Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Các loại bệnh thường gặp ở cá La Hán ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.55 KB, 11 trang )

Các loại bệnh thường gặp ở cá La Hán
1. Bệnh mụn ở đầu :

Do ký sinh trùng đơn bào Hexamita gây nên. Nguyên nhân bệnh là so chất lượng
nước dơ và cách chăm sóc cá không đúng cách. Cũng có thể do sự thiếu hụt trong
chế độ ăn hàng ngày. Triệu chứng thông thường của bệnh này là các mụn hay lỗ
nhỏ xuất hiện trên đầu cá nên mới có tên như vậy. Các mụn này thường màu trắng
và có dịch nhày xung quanh và nó từ từ lớn lên. Lúc này cá đi phân ra màu trắng
dài từng sợi.


Cách điều trị :

Trước tiên cần cách ly cách bệnh ra một hồ riêng và chữa trị. Cho vào hồ thuốc
Dimetridazole (5mg/ lít nuớc) hoặc Metronidazole (7mg/ lít nước). Sau 3 ngày tiếp
tục cho thuốc vào hồ với liều lượng như trên. Trong thời gian này chỉ thay khoảng
20-30% nước giữa các lần điều trị. Có thể trong thời gian điều trị cá sẽ bỏ ăn.
Bệnh này nếu phát hiện kịp thời thì tỉ lệ trị thành công rất cao.

2. Bệnh viêm da :

Do vi khuẩn Aeromonas, Pseudomonas và Vbrio gây nên. Cũng có khi do một loài
ký sinh trùng hoặc nấm. Quan sát bên ngoài thấy những vết loang sưng đỏ và càng
ngày càng lớn lên nếu không được chữa trị. Nguyên nhân bệnh là do nước bị ô
nhiễm nặng khiến các loại ký sinh trùng hoặc nấm sinh sôi và bám vào da cá gây
ngứa toàn thân. Vì vậy cá thường cọ xát thân mình vào đáy hồ hoặc bất cứ vật nào
trong hồ.

Cách chữa trị :

Trước hết phải thay nước thường xuyên. Không nên để trong hồ bất cứ vật nào có


cạnh nhọn, sắc vì sẽ làm cho cá bị xước da nặng hơn khi cọ vào. Cho vào hồ các
loại thuốc kháng khuẩn như Acriflavine (3mg/ lít nước), Methylene xanh ( 3mg/ lít
nước). Cứ 3 ngày cho thuốc/ 1 lần và thay khoảng 50% nước trước khi bỏ thuốc
vào.

3. Bệnh cá mất thăng bằng :

Theo các nghệ nhân nuôi cá thì không có biện pháp chữa trị nào hiệu quả cho bệnh
này. Triệu chứng khi bệnh là cá bỗng mất thăng bằng và nằm nghiên qua một bên ,
thân mình cong lại chứng tỏ có sự tổn thương nơi xương sống. Bệnh viêm da lúc
này cũng xuất hiện trên mình cá. Khi mổ cá thì bên trong không có dấu hiệu viêm
nhiễm. vì vậy, nguyên nhân gây bệnh được cho là tổn thương các cơ hoặc các
vùng xung yếu của cơ thể, khuyết tật do di truyền hoặc suy dinh dưỡng.

Cách chữa trị :

Hiện nay chưa có phương pháp nào điều trị hiệu quả. Tuy nhiên cũng có nghệ
nhân chữa bằng cách thay nước cá mỗi ngày, dùng tay đút thức ăn cho cá và đỡ cá
về vị trí cân bằng khi cá nghiên người đi. Phương pháp này cũng cho kết quả
nhưng mất rất nhiều thời gian.

4. Bệnh sưng bảo tử :

Nguyên nhân chính là do cá ăn quá nhiều hoặc bị viêm bong bóng cá. Bụng cá
phình lên như có mang. Để chữa cho cá chỉ còn cách là dùng kháng sinh cho thức
ăn cá hoặc chính thẳng vào bụng cá thì mới hy vọng cứu được vì bệnh này làm cá
chết rất nhanh.

5. Bệnh của cá thường: là do các vết thương ngoài da nhiểm khuẩn gây nên,
những vết thương ngoài da có thể là do bơi lội, đánh nhau, hay va chạm gây nên,

nếu sơ suất không chú ý thì sẽ dẫn đến các bệnh như loét da, mục vây, sưng miệng.

