BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRƢỜNG CAO ĐẲNG NÔNG LÂM ĐÔNG BẮC
TÀI LIỆU HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN
CHƢƠNG TRÌNH MÔ-ĐUN
KỸ THUẬT TRỒNG NẤM
Giáo viên biên soạn: Trần Thị Thắm Hồng
Quảng Ninh, 07-2012
1
MÔ ĐUN 1. CHUẨN BỊ CÁC ĐIỀU KIỆN NUÔI TRỒNG NẤM
I. Nguyên liệu
Nguyên liệu chính để trồng nấm là tất các các loại phế thải giàu xellulose như mùn cưa,
rơm, rạ, bông phế thải, các thân cây gỗ mềm
1. Rơm rạ.
Rơm và rạ phơi khô không bị mốc đánh đống dùng dần, nếu rơm rạ bị mục, ướt mốc thì
không nên dùng vì có thể không có hiệu quả hoặc năng suất thấp.
2. Mùn cƣa.
Các loại mùn cưa gỗ mềm, không có tinh dầu như: cao su, bồ đề, keo phơi khô dùng
dần.
Mùn cưa dùng để trồng nấm không được lẫn các loại mùn cưa có tinh dầu khác.
3. Thân cây gỗ.
Cành lá còn xanh tốt độ tuổi 3-5 năm, gỗ mềm, có nhựa trắng (mít, sung, ngái, bồ đề, so
đũa, giâu gia xoan, đa búp đỏ, duối, dừa, cao su, sau sau ). Đường kính gỗ 5-20 cm, chặt song
để khoảng 5-6 ngày là dùng được. Gỗ mít thường được dùng để trồng mộc nhĩ, gỗ keo tai
tượng thường dùng làm nấm linh chi. Gỗ dùng trồng nấm là gỗ tươi.
4. Bông phế thải
Là phế thải của các nhà máy dệt, bông phế thải đảm bảo phơi thật khô, không mốc
5. Các loại phụ gia
Đạm sulfat amôm; Lân; CaCO
3;
Vôi; Đạm urê; Tỉ lệ phối trộn tuỳ loại nấm.
II. Giống nấm
Giống nấm có thể mua tại các cơ sở sản xuất nấm, các cơ sở hoặc gia đình sản xuất lớn
có thể đầu tư tự sản xuất giống nấm.
Giống nấm được đựng trong các chai thuỷ tinh, chai nhựa hoặc trong túi nilon, giống
được nhân trên giá thể thóc, mùn cưa, vỏ trấu
Giống nấm đảm bảo chất lượng phải có các tiêu chuẩn sau đây:
a) Không nhiễm bệnh: tức là không nhiễm nấm, khuẩn. Quan sát ngoài bao bì thấy giống có
màu trắng đồng nhất đều từ trên xuống, không có đốm đen, đốm vàng, nắm nhẹ không thấy bị
nhão.
b) Giống có mùi thơm dễ chịu: Khi cấy thấy giống có mùi thơm, không chua hôi, nếu có mùi
chính tỏ nấm nhiễm khuẩn hoặc nấm khác.
c) Không già, không non: Nếu thấy có mô sẹo hoặc cây nấm mọc bên trong, chai nấm chuyển
sang màu vàng là nấm già. Giống chưa ăn kín đáy bao bì là giống non. Giống già và giống non
khi cấy đều cho năng suất thấp. Sử dụng tốt nhất ngay sau khi giống ăn kín đáy. Khi chưa cấy
2
được ngay có thể bảo quản giống ở nhiệt độ lạnh. Giống nấm sò, nấm mỡ, nấm hương, linh chi
bảo quản ở nhiệt độ 2-5
0
C kéo dài 30-45 ngày, mộc nhĩ, nấm rơm bảo quản nhiệt độ 15-20
0
C,
kéo dài 15-30 ngày.
Chú ý: cần để riêng, phân biệt chính xác các chủng giống tránh trồng nhầm lẫn.
III. Nhà xƣởng trồng nấm
Tuỳ thuộc vào điều kiện của từng địa phương, cơ sở sản xuất, từng gia đình để xây
dựng nhà xưởng trồng nấm cho phù hợp. Có thể dựng nhà kiên cố hoặc nhà tạm để trồng nấm.
Đối với những hộ nông dân có thể tận dụng những nhà cũ, bếp, lán trại bỏ hoang tu sử thành
trại trồng nấm.
Nhà trồng nấm phải đảm bảo các yếu tố cần thiết như che được mưa nắng, có hệ thống
cửa chắc chắn có thể mở ra để điều chỉnh, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, tránh được gió lùa. Về
nhiệt độ nhà đảm bảo càng mát càng tốt. Độ ẩm luôn giữ được ở mức cao khi tưới nước, phun
nước nhà phải đảm bảo mất nước ít nhất. Không xây dựng nhà ở những nơi quá ẩm thấp, độ
thông thoáng của nhà phải cao.
Nhà trồng nấm đảm bảo vệ sinh tốt bằng cách sau mỗi vụ nuôi trồng phải phun
foocmon 0.5% hoặc đốt bột lưu huỳnh để xông nhà. Thường xuyên vệ sinh khu vực thoát nước
xung quanh nhà trồng nấm, nhà trồng nấm thường xuyên phải chú ý thường xuyên đến khâu vệ
sinh.
Đảm bảo an ninh tốt khu vực nuôi trồng.
Có một số dạng nhà trồng nấm sau:
a) Kiểu nhà chữ A:
Kiểu nhà này phù hợp với trồng nấm rơm và nấm mỡ.
Là nhà có dạng chữ A, được làm bằng tre, gỗ, mái phủ nilon thứ sinh, trên lợp thêm lá
mía, thân cây ngô hoặc lá chuối tạo độ mát, phần mái sát đất phải có rãnh thoát nước hai bên
mái.
Trên mái có thể trồng thêm cây leo tăng thêm độ mát, làm cửa ở hai đầu để điều chỉnh
ánh sáng và độ thông thoáng.
b) Kiểu nhà bình thường:
Cửa
Rãnh thoát nước
3
Kiểu nhà này thường trồng được các loại nấm. Kiểu nhà này chính là nhà ở, nhà bếp
thông thường. Có thể tận dụng các nhà không sử dụng sửa chữa điều chỉnh độ mát, độ thông
thoáng là có thể trồng được. Trong nhà thiết kế giá, dây treo dịch để tiết kiệm diện tích.
Xây nhà mới: Mái nhà cũng làm bằng nilon thứ sinh, trên lợp thêm lá, giá đặt túi làm
bằng tre hoặc gỗ (hoặc dây treo), các cơ sở sản xuất lớn có thể làm các giá bằng sắt, làm 5-6
tầng, mỗi tầng cách nhau 50 cm, giá thấp nhất cách mặt đất 30 cm, chiều rộng giá 1,2-1,3m, kê
các giá sao cho thuận tiện đi lại, chăm sóc.
Diện tích trồng nấm rơm, nấm sò, mộc nhĩ hết 70m
2
/1tấn nguyên liệu, nấm mỡ hết 30-
35m
2
/1 tấn nguyên liệu, tuỳ thuộc vào ý định đầu tư người nuôi trồng nấm có thể dựng nhà cho
phù hợp.
Tủ và phòng cấy giống: chọn một phòng có diện tích nhỏ, đặt một tủ gỗ có dạng tủ cấy
vi sinh, lắp thêm đèn cực tím, khi cấy cần thêm đèn cồn tăng độ vô trùng. Đối với các cơ sở
lớn có thể thanh trung ở nhiệt đô 121
0
C thì nên trang bị như một phòng cấy vi sinh vật, tức là
phòng có tủ cấy vi sinh, đèn cực tím, điều hoà. Phòng cấy thường xuyên được khử trùng sach
sẽ.
IV. Các dụng cụ chuyên dùng khác
1. Khuôn gỗ: dùng để trồng nấm rơm, khuôn gỗ có cấu tạo hình thang, mặt trong phẳng
a. Chiều rộng đáy dưới 0,4m
b. Chiều rộng đáy trên 0,3m
c. Chiều dài đáy trên 1,1m
d. Chiều dài đáy dưới 1,2m
e. Gờ hai đầu khuôn
h. Ciều cao khuôn 0,4m
e
h
d
c
b
e
a
4
Khuôn gỗ trồng nấm rơm
2. Dụng cụ tưới: bình odoa, bình phun sương, máy bơm.
3. Bể ngâm rơm: xây bể tạm thời bằng ximăng, cát khoảng 1m
3
đáy có lỗ thoát nước, có thể tận
dụng các chum to, (nếu không có điều kiện xây bể có thể làm ướt rơm bằng cách phun nước
vôi trực tiếp lên rơm đã làm ướt).
