14
quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN); 2) Từ phía Người tiến hành tố tụng (như
không bảo đảm quyền được bào chữa của NCTN; Không giải thích cụ thể
quyền và nghĩa vụ của NCTN trong các buổi làm việc với họ và gia đình;
Không chuẩn bị tốt cho các buổi làm việc cũng như có thái độ không phù hợp
khi làm việc với NCTN).
Thứ hai, năng lực cán bộ tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự
liên quan đến NCTN còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu; thể hiện: 1) trong quá
trình điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa được trang bị kiến thức, kinh
nghiệm cần thiết để làm việc với NCTN; 2) trong quá trình xét xử, ngoài việc
chưa có đội ngũ Thẩm phán chuyên giải quyết các vụ án NCTN, có thể thông
qua việc phân tích hai hoạt động giải thích và Tuyên án của Thẩm phán tại
phiên Tòa để chứng minh cho nhận định này. Ngoài ra, trong hoạt động xét xử,
việc hạn chế năng lực của Hội thẩm nhân dân cũng là vấn đề cần quan tâm.
Cuối cùng, trong việc bảo đảm sự có mặt của gia đình bị cáo NCTN tại phiên
tòa xét xử, vẫn chưa được Hội đồng xét xử quan tâm đúng mức.
Thứ ba, việc quan tâm đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho tổ chức hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết các vụ án liên quan đến
người chưa thành niên cũng chưa được quan tâm thỏa đáng, như: 1) Trong quá
trình điều tra, các cuộc lấy lời khai của NCTN thường diễn ra tại trụ sở CQĐT,
là những nơi trang nghiêm khiến NCTN căng thẳng, cảm giác không thoải mái,
gây hạn chế hiệu quả hoạt động điều tra hoặc chưa bảo đảm đầy đủ quyền của
NCTN; 2) Trong quá trình xét xử, hình thức tổ chức phiên tòa chưa phù hợp,
chưa bảo đảm yêu cầu về "bảo đảm sự riêng tư cho NCTN" theo khuyến nghị
của quốc tế. Thực tiễn xét xử NCTN vẫn tồn tại việc không áp dụng việc xét xử
kín hoặc một số nơi còn chọn một số vụ án NCTN để xét xử lưu động hoặc -
Các chi tiết của vụ án có liên quan tới NCTN có thể xuất hiện trên các phương
tiện truyền thông.
Những việc này có ảnh hưởng tiêu cực tới NCTN và gia đình họ và có thể

dẫn tới sự định kiến và kỳ thị trong cộng đồng và điều này có tác động lớn tới
tương lai của người chưa thành niên có liên quan.
3.3. THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TỪ PHÍA GIA ĐÌNH - XÃ HỘI
15
BLTTHS thiết kế về nhóm thiết chế Gia đình - Xã hội là xuất phát từ đặc
điểm đặc thù của nhóm chủ thể tham gia TTHS là NCTN và người có nhược
điểm về thể chất, nhưng nhóm người có nhược điểm về thể chất chỉ chiếm tỷ lệ
không đáng kể nên có thể nói đây chính là thiết chế đặc thù cho việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS.
Do quy định về sự tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và các tổ
chức xã hội còn chung chung, chưa cụ thể nên việc áp dụng điều này trên thực
tế chưa được chú trọng đúng mức, đó là: 1) Chưa bảo đảm cho đại diện gia đình
NCTN nhận thông tin kịp thời về việc bắt giữ NTCN và thực hiện chức năng
giám sát NCTN; 2) Chưa đảm bảo sự có mặt của đại diện nhà trường và tổ chức
tại phiên tòa xét xử NCTN; mặt khác, hiện chưa có quy định cụ thể trách nhiệm
tham gia của cơ quan, tổ chức tham gia Hội đồng xét xử và quy định thiếu
thành phần cơ quan chuyên môn về chăm sóc, bảo vệ NCTN (Ủy ban Bảo vệ
chăm sóc trẻ em).
