Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI BỀN VỮNG TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NÔNG NGHIỆP part 5 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.42 KB, 11 trang )

89
đầu con và tốc độ quay vòng. Nhưng hiện nay phần lớn rơm chỉ sử
dụng làm chất đốt, hoặc bỏ lại trên đồng ruộng và đốt thành tro
làm phân, chỉ một phần rơm được sử dụng làm thức ăn cho đại gia
súc ở các gia đình có nuôi trâu, bò. Nhược điểm lớn của rơm là
chứa nhiều chất xơ rất khó tiêu hoá, lại nghèo protein và muối
khoáng nên trâu bò không ăn được nhiều. Như vậy ở nhiều nước
ôn đới (các nước Bắc Âu) và hầu hết các nước nhiệt đới đã sử
dụng một số hoá chất chế biến rơm nhằm nâng cao tỷ lệ tiêu hoá
các chất dinh dưỡng của rơm. Người ta đã sử dụng xút, a xít, dung
dịch amoniac, urê để chế biến rơm. Nhưng đến nay phương pháp
chế biến rơm bằng urê và dung dịch amoniac được nông dân nhiều
nước chấp nhận (Sundstol, Owen, 1984). Tuy nhiên phương pháp
chế biến rơm bằng dung dịch amoniac đòi hỏi có thiết bị và
amoniac dễ gây độc hại cho đường hô hấp của người chăn nuôi
nên cũng chưa được áp dụng rộng rãi. Phần lớn các nước đang
phát triển đều áp dụng phương pháp chế biến rơm bằng urê, vì
phương pháp này đơn giản người nông dân dễ thực hiện.
Phương pháp này thường sử dụng 4-5kg u rê hoà tan trong
60-80 lít nước tưới đều vào 100kg rơm, rồi ủ kín ở nơi sạch sẽ
trong 10-15 ngày, lấy dần cho trâu bò ăn (Sunstol; Owen, 1994).
Ở nưóc ta giá urê còn đắt, nên một số tác giả Viện Chăn
nuôi đã cải tiến phương pháp này và chỉ sử dụng lượng urê thấp
(2kg), đồng thời bổ sung thêm vôi tôi để chế biến rơm, đã thu
được kết quả tốt. Phương pháp này được làm như sau:
+ 2kg urê
+ 0,5kg vôi tôi
90
+ 0,5 kg muối
+ Hoà tan trong 60-80 lít nước
+ Tưới đều vào 100kg rơm khô


Ủ và che kín ở nơi sạch, tránh mưa. Có thể ủ trong bao ni lông
đựng phân đạm hay bao tải dứa buộc kín; ủ trong 10-15 ngày sau
đó lấy dần cho trâu, bò ăn. Sau mỗi lần lấy cần tiếp tục che đậy
kín, không để amoniac bay đi. Rơm chế biến như trên có thể dự
trữ cho ăn dần trong 1 tháng (Bùi Văn Chính, Lê Viết Ly, 1993)
Rơm lúa sau khi chế biến có thể cho trâu bò ăn thoải mái
không hề có độc hại gì. Trâu bò ăn rơm chế biến lớn nhanh và
béo khoẻ ngay cả trong mùa đông và mùa khô thiếu cỏ. Bởi vì
rơm lúa sau khi được chế biến bằng urê đã làm cho trâu bò ăn
được nhiều hơn 50-66% so với rơm không chế biến; đồng thời
hàm lượng ni tơ (chất đạm) trong rơm tăng lên gấp hơn hai lần.
Các kết quả nghiên cứu của Viện Chăn nuôi cho thấy: khi sử
dụng rơm chế biến bằng urê và vôi để nuôi bò thí nghiệm trong
thời gian 8 tháng (mùa thu và đông) bò đã tăng trọng tốt. Kết
quả thí nghiệm được trình bày ở bảng 14.
Bảng 14. Kết quả tăng trọng của bò được nuôi bằng rơm
chế biến urê - vôi
Chỉ tiêu
Lô I: Rơm chế
biến urê
Lô II: Rơm không chế biến +
tảng urê rỉ mật
- Trọng lượng bắt đầu thí nghiệm (kg) 156 156
- Tăng trọng (g/ngày) 449 363
- Thức ăn ăn được
(kg CK/100kg P)