4. Kệ lót đống ủ: đóng như dát giường, nên đóng thành 2-3 mảnh ghép vào nhau đẻ dễ dàng
vận chuyển và cất đi khi không dùng, có thể xếp gỗ giống như dát giường.
5. Búa chuyên dụng: búa được thiết kế khi bổ vào thân gỗ phoi gỗ bật ra nhưng không bị vỡ và
dập nát, vì sau khi tra giống cần dùng đến phoi gỗ đó. Loại búa này dùng để trồng nấm hương,
mộc nhĩ trên thân gỗ.
6. Các dụng cụ khác: Xô chậu, cọc gỗ, rổ giá, dao, kéo, dây buộc, milon phủ, cào , nhiệt kế,
ẩm kế, baume kế, giấy thử pH, bông nút, cổ nút, chun
7. Nguồn nước: nguồn nước đảm bảo sạch, dùng nguồn nước ăn hàng ngày
8. Công lao động và vốn đầu tư:
Người nuôi trồng nấm phải hiểu rõ về vốn đầu tư cho từng loại nấm. Giai đoạn tập
trung nhiều công lao động nhất là giai đoạn xử lý nguyên liệu, chăm sóc và thu hái. Công lao
động tập trung không đều, có giai đoạn làm liên tục có giai đoạn cần rất ít công vì vậy người
5
đầu tư cần chú ý. Tổng số công cần cho sản xuất các loại nấm như sau, tính cho một tấn
nguyên liệu:
+ Nấm mỡ: 30 công
+ Nấm rơm: 20 công
+ Nấm sò: 30 công
+ Mộc nhĩ (trên thân gỗ 15 công)
+ Nấm hương: 15 công
+ Linh chi (trên thân gỗ): 30 công
6
MÔ ĐUN 2. TÍNH TOÁN CHI PHÍ
Trong chương này những tính toán ở mức tương đối giúp người học có cái nhìn sơ bộ
về chi phí sản xuất từng loại nấm. Giá cả từng loại nguyên vật liệu, từng vùng khác nhau, gia
cả sản phẩm cũng khác nhau tuỳ từng nơi, người học có thể tham khảo để tận dụng những thế
mạnh của dịa phương, gia đình để tính toán sản xuất cho phù hợp. Các chi phí về bông nút, cổ
nút có thể không được tính vào đợt sản xuất sau vì có thể tận dụng dùng lại được. Chương này
tác giả chỉ đưa ra gợi ý về số lượng nguyên vật liệu dùng và năng suất của từng loại nấm, mỗi
địa phương có giá cả nguyên liệu và công lao động khác nhau.
I. Tính toán chi phí sản xuất nấm sò
* Đối với trồng nấm sò trên rơm
STT
Nội dung
ĐVT
Số
lƣợng
Đơn
giá
thành
tiền
1
Rơm
kg
1,000
2,000
2,000,000
2
Giống
kg
40
20,000
800,000
3
Bông nút
kg
4
20,000
80,000
4
Túi nilon
kg
5
55,000
275,000
5
Công lao động
công
30
100,000
3,000,000
6
Chi phí phát sinh khác
300,000
7
Khấu hao
200,000
Tổng
6,655,000
* Đối với trồng nấm sò trên mùn cưa
STT
Nội dung
ĐVT
Số
lƣợng
Đơn
giá
thành
tiền
1
mùn cưa
kg
1,000
2,000
2,000,000
2
Giống
kg
40
20,000
800,000
3
Bông nút
kg
4
20,000
80,000
4
Túi nilon
kg
5
55,000
275,000
5
Công lao động
công
30
100,000
3,000,000
6
Năng lượng
500,000
7
Chi phí phát sinh khác
300,000
8
Khấu hao
200,000
Tổng
7,155,000
Năng suất trung bình thu được 500kg nấm tươi/1tấn nguyên liệu khô.
7
2. Tính toán chi phí sản xuất mộc nhĩ
* Đối với trồng mộc nhĩ trên mùn cưa
STT
Nội dung
ĐVT
Số
lƣợng
Đơn
giá
thành
tiền
1
Mùn cưa
kg
1,000
2,000
2,000,000
2
Giống
chai
20
20,000
400,000
3
Bông nút
kg
4
20,000
80,000
4
Túi nilon
kg
5
55,000
275,000
5
Công lao động
công
30
100,000
3,000,000
6
Điện
500,000
7
Chi phí phát sinh khác
300,000
8
Khấu hao
200,000
Tổng
6,755,000
* Đối với trồng mộc nhĩ trên thân gỗ
STT
Nội dung
ĐVT
Số
lƣợng
Đơn
giá
thành
tiền
1
Gỗ
kg
1,000
2,000
2,000,000
2
Giống
chai
10
20,000
200,000
3
Công lao động
công
20
100,000
2,000,000
4
Chi phí phát sinh khác
200,000
Khấu hao
200,000
Tổng
4,600,000
* Năng suất 20kg nấm khô/m
3
gỗ
8
MÔ ĐUN 3. KỸ THUẬT NUÔI TRỒNG MỘT SỐ LOẠI NẤM
A/ KỸ THUẬT TRỒNG NẤM SÒ
I. Đặc tính sinh học.
Nấm sò là một loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Hàm lượng đạm thực vật
(protein) lớn hơn gấp đôi so với trứng gà, rất giàu các chất khoáng và các loại vitamin A, B, C,
D, E … không có độc tố. Do vậy được coi như một loại ―rau sạch‖ và ―thịt sạch‖ góp phần cải
thiện dinh dưỡng cho bữa ăn hằng ngày và có nhu cầu tiêu thụ ngày càng lớn, nhất là các vùng
đô thị.
Nấm sò có nhiều chủng khác nhau về màu sắc, hình dạng, khả năng thích nghi với điều
kiện nhiệt độ, chu kỳ sinh trưởng, phát triển của nấm sò như sau: khi cây nấm trưởng thành sẽ
phát tán bào tử trong không khí, nhờ gió bào tử rải ra mọi nơi, gặp điều kiện môi trươờng thích
hợp, bào tử nảy mầm phát triển thành sợi nấm đơn nhân. Hệ sợi đơn nhân phát triển và kết hợp
với nhau tạo thành sợi nấm song nhân, hệ sợi này phát triển thành quả thể nấm hoàn chỉnh.
II. Đặc điểm nuôi trồng.
- Nấm sò có thể nuôi trồng quanh năm nhưng thuận lợi nhất từ tháng 8 đến tháng 3
dương lịch hàng năm.
- Hiện nay có hai loại nấm sò phổ biến được nuôi trồng:
- Nấm sò chịu nhiệt: quả thể màu trắng, sinh trưởng, phát triển trong khoảng nhiệt độ từ
20-28
0
C.
- Nấm sò ưa lạnh: quả thể màu tím, sinh trưởng, phát triển trong khoảng nhiệt độ 15-
22
0
C. Độ ẩm giá thể: 65-70%, độ ẩm không khí >80%. Độ pH=7, trong giai đoạn nuôi sợi
không cần ánh sáng, khi nấm hình thành quả thể cần ánh sáng tán xạ (ánh sáng đọc sách được),
giai đoạn này cần chú ý thông gió trong nhà trồng nấm.
- Nguyên liệu dùng để trồng nấm sò gồm nhiều loại, phổ biến nhất là rơm rạ, mùn cưa.
III. Công nghệ nuôi trồng
1. Xử lý nguyên liệu.
- Xử lý rơm rạ: ủ nguyên liệu thành đống, với khối lượng đủ lớn để tăng nhiệt độ đống
ủ đạt 60-70
0
C, thời gian ủ 6-7 ngày. Trọng lượng trung bình của đống ủ đạt 300 kg nguyên
liệu. Làm ướt nguyên liệu bằng nước vôi trong theo tỷ lệ 3,5 kg vôi tôi hòa trong 1000 lít
nước. Dùng bao tải hoặc bao ni lông để quây đậy xung quanh nhằm giữ nhiệt trong đống ủ. Cứ
2-3 ngày đảo một lần, điều chỉnh ẩm độ 65 – 70%, đảo tiếp lần 2, lần 3 sau 6-7 ngày kiểm tra
thấy nguyên liệu có màu vàng sáng, mềm, có mùi thơm dễ chịu, độ ẩm 65% là đạt yêu cầu.
Nếu quá ẩm hoặc quá khô cần điều chỉnh bằng cách phơi hoặc thêm nước, ủ lại 1-2 ngày sau
mới trồng.
9
- Chú ý: rơm rạ phải được ủ trện kệ gỗ và có cọc thông khí để đảm bảo cho nhóm vi
khuẩn ưa kiềm hiếu khí hoạt động.