Cuối Chương 3, tác giả kết luận: Nghiên cứu các tồn tại, bất cập, chỉ rõ
nguyên nhân của các phương thức bảo vệ là cơ sở để đề xuất các nhóm giải
pháp nhằm bảo vệ hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS,
ngày càng tiếp cận gần các quyền của NCTN theo luật pháp Quốc tế.
Chương 4
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM BẢO VỆ CÓ HIỆU QUẢ QUYỀN
VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
4.1. XU HƯỚNG QUỐC TẾ VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Trong mục này, tác giả đã phân tích, nhận định về xu hướng toàn cầu về
chính sách liên quan đến bảo vệ Trẻ em và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
trong vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTCN trong TTHS, cụ thể
là định hướng sửa đổi BLTTHS theo yêu cầu cải cách tư pháp.
16
Về Xu hướng toàn cầu: Nhận thức ngày càng thấu đáo hơn về sự phát triển
của trẻ em và người chưa thành niên; Hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn về tác động
của tổn thương tâm lý đối với hành vi của trẻ em; Xu hướng chuyển từ những mô
hình tư pháp người chưa thành niên mang tính thuần nhất phúc lợi hoặc trừng phạt
sang mô hình tư pháp phục hồi; Mong muốn chuyển hướng càng nhiều càng tốt
các trường hợp có thể ra khỏi hệ thống tư pháp chính thức; Tăng cường khả năng
hỗ trợ của cộng đồng đối với trẻ em và gia đình các em; Xu hướng tập trung hỗ
trợ, củng cố gia đình ngày càng đạt được sự ủng hộ rộng rãi hơn.
Về định hướng sửa đổi BLTTHS, cần phải quán triệt 5 quan điểm cơ
bản: 1) phải quán triệt và thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng về chiến lược
cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm trong tình hình mới; 2) việc sửa đổi Bộ luật phải tập trung giải quyết
những vấn đề bức xúc, phức tạp nhất của TTHS trên nền tảng của cải cách tư
pháp; 3) Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng theo hướng dân chủ, bình đẳng,
công khai, minh bạch, chặt chẽ, thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát
của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; 4) phải bảo đảm tốt hơn các quyền tự
do, dân chủ của công dân, quyền con người, quyền trẻ em… đã được quy định
trong Hiến pháp, các văn bản luật trong nước và các Công ước, Quy tắc quốc tế
mà Việt Nam đã gia nhập và phê chuẩn; 5) việc sửa đổi Bộ luật được tiến hành
trên cơ sở tổng kết những vướng mắc trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử; có
kế thừa truyền thống pháp lý và tham khảo kinh nghiệm pháp luật tố tụng tiên
tiến của các nước.
4.2. CÁC NHÓM GIẢI PHÁP NHẰM BẢO VỆ HIỆU QUẢ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

4.2.1. Giải pháp về tăng cường thể chế
Tác giả cho rằng, việc thiết lập một đạo luật riêng về tư pháp người chưa
thành niên sẽ đảm bảo rằng các chuẩn mực trong khuôn khổ quốc tế được thể
hiện đầy đủ trong các điều khoản của hệ thống tư pháp người chưa thành niên.
Tuy nhiên, việc xây dựng một đạo luật chuyên biệt như vậy không phải là dễ
dàng. Nhiều quốc gia thuộc hệ thống pháp luật dân sự cũng chỉ quy định vấn đề
tư pháp người chưa thành niên trong một chương riêng trong Bộ luật Hình sự.
17
Do vậy, thay vì xây dựng một đạo luật riêng về tư pháp người chưa thành niên,
có thể sửa đổi, bổ sung một số quy định mang tính nguyên tắc ở Phần những
quy định chung về xử lý vụ án có người chưa thành niên tham gia tố tụng để
làm cơ sở nền tảng cơ bản sửa đổi những quy định cụ thể trong các giai đoạn tố
tụng của quá trình giải quyết vụ án; đồng thời hoàn thiện Chương 10 của Bộ
luật Hình sự và Chương 32 của Bộ luật Tố tụng hình sự để bảo đảm rằng nội
dung của hai chương là đảm bảo đầy đủ, có tính khả thi trong thực tiễn áp dụng
và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
Hướng sửa đổi Chương 32, trước hết là quy định thủ tục tố tụng chuyên
biệt, đặc thù trong giải quyết vụ án hình sự có người chưa thành niên tham gia.