Cách chữa trị :

Nếu như khi phát hiện ra lớp biểu bì cá, vây cá bị thương tổn hoặc tróc vảy, thì có
thể dùng thuốc kháng khuẩn nhúng vào muối, phòng ngừa sự lây nhiễm của ký
sinh trùng, tế khuẩn và nấm. nếu như miệng vết thương quá lớn, thì có thể nhẹ
nhàng bắt cá bỏ lên lòng bàn tay trực tiếp boi thuốc đỏ lên miệng vết thương, rồi
nhúng vào trong bể thuốc, hữu hiệu rất nhanh. Những loại thuốc thường dùng
như : Bị nhiễm nấm thì dùng thuốc Methylene xanh pha theo tỷ lệ 1-3 mg/lít, bệnh
do nhiễm khuẩn thì có thể dùng thuốc Furaciline theo tỷ lệ 0.5–1 mg/lít hoặc thuốc
kháng khuẩn Teracyline 10-20mg/lít , khi dùng thuốc phải chú ý quan sát phản
ứng của cá, để điều chỉnh nồng độ thuốc và thay nước.

6. Bệnh lủng đầu :

Được phân thành hai loại là bệnh do dinh dưỡng và do ký sinh trùng, cá cichlids
thường bị bệnh này. Khi cá bị mắc bệnh này thì trên thân thể của nó đặc biệt là
phần đầu thường xuất hiện những lỗ nhỏ lõm vào, cá không có cảm giác thèm ăn,
phần bụng hóp vào, bài tiết ra những vật có màu trắng bợt, nếu không điều trị kịp
thời, thì những cái lỗ thủng này sẽ thấm qua lớp biểu bì hoặc bụng, phát sinh các
chứng bệnh khác, dẫn đến tình trạng cá chết. Cá bị bệnh lủng đầu do dinh dưỡng
thì thể sắc còn chuyển dần sang màu đen nhợt nhạt ảm đạm, lúc này có thể bổ
sung Vitamin A, D3 và chất quặng vào trong thức ăn. Nếu như bị ký sinh trùng thì
phải khử trùng. Nếu như cá bị bệnh do ký sinh trùng gây ra, thì ngoài triệu chứng
bị lủng đầu thì cả đường ruột và ổ bụng của cá cũng bị lây nhiễm, kèm theo hiện
tượng nổi các hạt màu trắng. Xảy ra hiện tượng này cũng có thể là do nguồn nước
xấu đi, nhiệt độ nước thay đổi, mật độ nuôi và sinh sản quá dày, dinh dưỡng và
hàm lượng Ò không đủ cung cấp cho cá gây nên. Lúc này phải dùng thuốc để điều
trị cho cá.


7. Bệnh đốm trắng :

Triệu chứng của bệnh là bên ngoài cơ thể xuất hiện những đốm màu trắng hoặc
một đám những nốt màu vàng nhỏ. Khi cá bị nhiễm bệnh đốm trắng chúng sẽ bị
ngứa ngáy và không ngừng cọ mình vào xung quanh hồ, vì thế trên thân của chúng
xuất hiện những u nang nhỏ màu trắng, bệnh này rất dễ phát sinh khi nhiệt độ và
độ PH thay đổi đột ngột.

Phương pháp trị bệnh đốm trắng :

Pha muối vào nước khoảng 3-5g/lít , tăng nhiệt độ nước lên khoảng 30C trở lên,
đến khi cá hết bệnh thì ngừng, hoặc sử dụng Methylene xanh 2mg/lít, Malachite
green 0,1-0,2mg/lít tiến hành tắm cho cá trong vòng từ 3-5 ngày. Thuốc chữa bệnh
đốm trắng rất nhiều như hiệu con rồng, tetra, Azoo đều hữu hiệu và sử dụng tương
đối an toàn.