- Sau khi ủ, băm rơm rạ thành từng đoạn 10-15cm (nhỏ hơn càng tốt), băm xong phải
đóng bịch ngay hoặc ủ lại tránh rơm bị khô.
2. Đóng bịch, cấy giống.
a) Chọn meo giống
Là khâu quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất trồng nấm. Chọn meo giống tốt,
đúng tuổi, không nhiễm tạp khuẩn sẽ cho năng suất cao và chất lượng nấm tốt.
Tiêu chuẩn bịch meo tốt: sợi tơ nấm màu trắng trong, mở nắp bịch có mùi tương tự như
nấm rơm. Tơ nấm phát triển đều khắp mặt trong bịch meo. (Riêng một số meo giống, khi tơ
trưởng thành, bắt đầu kết tụ lại thành những hạt màu đỏ nâu vẫn cho năng suất tốt).
Chú ý khi chọn meo giống: không chọn sử dụng bịch meo có đốm màu nâu, đen, vàng
cam vì đã bị nhiễm nấm dại. Không chọn bịch meo phía dưới đáy bịch bị ướt, bị nhão và có
mùi hôi chua.
b) Đóng bịch cấy giống
Rơm băm cho vào túi ni lông kích thước 30x40cm, trọng lượng đạt 1,5-2 kg nguyên
liệu/túi. Lượng giống cấy cho 1 túi khoảng 40-50g (40kg giống cho 1 tấn nguyên liệu). Cho
một lớp nguyên liệu cao 5-7cm vào túi đã gấp đáy vuông, rắc một lớp giống nấm xung quanh
túi. Làm như vậy đủ 3 lớp, lớp trên cùng rắc nấm đều trên mặt. Lấy một nút bông bằng miệng
ly uống trà tạo nút cho túi nilong và dùng dây cao su quấn chặt. Túi đựng nguyên liệu đã cấy
nấm được căng tròn và có độ nén vừa phải.
* Đối với mùn cưa: mùn cưa được làm ướt bằng nước vôi có độ pH = 10-11, trộn đều
cho đạt độ ẩm 65-70%, sau đó vun lại thành đống, mỗi đống 100kg trở lên, đáy đống ủ nên lót
vật liệu dễ thoát nước, ủ ngoài trời cần có nilon che mưa. Thời gian ủ 30-45 ngày, sau ủ cứ 10
ngày đảo đống ủ cho đều, làm như vậy để các hệ vi sinh vật có điều kiện hoạt động mạnh và
phân huỷ nhanh cellulo. Hết thời gian ủ trộn thêm 5-10% bột cám gạo hoặc cám ngô. Cho
nguyên liệu vào bịch nilon chịu nhiệt, nút cổ túi bằng ống nhựa và nilon không thấm nước đưa
vào thanh trùng bằng cách hấp cách thuỷ trong 24 giờ, lấy ra để nguội và cấy giống trên bề
mặt mùn cưa qua cổ nhựa.
3. Ươm và rạch bịch:
Bịch nấm đã được chuyển vào phòng ươm, đặt trên giá hoặc để trực tiếp xuống nền đất
theo chiều nút bông phía trên. Khoảng cách giữa các bịch từ 5-10cm. Phòng ươm phải sạch sẽ,
thông thoáng, không cần ánh sáng.
10
Rạch bịch: bịch nấm đã phát triển tốt sau 20-30 ngày, khi sợi nấm lan kín bịch tạo ra
một màu trắng đồng nhất, rắn chắc, dùng dao nhọn sắt rạch 4-6 đường xung quanh túi nấm,
khoảng cách giữa các đường rạch đều nhau, chiều dài vết rạch 3-4cm, gỡ nút bông ra, dùng
chun buộc chặt miệng túi, treo ngược bịch trên dây hoặc úp miệng túi quay xuống phía dưới và
đặt bịch cách nhau 15-20cm để khi nấm ra không chạm vào nhau. Chỉ tưới ẩm nền nhà không
được tưới nước vào bịch.
4. Chăm sóc và thu hái:
- Tưới nước: Khi rạch bịch được 4-6 ngày, trên thành bịch đã xuất hiện những cụm nấm
nhỏ li ti thì bắt đầu tiến hành tưới nước bên ngoài túi. Tùy theo lượng nấm ra nhiều hay ít, to
hay nhỏ, độ ẩm không khí cao hay thấp mà điều chỉnh số lần và lượng tưới trong ngày. Tưới
nước dưới dạng phun sương, lượng ít nhưng kéo dài thời gian tưới, trung bình 4-6 lần trên một
ngày. Sau khi thu hết đợt 1 ngừng tưới nước khoảng 5-7 ngày sau nấm lại ra tiếp các đợt sau.
- Thu hái: Nấm sò mọc tập trung thành cụm nên khi nấm đủ lớn cần hái cả cụm. Hái
nấm không được để sót phần gốc trên bịch nấm, nếu sót gốc phải gỡ hết đi để nấm ra đợt sau
tốt hơn. Tổng thời gian thu hái nấm kéo dài trong 30-45 ngày kể từ ngày hái đầu tiên.
5. Chế biến nấm.
a) Tiêu thụ nấm tươi: nấm sau khi thu hái xong, dùng dao sắc cắt sạch phần gốc, tách cụm nấm
thành những cụm nhỏ, cho vào túi nilon buộc kín, vận chuyển nhẹ nhàng tới nơi tiêu thụ, bảo
quản ở nhiệt dộ 5-8
0
C được 24 giờ, nấm tươi nhanh bị hỏng và dễ bị dập nát vì vậy quá trình
tiêu thụ và vận chuyển trong bao bì phải cẩn thận, thời gian từ thu hái đến tay người tiêu dùng
sao cho ngắn nhất.
b) Phơi sấy khô: dùng tay xé nhỏ cây nấm theo chiều dọc từ cuống đến mũ nấm, phơi sấy ở
nhiệt độ 40-45
0
C nấm có màu vàng, thơm ngon. Sấy xong cho vào túi buộc chặt để nơi khô
ráo.
6. Năng suất.
Năng suất trung bình đạt 50-60% nguyên liệu rơm rạ khô. Nếu gặp điều kiện thuận lợi
chăm sóc đúng kỹ thuật năng suất có thể đạt gần 100%.
B/ KỸ THUẬT TRỒNG MỘC NHĨ
I. Đặc tính sinh học của mộc nhĩ.
- Mộc nhĩ có nhiều loại khác nhau: loại cánh mỏng, loại cánh dày, mọc phổ biến ở vùng
nhiệt đới nóng ẩm.
- Mộc nhĩ phát triển mạnh vào đầu mùa xuân.
- Mộc nhĩ vừa là thực phẩm quý mà còn là một loại dược liệu, mộc nhĩ có thể tham gia
chữa các bệnh bướu cổ, nóng trong, tóc bạc sớm…
11
- Nhiệt độ thích hợp: 28-32
o
C, độ ẩm nguyên liệu (cơ chất) 60-65%, độ ẩm khu vực
nuôi trồng 90-95%.
- Giai đoạn phát triển sợi cần độ thông thoáng tốt, giai đoạn mọc quả thể cần độ thông
tháng vừa phải, thời kỳ ủ sợi để trong bóng tối.
- pH 8-12.
- Mộc nhĩ phát triển tốt trên các loại cây gỗ mềm, không có tính dầu, có nhựa trắng, vỏ
trấu, vỏ lạc, thân cau, dừa…
II. Thời vụ nuôi trồng:
- Mộc nhĩ ưa nóng ẩm nên hàng năm, nên thời kì phù hợp là cuối tháng 4 đến tháng 7
dương lịch đối với các tỉnh phí Bắc.
- Năng suất bình quân hiện nay là 20-25kg mộc nhĩ khô/1m
3
gỗ.
III. Các loại sâu bệnh
- Thường là kiến chuột, một số loại nấm mốc.
- Khi phát hiện nấm cần cách li ra khỏi khu vực nuôi trồng.
IV. Một số vấn đề thƣờng xảy ra khi trồng mộc nhĩ
a) Năng suất thấp do:
- Sợi nấm phát triển kém.
- Các vi sinh vật phá hoại giống nấm trước khi giống phát triển.
- Các loại nấm dại phát triển cạnh tranh dinh dưỡng.
- Các loại sâu bệnh xâm nhập từ nguồn nước tưới không đảm bảo sạch.
b) Xuất hiện một loại nấm mốc màu trắng, sau đó chuyển sang màu vàng và có mùi hôi thối
do nhà nuôi trồng thấp, vệ sinh không tốt. Cần rửa nền nhà bằng nước vôi đặc không để nước
đọng lâu trong nền nhà.
c) Lớp vỏ gỗ bị bong ra dễ dàng do vận chuyển hoặc thời gian thu hái lâu gây thối vỏ.
d) Mộc nhĩ chỉ lên ở phía dưới do tưới nước không đều.
e) Mộc nhĩ lên nhiều nhưng thối rữa hàng loạt do bị dịch côn trùng phá hoại, có nấm hại và
vi khuẩn gây bệnh.