Theo đó, phạm vi áp dụng, gồm tất cả người chưa thành niên tham gia tố tụng,
bao gồm người chưa thành niên phạm tội và người chưa thành niên là người
nạn nhân, nhân chứng của tội phạm.
Về thủ tục tố tụng người chưa thành niên, hướng sửa đổi sẽ có ba nội
dung, tương đương 3 Mục: 1) quy định nguyên tắc chung về xử lý vụ án có
người chưa thành niên tham gia tố tụng; 2) quy định về thủ tục tố tụng người
chưa thành niên phạm tội; 3) quy định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành
niên là bị hại, nhân chứng trong vụ án hình sự
Cụ thể, tác giả xin đề xuất một số phương hướng sửa đổi, bổ sung để
hoàn thiện các quy định về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử người chưa thành
niên phạm tội trong BLTTHS năm 2003 như sau:
4.2.1.1. Bổ sung những vấn đề mang tính nguyên tắc

Để thể hiện rõ những quan điểm và tư tưởng“phải cân nhắc để đảm bảo
lợi ích tốt nhất của trẻ em”, tác giả kiến nghị bổ sung vào Phần thứ nhất- Những
quy định chung, Chương II- Những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS năm 2003
một Điều luật mới trong đó quy định các nội dung mang tính nguyên tắc của
việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự liên quan người chưa thành niên, trên
cơ sở kế thừa quy định của TTLT số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-
BTP-BLĐTBXH của Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao
- Bộ Công an - Bộ Tư pháp - Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ngày
12/7/2011. Trên cơ sở nguyên tắc chung này, sẽ định hướng tiếp theo các định
chế cụ thể nhằm bảo vệ quyền của người chưa thành niên.
18
4.2.1.2. Sửa đổi các quy định về điều tra, truy tố, xét xử người chưa
thành niên
Để khắc phục những vướng mắc, bất cập nảy sinh trong nhận thức và áp
dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục tố tụng đối
với người chưa thành niên phạm tội, đáp ứng yêu cầu bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự và đường lối,
chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội
phạm do người chưa thành niên thực hiện; tác giả đề xuất một số phương
hướng sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các quy định về thủ tục điều tra, truy tố,
xét xử người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
như sau:
Một là, sửa đổi quy định tại Điều 301 BLTTHS về phạm vi áp dụng các
quy định trong Chương XXXIII về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành
niên; theo hướng bổ sung đối tượng người bị kết án, đồng thời mở rộng phạm vi
áp dụng thủ tục tố tụng đặc biệt với với các đối tượng đã đủ 18 tuổi (khi thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật là NCTN) trong quá trình tiến hành tố tụng.
Hai là, sửa đổi, Bổ sung quy định về tiêu chuẩn cần có của Người tiến
hành tố tụng đối với các vụ án liên quan đến NCTN.
Ba là, bổ sung Điều luật mới về xác định độ tuổi NCTN.

Bốn là, sửa đổi quy định về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn liên
quan đến thủ tục điều tra, truy tố, xét xử NCTN: 1) Sửa đổi Điều 79 về các biện
pháp ngăn chặn; 2) Sửa đổi, bổ sung Điều 80 về bắt tạm giam bị can, bị cáo; 3)
Sửa đổi Điều 81 về bắt người trong trường hợp khẩn cấp; 4) Sửa đổi, bổ sung
Điều 85. Thông báo về việc bắt; 5) Sửa đổi, bổ sung khoản mới tại Điều 86 về
Tạm giữ; 6) Sửa đổi, bổ sung Điều 87. Thời hạn tạm giữ; 7) Bổ sung khoản 7
Điều 120 Đối với thời hạn tạm giam để điều tra.
Năm là, bổ sung Điều luật quy định về kỹ năng lấy lời khai đối với NCTN.
Sáu là, Sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 304 BLTTHS về giám sát NCTN.