91
+ Rơm 1,66 1,17
+ Tổng lượng thức ăn 2,47 2,22

- Tiêu tốn thức ăn
(kg CK/kg tăng trọng P)
11,8 12,7
Ghi chú: - Mỗi lô 10 bò lai (Holstein  lai Sind)
- Tảng urê rỉ mật - có 10% urê
- CK: Chất khô của thức ăn
- P: Trọng lượng gia súc
Cả hai nhóm bò này cũng được ăn khẩu phần hàng ngày như
sau: 5,5kg cỏ xanh; 0,25kg cám gạo; 0,25kg bột sắn. Riêng nhóm
bò ăn rơm không chế biến được ăn thêm 0,8 kg tảng urê rỉ mật.
Như vậy khẩu phần trên chỉ có một lượng rất ít cỏ xanh, còn tỷ lệ
rơm đã chiếm 66% ở lô ăn rơm chế biến và 52% ở lô ăn tảng urê rỉ
mật. Bò thí nghiệm đã tăng trọng 449g/ngày (tức là tăng 13,5
kg/tháng), thuộc lọai tăng trọng cao của giống bò lai nói trên. Ở lô
đối chứng bò tăng trọng cũng khá tốt, đạt 10,9kg/tháng. Như vậy
một lần nữa chúng ta nhận thấy nếu dùng rơm chế biến chúng ta
chỉ cần sử dụng một lượng ít cỏ xanh (chỉ bằng 20% lượng cỏ
xanh trong khẩu phần của bò được nuôi hoàn toàn bằng cỏ) bò vẫn
tăng trọng rất tốt.
Ở các nước châu Âu khi nuôi bò bằng khẩu phần rơm chế biến
người ta thường bổ sung một lượng đáng kể thức ăn tinh hỗn hợp
giàu năng lượng và protein. Ở nhiều nước đang phát triển khi nuôi
trâu bò bằng khẩu phần chủ yếu là rơm người ta chỉ sử dụng một
lượng rất ít thức ăn tinh hoặc thay thế bằng các loại khô dầu không
sử dụng được cho lợn, gia cầm (như khô dầu bông, khô dầu cao
su ). Ngoài ra người ta cũng sử dụng một phần cỏ xanh hay ngọn
lá các cây bộ đậu, cây bụi, cũng như các phụ phẩm công nông
92
nghiệp khác như: bã dứa, vỏ dứa, ngọn mía, bã bia. Đó là các
nguồn thức ăn địa phương rẻ tiền, do đó góp phần làm hạ giá

thành sản phẩm. Những kinh nghiệm thành công của Ấn Độ trong
việc đẩy mạnh sản xuất sữa đã khích lệ các nước đang phát triển.
Hội đồng phát triển sữa của Ấn Độ đã hướng dẫn nông dân sử
dụng rơm chế biến urê, tảng urê rỉ mật cũng như tận dụng các loại
khô dầu, các nguồn thức ăn xanh thô khác sẵn có ở Ấn Độ. Nhờ
đó tổng sản lượng sữa ở nước này đã tăng lên rõ rệt. Mặc dù năng
suất sữa của bò và trâu không cao nhưng do số đông nông dân sản
xuất được sữa nên đã tạo ra “cách mạng trắng” (cách mạng sản
xuất sữa ở Ấn Độ). Nhân dân Ấn Độ cũng đã thành công trong
việc tổ chức thu mua và tiêu thụ sữa cho những người nông dân
sản xuất nhỏ chỉ có 2-3 con trâu bò địa phuơng vắt sữa, với lượng
sữa hàng năm không nhiều. Như vậy hệ thống nuôi dưỡng và sản
xuất sữa ở Ấn Độ không giống với bất kỳ hệ thống sản xuất sữa
nào ở châu Âu và các nước công nghiệp phát triển. Trong hệ thống
này Ấn Độ cũng như các nước đang phát triển đã chấp nhận
phương thức bổ sung các chất dinh dưỡng cho hệ vi sinh vật dạ cỏ
và cho cả gia súc. Đó là việc sử dụng tảng urê rỉ mật hay rơm đã
được chế biến bằng urê để làm tăng hàm lượng amonniac (NH
3
)
cho quá trình tổng hợp protein của vi sinh vật dạ cỏ. Bổ sung cỏ
xanh, lá các cây họ đậu hay các loại khô dầu vừa tạo ra môi
trường thuận lợi cho việc phát triển của hệ vi sinh vật, vừa cung
cấp nguồn protein “thoát qua dạ cỏ” để cung cấp kịp thời cho trâu,
bò một lượng protein và năng lượng cần thiết cho quá trình hình
thành sữa.
Như vậy sử dụng rơm chế biến urê kết hợp với việc sử dụng
hợp lý nguồn thức ăn địa phương đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Quá
93
trình chế biến rơm bằng urê hay bằng dung dịch amoniac đã làm