V. Kỹ thuật trồng mộc nhĩ trên mùn cƣa
a) Xử lý nguyên liệu
* Tiêu chuẩn nguyên liệu: Ta có thể trồng mộc nhĩ trên nhiều loại mùn cưa khác nhau tuy
nhiên không được mốc, không dùng mùn cưa của các cây có tinh dầu, các loại cây gỗ cứng.
Tốt nhất là mùn cưa cao su, bồ đề. Mùn cưa mới dùng ngay là tốt nhất. Nếu dùng dần phải
phơi khô đóng bao tránh lên men hoặc bị ẩm mốc làm mất dinh dưỡng.
12
* Xử lý: Tạo độ ẩm mùn cưa bằng nước sạch, ủ thành đống, che đậy bằng nilon để mùn cưa
ngấm đủ nước và trương nở các tế bào gỗ, sau 24 giờ tiến hành phối trộn nguyên liệu theo tỉ lệ:
- Mùn cưa đã tạo ẩm: 100kg
- Bột nhẹ (CaCO
3
): 1kg
- Hoặc vôi bột: 0,5kg
Trộn thật đều nguyên liệu với bột nhẹ hoặc vôi bột, kiểm tra độ ẩm đạt 65%, ủ đống 2-3
ngày, đảo đống ủ, ủ tiếp 2-3 ngày sau đó tiến hành đóng túi nilon (loại kích thước
19cmx37cm) túi có hình dáng một khúc gỗ cao 20-22cm.
(Xử lý mùn cưa giống trồng linh chi)
b) Đóng túi: Mùn cưa được tạo ẩm và ủ, sau đó trộn thêm các loại phụ gia rồi đóng vào túi sao
cho trọng lượng đạt 1,1 - 1,4kg và tiến hành thanh trùng.
c) Thanh trùng: Hấp cách thuỷ ở nhiệt độ 100
0
C, thời gian 10 - 12 giờ hoặc thanh trùng bằng
nồi áp suất ở nhiệt độ 119 – 126
0
C trong thời gian 90 - 120 phút.
d) Phương pháp cấy giống:
- Sau khi hấp khử trùng lấy ra và để nguội cho vào phòng cấy giống.
- Dùng que sắt khều giống ra khỏi chai hoặc túi cho sang túi mùn cưa. Tỉ lệ giống 1,2%
so với trọng lượng túi mùn cưa (túi mùn cưa 1,2-1,4kg ta cấy 12-15g giống nấm). - - Sau
khi cấy nút bằng nút bông cho sang khu vực ươm.
e) Ươm giống
- Nơi ươm sợi là một phòng sạch sẽ, có giàn nhiều tầng để tăng diện tích sử dụng.
- Nhiệt độ phòng ươm thích hợp 25-30
0
C, không cần ánh sáng, thời gian ươm sợi kéo
dài 25-30 ngày. Ta thấy các sợi nấm màu trắng lan dần từ trên xuống dưới hoặc từ trong ra, tới
khi nào sợi nấm lan dần kín đáy, trông túi mùn cưa trằng như sợi bông là được.
f. Rạch bịch, chăm sóc thu hái
- Khi sợi lan khắp túi lấy dao sắc rạch 5-6 đường xung quanh túi mỗi đường khoảng 5-6
cm.
- Khi mộc nhĩ bắt đầu mọc, ta chuyển sang khu vực chăm sóc có thể xếp trong nhà, lán
trại hoặc giàn treo.
- Khi mộc nhĩ bắt đầu mọc ta phải tưới nước và tưới liên tục. Mỗi ngày 2-3lần. Cách tốt
nhất là dùng bơm phun sương lên mặt túi.
- Khu vực nhà trồng cần tránh gió nhưng cũng cần có ánh sáng nhẹ, độ ẩm trong phòng
80% để mộc nhĩ không bị khô héo. Giai đoạn thu hoạch kéo dài 35-40 ngày, khoảng 10 ngày
thu hái một lứa. Khi kết thúc một đợt cần vệ sinh phòng.
VI. Một số loại sâu bệnh hại mộc nhĩ và cách phòng chống.
13
- Trong quá trình trồng mộc nhĩ thường xuất hiện mốc xanh, mốc vàng, mốc đen trên túi
mùn cưa. Ngoài ra nấm mực cũng xuất hiện và cạnh tranh dinh dưỡng với mộc nhĩ.
- Phòng tránh bằng cách khử trùng nguyên liệu tôt, phòng nuôi phòng cấy giống phải
đảm bảo vệ sinh. Khi bệnh xuất hiện lập tức loại trừ ra khỏi khu vực nuôi.
VII. Kỹ thuật trồng mộc nhĩ thân cây gỗ
a) Chọn gỗ và nhà xưởng:
- Có rất nhiều loại gỗ có thể trồng mộc nhĩ, tuy nhiên các loại gỗ có nhựa trắng, thân gỗ
mềm xốp, không độc không có tinh dầu thì có thể trồng mộc nhĩ tốt. Thường là các loại cây
như: sung, vả mít ngái, bồ đề, giâu gia xoan, đa búp đỏ, duối, cao su
- Lưu ý là trồng trên thân cây tươi, tốt nhất là sau khi chặt 5-7 ngày, không cấy giống
vào cây khô. - Gỗ cắt thành từng đoạn dài 1,2-1,5 m.
- Nhà trồng mộc nhĩ thường là các nhà bỏ không, các lán trại che được mưa gió
b) Dụng cụ và giống
- Để trồng mộc nhĩ phải có búa chuyên dụng (hoặc khoan, đục).
- Bình tưới nước, một số bao tải, chiếu cũ được giặt sạch, phơi khô.
- Không dùng giống quá già hoặc quá non, không dùng giống bị nhiễm.
c) Cách trồng
- Cây gỗ sau khi được chặt thành từng đoạn 1,2-1,5m nhúng 2 đầu vào nước vôi đặc để
ngăn ngừa mốc phát triển, các chỗ sây xát cũng được bôi nước vôi. Loại bỏ phần gỗ hỏng, sâu,
mốc.
- Dùng búa tạo lỗ trên thân cây, mỗi lỗ cách nhau 12-15cm độ sâu 2-2,5cm. Các hàng lỗ
cách nhau 7-8 cm nên so le.
- Tra giống vào các lỗ, mỗi lỗ cho khoảng 2/3 chiều sâu, lượng giống mỗi lỗ bằng 2/3
hạt ngô. Dùng phoi gỗ bật ra khi tạo lỗ để đậy lên. Hoà ximăng đặc như bột trẻ em quét lên để
tránh mốc xâm nhập, hoặc chuột, kiến đục.
- Sau khi tra giống xếp gỗ vào nhà ươm, kê gạch cách nền 15-20cm, phủ các bao tải đã
chuẩn bị và làm ướt lên đống gỗ đã cấy giống, hàng ngày tưới đủ ẩm (tránh tưới ướt quá).
- Sau 15-20 ngày lấy cây gỗ ra cưa ngang nếu sợi nấm ăn trắng vào thân gỗ là được.
- Thỉnh thoảng tiến hành đảo gỗ đảm bảo gỗ ẩm đồng đều.
- Thu hái khi cánh mộc nhĩ to, mép xoăn lại.
C/ KỸ THUẬT TRỒNG NẤM RƠM
I. Đặc tính sinh học của nấm rơm
- Nấm rơm có nhiều loại khác nhau từ trắng đến trắng xám, xám đen
14
- Cuống nấm hình trụ và mũ nấm hình nón
- Nhiệt độ thích hợp: 30-32
0
C
- Độ ẩm cơ chất 65-70%
- Độ ẩm không khí 80%
- pH=7
- Ưa thoáng khí
- Nấm rơm sử dụng trực tiếp dinh dưỡng là xellulose
- Chu kỳ sinh trưởng và phát triển ngắn, từ khi reo trồng đến thu hoạch 10-15 ngày.
II. Thời vụ
Nấm rơm có thể trồng được quanh năm. Mùa Đông Xuân, giáp Tết Nguyên đán, có gió
lạnh thì phải chắn gió, giữ ấm và làm mô nấm lớn hơn. Mùa mưa cần làm mái che hoặc tủ rơm
dầy hơn để giảm độ ẩm, làm nền mô cao để tránh ngập úng. Ở những nơi có nhiều gió, gió
mạnh cần làm rào chắn gió, bố trí các mô nấm thẳng góc với hướng gió.