Bảy là, sửa Điều 305 BLTTHS quy định về sự tham gia của người bào
chữa và trợ giúp pháp lý, theo hướng: quy định để tạo điều kiện cho bị can, bị
cáo được thực hiện quyền mời người bào chữa cho mình cũng như tạo mọi điều
19
kiện để người bào chữa thực hiện quyền của họ và bảo đảm tối đa sự có mặt và
tham gia tố tụng của người bào chữa trong các vụ án có người chưa thành niên.
Ngoài ra, tác giả đề nghị sửa đổi Điều 306 BLTTHS theo hướng bổ sung
quy định việc mời đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội
Phụ nữ, Đoàn Thanh niên hoặc cán bộ trợ giúp khác tham gia phiên toà để hỗ
trợ cho NCTN cũng như tạo điều kiện giúp đỡ tối đa về trợ giúp pháp lý cho họ.
Ngoài ra, cần thiết bổ sung trường hợp hoãn phiên tòa khi vắng mặt những
người mà Tòa án coi là cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho NCTN.
Tám là, về Thủ tục xét xử, tiếp tục pháp điển hóa những quy định của
Thông tư liên tịch 01/2011 để tạo ra một môi trường thân thiện với NCTN.
4.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng
Trong tiểu mục này, tác giả đề xuất các nhóm giải pháp:
Một là, nâng cao năng lực của các cơ quan/người tiến hành tố tụng các vụ
án hình sự liên quan đến người chưa thành niên, bao gồm các biện pháp:
- Nâng cao nhận thức và kỹ năng làm việc với NCTN của các Cơ quan/
Người tiến hành tố tụng: 1) thường xuyên mở các lớp đào tạo đối với những

người được giao nhiệm vụ tiến hành tố tụng trong các vụ án liên quan đến
NCTN; 2) chỉ phân công loại án này cho các Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là người có đủ các điều kiện quy định tại
Điều 302 BLTTHS hoặc là những người có những nghiên cứu về NCTN hoặc
đã qua công tác đoàn thể một thời gian nhất định; 3) áp dụng mô hình tổ chức
phiên tòa xét xử NCTN theo hướng thân thiện đối với họ theo tác giả đề xuất;
- Tăng cường đầu tư trang thiết bị, nguồn lực để thực hiện các kỹ thuật
thân thiện với NCTN: 1) tiếp tục đầu tư, xây dựng phòng lấy lời khai thân thiện
với NCTN, theo mô hình 8 Phòng lấy lời khai đã được thành lập và vận hành tại
6 tỉnh thành với sự hỗ trợ của UNICEF; 2) Thực hiện một chương trình thí điểm
xây dựng đơn vị cảnh sát chuyên trách tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh
với các cán bộ cảnh sát, điều tra viên, kiểm sát viên chuyên trách được đào tạo
để làm việc với người chưa thành niên vi phạm pháp luật; 3) Xây dựng các
20
chính sách, chế độ đãi ngộ cụ thể đối với những người tiến hành tố tụng trong
các vụ án hình sự liên quan đến NCTN.
- Tăng cường công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn: 1) các cơ quan tiến
hành tố tụng cần đầu tư thời gian, kinh phí cho hoạt động tổng kết thực tiễn; 2)
sớm thành lập một trung tâm chuyên nghiên cứu về NCTNPT ở quy mô toàn
quốc và các tỉnh, thành.
Hai là, xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động hiệu quả giữa Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án và các cơ quan, tổ chức khác: 1) cần luật
hoá mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức có
liên quan; 2) thường xuyên giao ban, tiến hành họp liên ngành để tìm biện pháp
thúc đẩy tiến độ giải quyết án hình sự có NCTNPT với mục tiêu là bảo đảm tốt
nhất các quyền và lợi ích của trẻ em; 3) Các cơ quan tiến hành tố tụng phải tổ
chức các lớp tập huấn, hội nghị về kỹ năng điều tra và KSĐT các vụ án có
NCTNPT.
Ba là, nghiên cứu thành lập Tòa án chuyên trách NCTN.