8. Bệnh về mang :

Khi cá bị mắc chứng bệnh này hô hấp dồn dập gấp gáp, nắp mang không đóng lại
bình thường được, tơ mang bị sưng tấy, dịch nhầy tiết ra ngoài cơ thể nhiều hoặc
thể sắc của cá u ám xám xịt. Bệnh về mang được chia thành 2 loại là loại do tế
khuẩn và bệnh do ký sinh trùng, triệu chứng của bệnh không giống nhau, chính vì
thế phương pháp trị bệnh cũng khác. Bệnh về mang phần nhiều là do chất nước
không ổn định , thức ăn nhiễm khuẩn không sạch gây ra, đặc biệt là càng về sau
thì càng dễ mắc bệnh. Bệnh mang do tế khuẩn thì dùng Furaciline và Teracyline
10-25mg/lít , sau khi chữa xong vẫn phải chú ý thay nước, vì thuốc sẽ công phá và
làm tiêu hóa tế khuẩn, đồng thời cũng nên dùng than hoạt tính để lọc thuốc, và
phải nhanh chóng tạo ra một hệ thống lọc sinh vật. Còn bệnh do ký sinh trùng thì
dùng Pormalin 150-200mg/lít, sau 1 giờ phải thay nước.


9. Bệnh đường ruột trên cá la hán :

“Hầu hết các bệnh trên cá la hán đều có nguồn gốc từ đường ruột. Lý do lớp niêm
mạc ruột của cá nhạy cảm một cách đặc biệt với các yếu tố stress. Sự tích tụ mầm
bệnh quá nhiều trong đường ruột sẽ gây hại đến niêm mạc ruột của cá”
a. Nhiễm giun :

- Giun tóc : Giun tóc là một loài giun tròn xuất hiện trên tất cả các loại cá cảnh,
thường ít gây hậu quả nghiêm trọng. Giun tóc rất dài (đôi lúc đến 3cm), nhưng bề
ngang rất hẹp, tối đa chỉ khoảng 1mm. Cá la hán nhiễm bệnh trở nên sẫm màu và
ít ăn. Giun không thể sinh nhiều trong cơ thể cá khỏe mạnh, do đó nếu tìm được
nhiều giun có nghĩa là cơ thể cá đã bị suy yếu trầm trọng hoặc một số lượng lớn
trứng giun đã xâm nhập vào hồ qua các loại thức ăn sống.

Cách chữa trị :

Một liều điều trị duy nhất với FLUBENDAZOL liều 10mg cho 100 lít nước, để
tăng hiệu quả sử dụng FLUBENDAZOL có thể kết hợp với 10ml DMSO
(dimethylsulfoxide) hoặc dùng aceton, nhưng cần phải sục khí mạnh. Để đề phòng
bệnh này nên sử dụng thuốc phòng FLUBENDAZOL trước khi đưa cá mới vào
chung hồ.

- Giun Camallanus : Cá bị nhiễm giun Camallanus thường thấy giun ló ra một nữa
chiều dài ở hậu môn mỗi khi cá đứng yên, không di chuyển nhiều. Loại giun này
gây tổn hại đến cơn thể của cá do nơi hàm khỏe mạnh của chúng, thường cắn vào
thành ruột. Các mô bị tổn thương thường bị chết, tạo điều kiện cho các vi khuẩn
gây bệnh và các mầm bệnh khác tấn công. Nếu chổ tổn thương bị thủng thì các
mầm bệnh sẽ có cơ hội xâm nhập vào bên trong xoang bụng, hậu quả là cá có dấu
hiệu bị nhiễm độc.


Giun dài khoảng 2 cm và dày khoảng 1,5mm, màu đỏ sẫm đến nâu. Giun khi
nhiễm nhiều sẽ thoát khỏi cơ thể cá và rơi xuống đáy hồ. Nếu cá ăn thì lại tiếp tục
bị nhiễm vào.

Cách chữa trị :

Có thể dùng FLUBENDAZOL trộn vào thức ăn hoặc đánh vào nước, sau đó 2
tuần nên dùng thuốc lần nữa để tránh tình trạng tái nhiễm.

b. Nhiễm trùng roi :

Nhiễm trùng roi là loại bệnh rất thường bị trên các loài cá la hán. Trùng roi là 1 cơ
thể đơn bào, có nhiều kích cỡ, hình dạng. Trùng mỏng như sợi chỉ, di chuyển rất
nhanh. Trên cá la hán, trùng roi chỉ gây bệnh được khi hiện diện số lượng lớn.
Những trường hợp nhiễm nhẹ rất nhiều và thường không gây nguy hiểm nhưng
cũng làm cho cá ăn giảm. Trùng ký sinh không thể sinh sôi nảy nở nhanh trong
một cơ thể cá khỏe mạnh. Tuy nhiên nếu cá của bạn bị yếu đi do những bệnh khác
hay do các yếu tố bên ngoài tác động như thức ăn không đủ chất xơ, chất lượng
nước không tốt, trùng roi sẽ bùng nổ về số lượng. Trùng roi nằm trong đường ruột
sẽ lấy đi nhiều chất dinh dưỡng trong thức ăn của cá và gây kích ứng niêm mạc
ruột, do đó sẽ làm cho cá yếu đi nhanh chóng. Cá bị bệnh sẽ yếu đi, sẫm màu,
chán ăn. Trong trường hợp nhiễm bệnh nặng cá sẽ bị rách, thoái hóa phần rìa vây
và vây bị lũng lỗ. Nhưng trước khi đến giai đoạn này cá sẽ bị đi phân trắng.