Miền bắc thường bắt đầu trồng nấm từ 15/4 đến 15/10
III. Nguyên liệu và xử lý nguyên liệu:
1. Nguyên liệu: rơm
2. Xử lý nguyên liệu: (tương tự như xử lý rơm rạ trồng nấm sò)
- Xử lý rơm rạ: ủ nguyên liệu thành đống, với khối lượng đủ lớn để tăng nhiệt độ đống
ủ đạt 60 -70
0
C, thời gian ủ 6-7 ngày. Trọng lượng trung bình của đống ủ đạt 300 kg nguyên
liệu. Làm ướt nguyên liệu bằng nước vôi trong theo tỷ lệ 3,5 kg vôi tôi hòa trong 1000 lít
nước. Dùng bao tải hoặc bao ni lông để quây đậy xung quanh nhằm giữ nhiệt trong đống ủ. Cứ
3 ngày đảo một lần, điều chỉnh ẩm độ 65 – 70%, đảo tiếp lần 2, lần 3 sau 8 – 10 ngày kiểm tra
thấy nguyên liệu có màu vàng sáng, mềm, có mùi thơm dễ chịu, độ ẩm 65% là đạt yêu cầu.
Nếu quá ẩm hoặc quá khô cần điều chỉnh bằng cách phơi hoặc thêm nước, ủ lại 1-2 ngày sau
mới trồng.
- Chú ý: rơm rạ phải được ủ trện kệ gỗ và có cọc thông khí để đảm bảo cho nhóm vi
khuẩn ưa kiềm hiếu khí hoạt động. Rơm đủ ướt, khi vắt vài cọng thấy có nước nhỏ vài giọt là
tốt nhất.
IV. Đóng mô và cấy giống
1. Chọn meo giống
Là khâu quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất trồng nấm. Chọn meo giống tốt,
đúng tuổi, không nhiễm tạp khuẩn sẽ cho năng suất cao và chất lượng nấm tốt.
Tiêu chuẩn bịch meo tốt: Sợi tơ nấm màu trắng trong, mở nắp bịch có mùi tương tự như
nấm rơm. Tơ nấm phát triển đều khắp mặt trong bịch meo. (Riêng một số meo giống, khi tơ
15
trưởng thành, bắt đầu kết tụ lại thành những hạt màu đỏ nâu vẫn cho năng suất tốt). Một bịch
meo giống nặng trung bình 120g, có thể gieo trên mô nấm rộng 0,5m, cao 0,4- 0,5m, chiều dài
liếp 4-5m.
Chú ý khi chọn meo giống: Không chọn sử dụng bịch meo có đốm màu nâu, đen, vàng
cam vì đã bị nhiễm nấm dại. Không chọn bịch meo phía dưới đáy bịch bị ướt, bị nhão và có
mùi hôi chua.
2. Xếp mô & rắc meo giống
Lấy rơm trong đống đã ủ: dỡ bỏ lớp rơm ngoài mặt đống ủ. Lấy rơm đã ủ bên trong
mang đi xếp mô trồng nấm, cố gắng xếp hết trong ngày phần rơm đã dỡ lớp đậy khi ủ.
Chất mô nấm:
Cách 1: Dùng khuôn gỗ để định hình mô rơm, đặt mô sao cho thuận lợi khi đi lại
chăm sóc nấm và tiết kiệm diện tích. Rơm ủ được sắp thành từng nắm cuốn 1 đầu lại cho gọn,
xếp vào trong khuôn thành từng lớp khi đạt độ cao 10-12cm thì rắc một lớp giống viền xung
quanh mép khuôn cách mép khuôn 3-4 cm, sao cho khi dỡ khuôn ra không nhìn thấy giống.
Sau đó tiếp tục làm lớp thứ hai, thứ 3 tương tự. Lớp trên cùng rắc đều giống trên bề mặt sau đó
phủ một lớp rơm dày 5cm. Sau đó nhấc khuôn ra và làm tiếp mô rơm khác. Lượng giống cấy
cho một mô khoảng 200-250g. Một tấn rơm khô đóng được 75-80 mô nấm. Khi trồng xong
phủ một lớp nilon phía trên để giữa ẩm và nhiệt độ mô nấm 38
0
C. Nếu nhiệt độ mô nấm >80
0
C
thì mở nilon ra để giảm nhiệt độ
Cách 2: rải một lớp rơm đã ủ lên mặt liếp, tiếp đó tưới nước. Dùng tay đè nhẹ sao
cho có chiều rộng theo mặt liếp khoảng 50cm, chiều cao 20cm. Rải meo giống dọc hai bên
luống, cách mép luống 5-7cm. Tiếp tục lặp lại thao tác trên cho lớp rơm thứ 2, thứ 3 Nếu ủ
ba lớp thì phía trên không rải men giống, chỉ rải rơm khô dầy 4-5 cm. Tưới nước nhẹ nhàng,
vuốt mặt ngoài cho mô láng, gọn. Vuốt mô không gọn, mặt ngoài mô không láng khi thu hoạch
nấm sẽ làm hư hỏng nấm, làm giảm năng suất.
Cách 3: Rơm sau khi ủ chín được cuốn thành từng bó, đường kính 15-20cm,
chiều dài từ 45-50cm, xếp thành từng lớp. Sau mỗi lớp rơm, rãi meo dọc hai bên luống, cách
mép luống 5-7cm, tiếp tục xếp như trên cho lớp rơm thứ 2, thứ 3 Nếu chỉ ủ ba lớp thì phía
trên chỉ rải rơm khô dầy 4-5cm, tưới nước nhẹ nhàng, vuốt mặt ngoài cho mô láng, gọn.
Lưu ý: Tùy theo mùa, thay đổi độ dầy lớp rơm khô trên mặt mô cho phuùhợp, mùa
nắng: mỏng để thoát nhiệt, mùa mưa, mùa lạnh: dầy để giữ nhiệt và chống thấm nước.
V. Chăm sóc và thu hoạch.
1.Chăm sóc mô nấm
16
Đối với nấm rơm, không cần dùng phân bón gì thêm. Vì rơm rạ khi phân hủy đủ cung
cấp dinh dưỡng cho cây nấm phát triển.
Theo dõi nhiệt độ và ẩm độ là khâu quan trọng nhất trong quá trình sản xuất. Độ ẩm là
yếu tố hàng đầu, vì độ ẩm giúp quá trình phân hủy rơm rạ thuận lợi từ đó sẽ tạo nhiệt độ trong
mô nấm. Nếu ẩm độ dư, thừa nước: nhiệt độ sẽ giảm, mô nấm bị lạnh. Nếu độ ẩm thiếu, mô bị
khô nhiệt độ tăng.
Giữ ẩm độ thích hợp: khi kiểm tra mô nấm, rút một nắm (khoảng 15-20 cọng) rơm ở
giữa luống, bóp chặt trong lòng bàn tay, nước hơi rịn qua kẽ tay là vừa.
Nếu nước không rịn qua kẽ tay là khô, phải tưới nước. Nếu thấy nước chảy qua kẽ tay thành
giọt là dư nước, phải ngưng tưới nước và ngày đó phải dỡ áo mô (lớp rơm khô trên cùng) cho
nước bốc hơi. Trong mùa mưa phải làm mái che sau khi dỡ áo mô.
Điều chỉnh nhiệt độ bằng cách tưới nước và đậy mô: khi kiểm tra mô nấm, thấy nhiệt độ
tăng, rơm ủ thiếu nước cần dùng thùng vòi sen tưới cho mô nấm. Tránh dùng vòi nước mạnh
sẽ làm hư những sợi tơ và nấm nhỏ. Nếu chỉ tăng nhiệt độ mà không thiếu nước, phải giảm
rơm áo bị ướt thay bằng rơm khô để giảm sức nóng và thoát bớt nhiệt.
Khi kiểm tra mô nấm thấy nhiệt độ giảm, mô bị lạnh: ngưng tưới nước, dỡ bớt áo mô,
mái che nắng để giúp mô hấp thu được nhiều nắng. Nếu là mùa mưa, cần dùng nylon, màng
phủ nông nghiệp (đậy phía đen lên trên) để mô nấm giữ nhiệt, tăng nhiệt độ bên trong.
Đảo rơm áo mô: Sau khi chất mô 5-8 ngày, dỡ rơm áo ra, xốc cho tơi và đậy trở lại cho
mô nấm. Cần phải đảo áo mô để tránh tơ nấm ăn lan ra ngoài, không tạo được nấm.
2. Thu hái nấm rơm
Sau khi ủ rơm 10-14 ngày có thể thu hoạch: thời gian thu hái nấm, tùy loại meo và cách
ủ. Nấm ra rộ vào ngày thứ 12-15; sau đó 7-8 ngày ra tiếp đợt 2 và thu hái trong 3-4 ngày thì
kết thúc vụ trồng nấm (25-30 ngày).