yếu mối liên kết bền vững ligno-cellulose, do đó làm tăng tỷ lệ
tiêu hoá các chất dinh dưỡng trong rơm. Vì vậy rơm dần dần được
coi là nguồn thức ăn có giá trị và mang lại hiệu quả kinh tế thật sự
cho người chăn nuôi.
II. CHẾ BIẾN VÀ SỬ DỤNG CÂY NGÔ ĐÃ THU BẮP
Hàng năm ở nước ta có hơn 3 triệu tấn cây ngô già nhưng
phần lớn chỉ được dùng làm chất đốt hoặc bỏ lại ngoài đồng rồi
đốt thành tro làm phân bón. Tuy nhiên ở một số vùng nông dân có
tập quán sử dụng một phần thân lá ngô già làm thức ăn cho trâu bò
trong mùa thu hoạch ngô. Cây ngô già rất khó dự trữ và rất dễ bị
mốc khi xếp thành đống. Nhưng giá trị dinh dưỡng của chúng lại
tốt hơn rơm lúa, vì cây ngô già có hàm lượng protein cao hơn gần
2 lần rơm lúa, chúng lại chứa ít chất xơ và có hàm lượng tinh bột
và đường cao hơn nên dễ tiêu hoá hơn. Các nhà khoa học chăn
nuôi đã nghiên cứu chế biến và sử dụng cây ngô già cho trâu bò và
đã giới thiệu phương pháp chế biến và dự trữ cây ngô già làm thức
ăn cho trâu bò như sau:
Dùng thây cây và lá (từ vị trí ra bắp trở lên ngọn), băm, thái
nhỏ 3-4cm phơi cho khô tái (để sau này dễ thấm nước hoà urê).
Cứ 100 kg thân lá ngô đã phơi tái được chế biến với 3-4kg urê
và 0,5kg muối. Urê và muối được hoà trong 30-40 lít nước sạch
rồi tưới đều vào 100kg thân lá ngô đã băm nhỏ. Sau đó ủ kín ở
nơi sạch sẽ hay các túi ni lông, hoặc bao tải dứa (2 lần bao) cho
thật kín, để khí amoniac từ phân urê tạo ra không bay đi mất.
Sau khi ủ 10-15 ngày lấy dần cho trâu bò ăn. Mỗi lần lấy xong
phải đậy kín hoặc buộc chặt. Nơi ủ hoặc đặt túi ni lông ủ cây
94
ngô cần tránh không để nước mưa hoặc nước từ bên ngoài thấm
vào. Vì nước thấm vào sẽ làm rửa trôi urê và làm cây ngô ủ bị
thối hỏng. Cây ngô ủ tốt sẽ có màu vàng, trâu bò thích ăn (Bùi

Văn Chính, Lê Viết Ly, 1993).
Khi mới tập cho trâu bò ăn cây ngô ủ urê có thể phơi cây ngô
ủ trong bóng mát 20-30 phút cho hả bớt mùi amoniac, sau đó mới
cho vào rổ hoặc máng ăn sạch sẽ cho trâu bò ăn. Cây ngô được chế
biến như trên có thể dự trữ được 2-3 tháng làm thức ăn cho trâu
bò. Hàng ngày có thể cho trâu bò ăn 8-12kg cây ngô đã chế biến
và cho gặm thêm cỏ ngoài đồng, nên cho ăn liên tục hàng tháng
mới có hiệu quả cao.
Trong kỹ thuật chế biến trên cần lưu ý mấy điểm sau:
- Cây ngô phải được băm nhỏ, phơi tái (1 nắng)
- Nơi ủ phải che đậy thật kín, tránh bị nước thấm vào
- Chỉ dùng urê, không dùng phân đạm sun phát (sẽ gây độc
cho trâu bò). Kỹ thuật chế biến này không khó nhưng đòi hỏi phải
làm đúng quy trình như đã giới thiệu ở trên.
Cây ngô già sau thu bắp được chế biến không những có thể dự
trữ được 2-3 tháng mà giá trị dinh dưỡng của chúng đã tăng lên rõ
rệt, gia súc thích ăn hơn, do đó béo khoẻ hơn, lớn nhanh hơn, ngay
cả trong mùa khô và mùa đông không đủ cỏ xanh.
III. CHẾ BIẾN THÂN LÁ LẠC LÀM THỨC ĂN CHO GIA SÚC
Hàng năm nước ta trồng hơn 246.800 ha lạc (niên giám TK
2002). Ước tính có gần 1,8 triệu tấn thân lá lạc tươi hàng năm.
Nhưng phần lớn nguồn phụ phẩm này người nông dân thường bỏ
lại ngoài đồng làm phân bón.
95
Lạc là cây họ đậu giàu protein, khi thu hoạch củ thân lá còn
xanh chứa nhiều chất dinh dưỡng có thể sử dụng làm thức ăn cho
gia súc. Nhưng thân lá lạc rất khó bảo quản và dự trữ, chúng rất dễ
bị thối hóng vì có hàm lượng protein và bột đường khá cao, mặt
khác mùa thu hoạch lạc thường vào mùa mưa, ẩm thấp, nấm mốc
phát triển nhanh. Vì những lý do nêu trên nên trong thực tế sản