Đây là thiết chế tư pháp đặc biệt, rất cần thiết phải nghiên cứu và thành

lập trong thời gian tới đây, phù hợp với quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt
Nam về chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em nói chung và xử lý NCTN vi phạm
pháp luật nói riêng và các chuẩn mực quốc tế. Theo đó, tác giả chỉ rõ sự cần
thiết thành lập Tòa chuyên trách đối với NCTN ở Việt Nam; Một số tiêu chí cần
được quan tâm khi xây dựng Toà án chuyên trách đối với NCTN ở Việt Nam và
đề xuất mô hình của Tòa chuyên trách trong bối cảnh thành lập Tòa án 4 cấp
theo yêu cầu cải cách tư pháp.
Bốn là, bên cạnh việc thành lập Tòa chuyên trách, tác giả cũng đề nghị
thành lập các đơn vị nghiệp vụ chuyên về giải quyết án liên quan đến NCTN ở
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.
4.2.3. Nhóm giải pháp về tăng cường hiệu quả các thiết chế gia đình,
xã hội; theo đó, tác giả đề xuất các giải pháp đồng bộ: 1) Tăng cường giám sát
của nhà nước và xã hội đối với hoạt động tố tụng hình sự đối với các vụ án có
liên quan đến NCTN; 2) Tăng cường phối hợp giữa gia đình và các cơ quan, tổ
chức trong giám sát, giáo dục pháp luật đối với NCTN được miễn TNHS; 3)
21
Tăng cường giám sát xã hội có tính chất hỗ trợ hoạt động giải quyết các vụ án
hình sự có liên quan đến NCTN và hợp tác phòng chống tội phạm quốc tế.
22
KẾT LUẬN
Quyền con người là thiêng liêng và bất khả xâm phạm, có tính phổ biến và
tính đặc thù, trong đó có đặc thù về đối tượng, mà người chưa thành niên là một
trong những đối tượng như vậy. NCTN tham gia trong TTHS gồm nhiều chủ thể
khác nhau, tuy nhiên, trong đó nổi bật nhất là nhóm đối tượng: người bị buộc tội.
Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS là vấn đề được các ngành khoa
học trong đó có luật học và khoa học tố tụng hình sự quan tâm nghiên cứu. TTHS
là một lĩnh vực “nhạy cảm” và tiềm ẩn nhiều nguy cơ quyền và lợi ích hợp pháp
của NCTN bị xâm phạm rất cao, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang xây dựng
nhà nước pháp quyền "của dân, do dân, vì dân" và công cuộc cải cách tư pháp mà
chúng ta đang tiến hành cũng không nằm ngoài mục đích này. Từ những đặc thù

về đối tượng (người chưa thành niên), đặc thù về lĩnh vực quan hệ xã hội (tố tụng
hình sự) đòi hỏi cần có những cơ chế bảo vệ đặc biệt, trong đó có các quy định của
pháp luật TTHS thực định, thiết chế đặc biệt (cơ quan điều tra chuyên biệt, tòa án
chuyên trách NCTN…). Trong Luận án, tác giả đã tập trung nghiên cứu một số
vấn đề cụ thể như sau:
1. Luận giải và làm rõ khái niệm, đặc điểm về NCTN, từ đó đưa ra khái
niệm "Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN" và "Bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của NCTN trong TTHS";
2. Nghiên cứu các văn kiện của Tư pháp hình sự quốc tế và tham khảo các
phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN tại một số quốc gia; qua
đó tác giả nhận thấy: ngoài việc xây dựng Đạo luật đặc thù trong tư pháp NCTN,
các Quốc gia này đã thực hiện đồng bộ các phương thức bảo vệ, từ xây dựng thể
chế đặc thù đến tổ chức các thiết chế đặc biệt và các thiết chế xã hội bảo đảm
khác; trong đó xu hướng nổi trội là tổ chức Mô hình Tòa án gia đình.
3. Đối chiếu các tiêu chí bảo đảm, bảo vệ trong tư pháp hình sự quốc tế với
các quy định BLTTHS 2003 về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN;
cũng như nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành các quy định pháp luật và tổ
chức hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự
liên quan đến NCTN, tác giả đã nhận thấy:
Một là, nhìn chung, các quy định về mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc, mô
hình tố tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam, về cơ bản đã đáp ứng được đòi hỏi
của thực tiễn giải quyết các vụ án có NCTN tham gia tố tụng.
23

×