Thời điểm hái nấm: Thu hái mỗi ngày 2 lần. Lần thứ 1 vào sáng sớm trước 6 giờ. Thu
hái lần thứ 2 vào khoảng 14-15 giờ chiều.
Chọn nấm đủ tiêu chuẩn để hái: nấm rơm phát triển liên tục và nhiều cây dính vào nhau.
Cần phải chọn lựa để hái những cây còn búp, hơi nhọn đầu. Cách hái, xoay nhẹ cây nấm, tách
ra khỏi mô. Không nên để sót chân nấm trên mô, vì phần chân nấm khi thối rữa, sẽ làm hư các
nụ nấm kế bên. Sau khi hái xong, đậy kỹ áo mô lại.
Thời gian thu hoạch nấm thường 7-10 ngày. Năng suất trung bình 1,5kg nấm tươi trên
1m liếp nấm.
Nấm sau khi thu hái cần tiêu thụ ngay trong 2-3 giờ. Nếu muốn để ngày hôm sau cần
bảo quản ở nhiệt độ từ 10-15
0
C.
17
D/ KỸ THUẬT TRỒNG NẤM MỠ
I. Đặc tính sinh học
Nấm mỡ có tên khoa học là Agaricus gồm loại A.bisporus và A.bitorquis màu trắng,
màu nâu. Nấm mỡ có nguồn gốc từ những nước có khí hậu ôn đới. Quả thể ―cây nấm‖ rắn chắc
gồm phần mũ và cuống rõ rệt. Đến giai đoạn phát triển, màng bao bị rách, bào tử bắt đầu phát
tán từ phiến nấm, nấm nở như một chiếc ô.
Các bào tử phát tán trong không khí gặp điều kiện thuận lợi tiếp tục phát triển thành hệ
sợi sơ cấp và thứ cấp, hệ sợi kết hợp với nhau hình thành quả thể nấm.
Nhiệt độ thích hợp trong giai đoạn hệ sợi phát triển là 24-25
0
C, giai đoạn hình thành cây
nấm là 16-8
0
C.
Độ ẩm trong cơ chất (môi trường nuôi nấm) từ 65-70%. Độ ẩm không khí ≥ 80%.
Độ pH = 7-8 (môi trường trung tính đến kiềm yếu).
Ánh sáng: không cần thiết
Độ thông thoáng: vừa phải
Dinh dưỡng: không sử dụng xenlulô trực tiếp.
Hàm lượng các chất khoáng trong thức ăn của nấm như sau:
N (đạm) 2,2 - 2,5%
P (phốtpho) 1,2 - 2,5%
Ca (canxi) 2,5 - 3%
Tỷ lệ C/N 14-16/1
Lượng NH4 (amoni) < 0,1%
W (độ ẩm) 65 - 70%
Quá trình xử lý nguyên liệu trồng nấm mỡ cần phải phối trộn thêm các phụ gia (phân
hữu cơ, vô cơ) với nguyên liệu chính để tạo môi trường thích hợp nhất cho nấm phát triển gọi
là Composts.
II. Xử lý nguyên liệu
a) Thời gian ủ nguyên liệu:
Để trồng nấm mỡ tốt nhất đối với các tỉnh phía Bắc (khi cấy giống) bắt đầu từ 15/10
đến 15/11 dương lịch hàng năm. Nếu làm sớm hoặc làm muộn hơn sẽ gặp thời tiết không thuận
lợi, dẫn đến năng suất thấp.
b) Công thức chế biến Composts tổng hợp:
Công thức 1:
Rơm rạ khô: 1000kg
Đạm sunfat amon: 20kg
18
Đạm urê: 5kg
Bột nhẹ (CaCO
3
): 30kg
Supe lân: 30kg
Công thức 2:
Rơm rạ khô: 1000kg
Đạm urê: 3kg
Phân gà: 150kg
Bột nhẹ (CaCO
3
): 30kg
* Cách làm ướt rơm rạ:
Rơm rạ khô được làm ướt trong nước vôi (theo tỷ lệ 1 tấn nguyên liệu cần 10kg vôi đã tôi)
bằng các cách sau:
- Đổ nước vôi đã gạn trong từ từ vào bể ngâm rơm rạ chìm trong nước 15-30 phút, vớt ra ủ
đống.
- Ngâm rơm rạ xuống ao hồ, kênh rạch… vớt lên bờ cứ 1 lớp rạ 20-30cm lại tưới một lớp nước
vôi (dùng ô doa tưới).
- Rải rơm rạ ra sân bãi, phun nước trực tiếp bằng máy bơm hoặc ôdoa trong nhiều giờ (kiểu
mưa dầm thấm áo) đến khi rơm rạ đủ ướt sẽ có màu nâu sẫm, lấy nước vôi tưới lên lượt cuối
cùng và ủ đống.
- Lợi dụng trời mưa, tung rơm rạ ra sân, tưới lại bằng nước vôi đợt cuối, ủ đống.
* Ủ đống: Khi rơm rạ đã được làm ướt theo các cách trên, để ráo nước (12 giờ) bắt đầu chất
đống ủ theo sơ đồ sau:
Chất đống rơm rạ làm ướt (1 tấn) đã để ráo nước bổ sung 5kg urê, 20kg sunfat → Để
3-4 ngày, đảo lần 1 → Để 3-4 ngày, đảo lần 2 bổ sung 30kg bột nhẹ CaCO
3
→ Để 3-4 ngày,
đảo lần 3 bổ sung 30kg lân → Để 3-4 ngày, Đảo lần 4 → Giũ tơi → Vào khay.
Quá trình ủ đống; bổ sung hoá chất được tiến hành cụ thể:
- Kích thước đống ủ theo kệ lót (1,5m x 1,5m). Chiều cao 1,5m, tại điểm giữa có cọc tre để
thông khí.
- Bổ sung hóa chất ở dạng khô và thật nhỏ, cứ một lớp rơm rạ cao 30cm thì rắc một lớp hoá
chất.
- Đảo đều nguyên liệu từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài.
- Ngày đầu có thể nén chặt rơm rạ, các lần đảo tiếp sau không được nén. Cần tạo độ thông
thoáng để đóng ủ lên men tốt.
19
- 1 tấn rơm rạ đánh đống ủ đo được 13m
3
.
- Kiểm tra độ ẩm trong mỗi lần đảo. Nếu thấy nguyên liệu khô (vắt rơm không có nước chảy ra
tay), cần bổ sung thêm nước, nếu nguyên liệu quá ướt (vắt rơm có nước chảy thành dòng), cần
phơi lại sau đó mới ủ đống.
- Trời quá nóng, gió mạnh, quá lạnh cần che phía ngoài thành đống ủ để giữ nhiệt độ trong
đống ủ.
- Nếu trời mưa to, ủ đống ngoài trời cần tạo mái đống ủ có hình mui rùa hoặc che đậy phía
đỉnh tránh nước mưa thấm sâu trong đống ủ.
- Nền (đáy) đống ủ phải thoát nước tốt.
- Nhiệt độ của đống ủ phải đạt 75-80
0
C vào ngày thứ 4 đến thứ 7 sau khi ủ đống.
Khi kết thúc quá trình ủ đống (giai đoạn lên men chính 14-16 ngày, composts đạt tiêu chuẩn:
độ ẩm 65-70%, pH = 7-7,5); rơm rạ có mùi thơm dễ chịu, không có mùi amoniac, màu nâu
sẫm là được.
c) Vào luống:
Có thể vò rối hoặc cuộn thành bó, chiều cao 18-20cm, độ chặt tương đối, bề mặt bằng
phẳng. Trung bình 1 tấn rơm rạ khô sau khi ủ vào luống hết một diện tích 30-35m
2
.
d) Lên men phụ:
Vào luống xong được 7-8 ngày thì kiểm tra nhiệt độ trong luống, nếu đạt 28
0
C không
còn mùi amôniác, độ ẩm chuẩn bắt đầu tiến hành cấy giống.
đ) Phương pháp cấy giống:
Dùng que sắt uốn cong để lấy giống trong chai ra. Kiểm tra thật kỹ xem giống có bị
nhiễm bệnh không, bẻ tơi các hạt giống, rắc đều trên bề mặt. Lượng giống cấy cho 1m
2
khoảng
300-350g. Lấy tay hoặc cào tự tạo (giống như bàn tay) giũ nhẹ để các hạt giống lọt xuống dưới
lớp rơm rạ từ 3-5cm. Lấp phẳng bề mặt nguyên liệu như lúc ban đầu, lấy giấy báo hoặc giấy dễ
thấm nước phủ kín bề mặt luống nấm. Hàng ngày tưới nước đủ ướt lớp giấy phủ. Khoảng 15
ngày sau tiến hành phủ đất.
e) Đất phủ và phủ đất:
Đất phủ có kết cấu viên, giàu chất hữu cơ (thường lấy ở tầng canh tác lúa, rau màu), có độ pH
= 7, kích thước từ 0,3-1cm.