Trùng roi không lây qua không khí, không lây qua thức ăn đông lạnh mà đường
lây nhiễm là từ nước hồ hay cá bị nhiễm bệnh, đặc biệt là từ cá bố mẹ lây sang cá
con.

Cách chữa trị :


Có thể sử dụng Metronidazol 100mg cho 100 lít nước, ngâm liên tục trong 3 ngày,
năm ngày sau lặp lại; hoặc sử dụng 250mg Metronidazol cho 100gr thức ăn, ăn hai
lần mỗi ngày liên tục trong 6 ngày.

c. Bệnh vi khuẩn đường ruột :

Vi khuẩn cũng là một phần của hệ vi sinh vật đường ruột và đóng vai trò quan
trọng trong việc hổ trợ điều trị tiêu hóa thức ăn. Một vài loại vi khuẩn có thể sanh
sinh ra vitamin.

Giống như nhiễm ký sinh trùng, nhiễm khuẩn đường ruột không biểu hiện triệu
chứng ngay lập tức, chỉ khi nào số lượng tăng lên đến số lượng nhất định thì cá
mới có những triệu chứng không tốt, từ từ chuyển sang màu sẫm và bỏ ăn. Phân
trắng trong giai đoạn này có thể xuất hiện.
Cá nhiễm khuẩn đường ruột cần phải tăng cường nhiệt độ lên 3C, sử dụng kháng
sinh trộn vào thức ăn như Chloramphenicol liều 500mg cho 100g thức ăn, thế
nhưng không phải tất cả các ca bệnh đường chữa trị thành công, việc can thiệp
sớm là rất cần thiết. Nếu cá không ăn thì phải dùng biện pháp ép ăn.

d. Kén trên thành ruột :

Trên các loài la hán cũng như nhiều loài cichlid có kích thước lớn khác, khi mổ tử,
người ta thường phát hiện kén hình thành trên thành ruột. kén này có thể không
gây độc nếu nó chỉ là thành phần thức ăn có nhiều góc cạnh đâm vào thành ruột và
bị hệ thống miễn dịch của cá bao phủ. Kén thường thấy trên cá la hán khi cho ăn
tép quá lớn, những cạnh sắc trên vỏ tép có thể đâm vào thành ruột, hệ thống miễn
dịch sẽ phát triển các mô bao xung quanh vật lạ này và tạo thành kén. Sự nhiễm
khuẩn cũng hình thành kén theo cơ chế tương tự.


e. Viêm ruột :

Hiện tượng viêm ruột có thể nhận thấy bằng hiện tượng xuất hiện khu vực có màu
đỏ dọc theo thành ruột. Trong một số trường hợp nặng, có thể có hiện tượng chảy
máu mô. Nguyên nhân của hiện tượng viêm có thể là do khẩu phần ăn không tốt
hoặc cho ăn thức ăn đông lạnh nhưng khi cá nuốt vào thức ăn chưa tan hết. Thế
nhưng nguyên nhân phổ biến nhất của hiện tượng viêm trong đường tiêu hóa là do
stress kết hợp với các hiện tượng viêm nhiễm bởi các mầm bệnh khác nhau. Một
vài loại virus, vi khuẩn và trùng roi, nếu hiện diện với số lượng đủ lớn sẽ gây ra
hiện tượng viêm, nhưng rất khó xác định nếu thiếu trang thiết bị và kiến thức vi
sinh thích hợp. Nếu nguyên nhân không được loại trừ, hiện tượng viêm sẽ càng
ngày càng nặng thêm cho đến khi đường ruột ngừng mọi chuyển động tại khu vực
bị viêm và đường đi của thức ăn sẽ bị tắc nghẽn.