* Cách làm đất: Dùng cuốc xẻng đạp nhỏ, lấy sảo có nan thưa lắc nhẹ, loại bỏ các hạt đất ở
dạng tấm, bụi. Phần còn lại to bằng hạt gạo đến hạt ngô là được. Lượng đất phủ khoảng 20-
25kg/m
2
, chiều cao 2-2,5cm. Khi phủ đất xong, tiến hành tưới nhẹ trên bề mặt. Thời gian
khoảng 3-4 ngày sau khi tưới, nước đủ thấm ướt toàn bộ lớp đất phủ là đuợc. Giảm lượng nước
tưới trong ngày, duy trì độ ẩm liên tục như vậy đến khi thấy nấm lên (sau 15-20 ngày phủ đất).
20
g) Chăm sóc và thu hái nấm:
Khi thấy nấm bắt đầu lên (xuất hiện các chấm nhỏ màu trắng, lớn dần bằng hạt ngô,
miệng chén), điều chỉnh lượng nước theo mật độ và độ lớn cây nấm. Nấm ra càng nhiều và
càng lớn thì lượng nước tưới cũng nhiều hơn. Tuỳ thuộc vào thời gian và thời tiết (nhiệt độ, độ
ẩm, tốc độ gió) để điều chỉnh hệ thống cửa ra vào và lượng nước tưới. Khi tưới phải ngửa vòi,
tưới rải đều khắp bề mặt đất phủ một lượt rồi quay lại tưới đợt 2, 3… Không tưới tập trung một
chỗ và không để nước thấm sâu xuống lớp giá thể.
* Thông thoáng: Thời kỳ nuôi sợi không cần nhiều oxy tự nhiên nên chỉ cần thông
không khí vừa phải. Ngày mở cửa 2 lần mỗi lần 15-20 phút là được.
- Thời kỳ nấm lên, sử dụng nhiều O
2
tự nhiên, nồng độ CO
2
trong phòng trồng lên cao. Tăng
cường mở cửa nhiều lần trong ngày để điều hoà không khí.
- Khi nhiệt độ không khí thấp hơn nhiệt độ phòng cần thông thoáng để nhiệt độ phòng giảm
xuống nhanh hơn và ngược lại. Khi nhiệt độ phòng tăng cao, thông thoáng kém, nấm phát triển
nhanh, cuống dài và nhỏ, mũ bé và cúp.
- Tưới nước không đủ (quá khô), nấm không lên khỏi mặt đất, cuống rất ngắn, ―gốc‖ phình to
dạng củ, mũ lớn hơn bình thường, mọc lác đác.
- Độ ẩm không khí bão hoà (100%) kéo dài liên tục trong nhiều ngày thì trong quả nấm có
những vết đen, vi sinh vật và sâu bệnh xuất hiện nhiều.
- Lượng O
2
không đủ, nấm có dạng mũ bé, cuống to.
- Trao đổi không khí quá mạnh (gió mùa nhiều, nấm có màu vàng, mũ xuất hiện vảy).
* Hái nấm: Hái nấm trước giai đoạn rách màng bao, dùng tay trái nhẹ nhàng xoáy quả
nấm, lấy hết phần gốc và cuống nấm lên. Nếu nấm mọc thành cụm thì nên hái cả cụm, tránh
hái tỉa. Sau khi hái xong cần phải nhặt bỏ các ―rễ già‖, nấm nhỏ bị chết, bổ sung thêm đất phủ
vào những nơi bị hao hụt do thu hái. Quá trình thu hái, chăm sóc kéo dài khoảng 2,5-3 tháng
thì kết thúc một chu kỳ nuôi trồng nấm (khoảng 15 tháng 4 dương dịch hết nấm).
h) Chế biến nấm:
Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng để tiến hành việc thu hái, chế biến. Trước hết cần lựa
chọn nấm: hái những cây nấm không bị sâu bệnh, dị dạng và chưa nở ô, cắt sạch phần cuống
có bám đất, để lại chiều dài cuống 1-1,5cm.
* Tiêu thụ tươi:
Để nấm vào túi PE, buộc chặt miệng túi, chuyển đến nơi tiêu thụ. Quá trình vận chuyện
cần tránh va chạm cơ học để nấm khỏi bầm giập. Muốn bảo quản lâu cần để ở nhiệt độ lạnh 5-
8
0
C, thời gian giữ được từ 24 đến 72 giờ.
* Nấm muối:
21
- Rửa nấm: Nấm hái xong, cắt cuống (như trên), thả vào chậu nước lạnh, rửa sạch.
- Đun sôi nước: Thả nấm vào chần 5-7 phút, phải ấn nấm chìm liên tục trong nước sôi, nếu để
nấm nổi bề mặt, nấm sẽ có màu đen loang lổ, sau đó vớt ra thả ngay vào nước lạnh.
- Vớt nấm đã chần cho vào túi nylon, chum (vại), cứ 1kg nấm cần cho thêm vào 0,2 lít dung
dịch muối bào hoà, 0,3kg muối khô, 3g axit xitric. Buộc túi hoặc đậy nắp, phía trên dùng vỉ tre
ấn chìm nấm trong dung dịch muối, sau 15 ngày nấm ổn định nồng độ muối (đạt 22%), có màu
vàng nhạt, pH = 4, nấm có mùi thơm, dung dịch trong suốt là đạt yêu cầu.
i) Sâu bệnh hại nấm:
- Chuột: Chúng đào bới gây xáo trộn luống nấm, thời kỳ cấy giống nếu không tìm cách tiêu
diệt, chúng sẽ ăn các hạt giống vừa cấy và làm giảm năng suất. Nên đánh thuốc diệt chuột liên
tục (nhất là giai đoạn cấy giống).
- Nấm dại (nấm mực…): Sống cạnh tranh chất dinh dưỡng của nấm. Loại này không gây ảnh
hưởng lớn đến nấm. Nguyên nhân xuất hiện do độ ẩm nguyên liệu quá cao, cần nhặt sạch và
điều chỉnh độ ẩm thích hợp.
- Mốc nâu, mốc xanh: Bệnh xuất hiện khi nhiệt độ không khí cao, sau các đợt thu hái không
tiến hành vệ sinh tốt (chưa nhặt sạch các gốc, rễ, nấm nhỏ bị chết). Loại bệnh này rất nguy
hiểm, là loại nấm ký sinh cần phải nhặt thật sạch các mầm bệnh, dùng formalin 5% phun vào
nơi bị nhiễm bệnh.
- Ruồi nấm: Xuất hiện khi độ ẩm không khí cao, phòng thiếu thông thoáng, môi trường xung
quanh và trong nhà trồng vệ sinh không tốt.
- Virut và các loại vi khuẩn: Tạo các điểm đen trên cây nấm. Nguyên nhân là do nguyên liệu ủ
không đảm bảo, còn nhiều mầm bệnh trong nguyên liệu, môi trường nuôi trồng không sạch sẽ,
nguồn đất phủ không được khử trùng… Dùng chlorine hoà vào nước phun trực tiếp lên luống
nấm (dùng 250ml chlorine 5% hoà lẫn 100 lít nước).
- Tẩy trùng đất phủ: 1m
3
đất phủ cần 1 lít formaldehyd hoà tan trong nước, thấm đều đất, trùm
kín nylon 2 ngày, sau đó mở ra, đảo đều là được.
- Nấm muối có màu vàng, mùi thối, khó chịu do nồng độ muối không đảm bảo, nguồn nước
quá bẩn, cần bổ sung thêm muối và tăng lượng axit xitric.
- Bệnh quả thể nấm dị dạng: Nguyên nhân do các yếu tố môi trường (nhiệt độ, độ ẩm, không
khí) thay đổi đột ngột, do giống nấm bị thoái hoá… Biểu hiện nấm không hình thành quả thể
đầy đủ.
k) Năng suất nấm:
- Trung bình 1000 kg nguyên liệu rơm rạ khô sau khi kết thúc một đợt nuôi trồng từ 15/10 đến
15/4 năm sau cho thu hoạch 200 đến 300kg nấm tươi. Tỷ lệ nấm tươi với nấm sau khi muối đạt
22
tiêu chuẩn xuất khẩu là 2:1,1. Ngoài nấm tươi ra, người sản xuất còn thu được 1200 - 1400kg
phế thải để làm phân bón rất tốt.
D/ KỸ THUẬT TRỒNG NẤM LINH CHI
I. Giới thiệu chung về nấm linh chi
Nấm Linh Chi là loài dược liệu quý, có giá trị kinh tế cao.
Cách sử dụng:
+ Ngâm rượu
+ Sắc nước uống
+ Uống dạng trà
+ Bào chế dạng thuốc viên
Phương pháp trồng, chăm sóc cũng không quá khó. Tuy nhiên, để đảm bảo năng suất,
chất lượng, bà con cần nắm rõ kỹ thuật trồng nấm Linh Chi.
II. Đặc tính sinh học
* Hình dạng và màu sắc: Quả thể nấm linh chi gồm phần cuống và phần mũ, phần mũ hình
quạt, màu sắc vàng chanh, vàng nghệ, vàng nâu, vàng cam, đỏ nâu, đến nâu tím.
Phần mũ nấm khi non hình trứng, khi lớn dần hình quạt, khi nấm đến tuổi trưởng thành thì
phát tán bào tử từ phần mũ có mầu nâu sẫm.
* Nhiệt độ thích hợp:
+ Giai đoạn nuôi sợi: 20-30
0
C
+ Giai đoạn quả thể: 22-28
0
C
* Độ ẩm:
+ Độ ẩm cơ chất: 60-62%
+ Độ ẩm không khí: 80-95%
* Độ thông thoáng: trong suốt quá trình nuôi sợi và phát triển quả thể, nấm linh chi đều cần
độ thông thoáng tốt.
* Ánh sáng:
- Giai đoạn nuôi sợi: không cần ánh sáng
- Giai đoạn phát triển quả thể: cần ánh sáng tán xạ (ánh sáng đọc được).
III. Thời vụ: Cấy giống từ ngày 15/1 đến ngày 15/3 hoặc từ 15/8 đến 15/9 dương lịch.
IV. Nguyên liệu và phƣơng pháp xử lý nguyên liệu:
a) Nguyên liệu: chủ yếu là mùn cưa của các loại gỗ mềm, không có tinh dầu và độc tố. Ngoài
ra, còn có thể sử dụng nguyên liệu là thân gỗ, cây thuốc họ thân thảo.
b) Xử lý nguyên liệu:
23
* Chuẩn bị: Mùn cưa; túi nylon chịu nhiệt; bông nút, cổ nút; các loại phụ gia; nước sạch (nước
ăn uống sinh hoạt hàng ngày).
* Xử lý: Tạo độ ẩm mùn cưa bằng nước sạch, ủ thành đống, che đậy bằng nilon để mùn cưa
ngấm đủ nước và trương nở các tế bào gỗ, sau 24 giờ tiến hành phối trộn nguyên liệu theo tỉ lệ:
- Mùn cưa đã tạo ẩm: 100kg
- Bột nhẹ (CaCO
3
): 1kg
- Hoặc vôi bột: 0,5kg
Trộn thật đều nguyên liệu với bột nhẹ hoặc vôi bột, kiểm tra độ ẩm đạt 65%, ủ đống 2-3 ngày,
đảo đống ủ, ủ tiếp 2-3 ngày sau đó tiến hành đóng túi nilon (loại kích thước 19cmx37cm) túi
có hình dáng một khúc gỗ cao 20-22cm
(Xử lý mùn cưa trồng linh chi giống xử lý mùn cưa trồng mộc nhĩ)
* Đóng túi: Mùn cưa được tạo ẩm và ủ, sau đó trộn thêm các loại phụ gia rồi đóng vào túi sao
cho trọng lượng đạt 1,1 - 1,4kg và tiến hành thanh trùng.
* Thanh trùng: Có hai phương pháp thanh trùng:
+ Hấp cách thuỷ ở nhiệt độ 100
0
C, thời gian 10 - 12 giờ
+ Thanh trùng bằng nồi áp suất ở nhiệt độ 119 – 126
0
C trong thời gian 90 - 120 phút.
V. Phƣơng pháp cấy giống: Phòng cấy giống được thanh trùng định kỳ bằng bột lưu huỳnh;
chuẩn bị các loại dụng cụ: que cấy, panh kẹp, đèn cồn, bàn cấy, cồn sát trùng
Nguyên liệu đã được thanh trùng, để nguội.
Sử dụng hai loại giống chủ yếu là trên hạt và que gỗ. Giống phải đúng tuổi, không bị nhiễm
nấm mốc, vi khuẩn, nấm dại
Thường sử dụng giống cấy trên hạt. Dùng que cấy khều nhẹ giống cho đều trên bề mặt túi
nguyên liệu. Lượng giống: 10 - 15g giống /túi nguyên liệu (1 túi giống 300g cấy cho 25 - 30
túi nguyên liệu).
Chú ý: Giống cấy phải đảm bảo đúng độ tuổi. Trước khi cấy dùng cồn lau miệng chai giống,
bóc tách lớp màng trên bề mặt nhưng không được để hạt giống bị nát. Trong quá trình cấy,
chai giống luôn để nằm ngang. Cấy xong đậy nút bông, vận chuyển túi vào khu vực ươm.
Thường xuyên vệ sinh sạch sẽ phòng cấy giống.
VI. Phƣơng pháp ƣơm túi: Nhà ươm túi phải sạch sẽ, thông thoáng, độ ẩm 75 - 85%, ánh
sáng yếu, nhiệt độ 20 – 30
0
C.
Chuyển túi vào nhà ươm, đặt trên các giàn giá hoặc xếp thành luống. Khoảng cách giữa
các túi là 2 - 3cm. Giữa các giàn luống có lối đi để kiểm tra. Trong thời gian ươm không được
tưới nước, hạn chế vận chuyển. Trong quá trình sợi nấm phát triển nếu thấy có túi bị nhiễm
khuẩn phải loại bỏ ngay, đồng thời tìm nguyên nhân khắc phục.
24
VII. Phƣơng pháp chăm sóc, thu hái
Nhà trồng nấm phải sạch sẽ, thông thoáng, có mái chống mưa dột. Nhiệt độ thích hợp
22 - 28 độ C; độ ẩm không khí 80-90%; ánh sáng khuếch tán và chiếu đều từ mọi phía; kín gió;
có hệ thống giàn giá để tăng diện tích sử dụng.
Thu hái theo 2 phương pháp:
+ Phƣơng pháp không phủ đất
Cấy giống được 25 - 30 ngày thì rạch 2 vết sâu 0,2 - 0,5cm đối xứng trên bề mặt túi. Đặt
túi trên giàn cách nhau 2 - 3cm. 7 - 10 ngày đầu chủ yếu tưới nước trên nền nhà, đảm bảo độ
ẩm 80-90%, thông thoáng vừa phải.
Khi nấm bắt đầu mọc ra từ các vết rạch hoặc qua nút bông thì ngoài việc tạo ẩm không
khí có thể tưới phun sương nhẹ vào túi nấm mỗi ngày 1-3 lần. Duy trì chế độ chăm sóc này đến
khi viền trắng trên vành mũ quả thể không còn.
Thu hái:
Dùng dao hoặc kéo sắc cắt chân nấm sát bề mặt túi; quả thể sau khi thu hái được vệ sinh
sạch sẽ, phơi khô hoặc sấy ở nhiệt độ 40 - 45 độ C; độ ẩm của nấm khô dưới 13%, tỷ lệ khoảng
3kg tươi được 1kg khô; thu hái hết đợt 1 tiến hành chăm sóc như ban đầu để tận thu đợt 2. Kết
thúc đợt nuôi trồng phải vệ sinh và thanh trùng nhà xưởng bằng foócmôn với nồng độ 0,5 -
1%.
+ Phƣơng pháp phủ đất
Cách phủ đất: Khi sợi nấm đã ăn kín khoảng túi, gỡ bỏ nút bông, mở miệng túi, phủ lên
trên bề mặt một lớp đất dày 2 - 3cm.
Chăm sóc: Nếu đất phủ khô phải tưới phun sương để đất ẩm trở lại. Tuyệt đối không
tưới nhiều làm ảnh hưởng đến quá trình hình thành quả thể. Trong 7-10 ngày đầu (kể từ lúc
phủ đất) cần duy trì độ ẩm 80 - 90%. Khi quả thể bắt đầu hình thành cần duy trì độ ẩm liên tục
cho đến thời điểm thu hái. Thời gian từ khi nấm lên đến lúc thu hoạch kéo dài khoảng 65 - 70
ngày.
Ngoài việc duy trì độ ẩm trong nhà ta phải tưới phun sương nhẹ trực tiếp lên trên bề mặt
đất phủ 1-3 lần trong ngày, việc chăm sóc kéo dài liên tục cho đến khi viền màu trắng trên mũ
nấm không còn, lúc đó nấm đến tuổi thu hái.