Nếu chúng ta nghi ngờ cá bị viêm ruột thì nên tăng nhiệt độ lên khoảng 3C, điều
này sẽ đẩy mạnh hệ miễn dịch của cá. Vì khi nhiệt độ tăng sẽ kích thích sự sản
xuất các tế bào miễn dịch và các kháng thể. Nếu tăng nhiệt độ không mang lại kết
quả rỏ rệt, hãy cho cá ăn kháng sinh Chloramphenicol sẽ có kết quả tốt.

f. Tắt ruột :

Có rất nhiều lý do gây tắc ruột, có thể là do nhiễm số lượng lớn các loại giun hay
là kết quả của hiện tượng viêm. Tuy nhiên, nguyên nhân phổ biến là sử dụng khẩu
phần ăn có quá ít chất xơ hoặc không có chất xơ. Nhìn bề ngoài, tắc ruột dễ bị
nhầm lẫn với sình bụng, nhưng sình bụng trong giai đoạn đầu cá không hề ăn,
trong khi tắc ruột cá vẫn ăn với số lượng ít. Cá tắc ruột chết rất nhanh, tểh hiện
triệu chứng ngộ độc trầm trọng. Một khẩu phần thức ăn tốt, đa dạng sẽ là phương
cách phòng bệnh hiệu quả nhất. Điều trị không hề hiệu quả nếu tắc ruột quá lâu.
Trong giai đoạn đầu có thể chữa trị hiệu quả bằng cách dùng thuốc nhuận tràng kết
hợp với tăng nhiệt độ lên. Nếu thành công cần phải kết hợp với khẩu phần nhiều

chất xơ ít nhất trong hai tuần.

g. Sình bụng :

Bệnh sình bụng hiếm khi bùng nổ thành dịch, nó chỉ ảnh hưởng trên từng cá thể.
Bệnh rất dễ nhận ra với sự sưng phồng to ở vùng bụng. Cá bị sình bụng cần phải
đưa ra hồ cách ly càng sớm càng tốt, vì nó cần được điều trị trong môi trường cách
biệt với những con cá khác. Thông thường bệnh này thường kết hợp với triệu
chứng hình thành phân trắng, nhầy và những chổ phồng nhỏ chạy dọc theo giữa
thân cá. Nếu cá không biểu hiện bất kỳ triệu chứng nào khác ngoài triệu chứng
phồng to bụng thì rất có khả năng cá bị tắc ruột hay bị bướu và thường xảy ra khi
cá đang ăn bình thường. Tuy nhiên, chắc chắn hay không chỉ xác định khi mổ ra
mà thôi.

Bệnh sình bụng cá cảnh thường có nguyên nhân bắt đầu do nhiễm virus, sau đó kết
hợp với nhiểm khuẫn. do đó bệnh sình bụng phải được xem là một bệnh kết hợp.
Ở giai đoạn đầu thuờng cá có gan màu vàng. Nếu mổ bụng cá bị sình bụng ra,
chúng ta sẽ thấy xoang bụng chứa đầy chất lỏng; một số bộ phận trong xoang cơ
thể bị teo lại. Đôi lúc các dịch tích nơi xoang bụng tạo áp lực trên bong bóng khí,
do đó làm cho cá không thể nổi lên trên mặt nước được.

Cách chữa trị :

Dùng Chloramphenicol trong hồ cách ly, lưu ý những con cá còn lại trong cùng
một hồ cũng phải phòng bệnh với Nifurpirinol (100mg cho 40 lít nước).

g. Bệnh nấm :

Cá La hán rất dễ bị nhiễm nấm, việc trị nấm cũng rất dễ. Ngay khi phát hiện nấm
trên mình cá phải rút 1/2 nước trong hồ (để giảm áp lực nước đè lên cá), sau đó bỏ

muối vào (200g muối hột/100lít nướ), tăng nhiệt độ lên 32 C. Sau 2 ngày, thay 1/2
nước và tiếp tục giữ nhiệt độ 32 C, lúc này không cho cá ăn. Cứ tiếp tục thay 1/2
nước mỗi ngày, thường chỉ sau 4-5 ngày sau cá sẽ bình phục hoàn toàn, lúc ấy mới
cho cá ăn trở lại.

Nếu bạn phát hiện cá bị nhiễm nấm trễ, lúc này cá của bạn bị nấm nặng. Ngoài
việc trị liệu bằng muối và nhiệt độ, các bạn ra tiệm cá mua thuốc trị nấm bỏ vào hồ
( liều lượng dùng xem trên bao bì thuốc).

×