xuất người nông dân mới sử dụng được một phần nhỏ thân lá lạc
tươi hoặc phơi khô làm thức ăn gia súc (ví dụ ở miền Trung nước
ta có một số vùng nhân dân có tập quán phơi cây lạc rồi nghiền
nhỏ làm thức ăn cho lợn, ở những vùng này thường có gió Lào
khô, nóng nên thuận tiện cho việc phơi khô).
Thân lá cây lạc giàu chất dinh dưỡng và có hàm lượng protein
khá cao: 15% (tính trong chất khô) không kém gì hàm lượng
protein trong thân lá cây họ đậu Alfalfa được trồng phổ biến ở
châu Âu (16-18% protein trong chất khô). Như vậy có thể coi thân
lá lạc là nguồn thức ăn có giá trị, có thể cung cấp một phần thức ăn
giàu protein cho gia súc ở nước ta.
Viện Chăn nuôi đã nghiên cứu phương pháp chế biến lá lạc
bằng phương pháp ủ chua có thể bổ sung thêm bột sắn, cám gạo để
dự trữ thân lá cây lạc hàng năm, chất lượng tốt, gia súc rất thích
ăn.
Phương pháp chế biến thân lá lạc như sau:
Thân lá cây lạc được băm nhỏ (2-4 cm), rồi bổ sung 7% bột
sắn hay cám gạo, bột ngô và cho thêm 0,5% muối ăn, ủ yếm khí,
nén thật chặt trong các hố đất đắp nửa nổi, nửa chìm, Hố này được
lót lá chuối, bao tải dứa hay ni lông để đất cát không lẫn vào thức
ăn. Hố phải đào ở nơi khô ráo, để cho nước không thể thấm vào.
96
Thành hố phải chắc chắn để có thể nén thật chặt thân lá cây lạc.
Tốt nhất là dùng bể xây, hoặc đắp đất nổi ở nơi sạch sẽ không có
nước thấm vào.
Tránh nước và nén chặt là 2 yếu tố quan trọng nhất của kỹ
thuật ủ chua yếm khí thức ăn xanh cho gia súc.
Tỷ lệ thân lá cây lạc, cám gạo hay bột sắn, muối ăn như sau:
+ 100 kg thân lá cây lạc băm nhỏ (2-4cm)
+ 7kg bột sắn hoặc cám gạo hoặc bột ngô

+ 0,5kg muối ăn
Lần lượt cho từng lớp thân lá lạc, rồi rắc 1 phần cám và muối,
sau đó nén bằng chân cho chặt. Mỗi lớp dày khoảng 10-20cm.
Những lớp đầu thường khó nén chặt nhưng khi nén các lớp phía
trên, lớp dưới sẽ được nén chặt thêm. Cứ lần lượt như vậy nén cho
đầy hố. Sau đó che kín bằng lá chuối, bao tải dứa hoặc ni lông, rồi
phủ lên 1 lớp đất hơi ẩm dày 30-40cm (khoảng 2 gang tay). Nén
thật chặt lớp đắt này.
Hình 5.

Sau 2-3 ngày ủ, thân lá lạc sẽ ngót xuống, cần phải nén kỹ lại
lớp đất phủ, để chúng không bị nứt nẻ. Nếu thấy lớp dất chưa thật
chắc có thể bổ sung thêm đất và nén thật kỹ. Chính lớp đất này sẽ
97
là vật nặng nén lên hố ủ và giữ cho không khí không lọt vào đống
ủ nữa.
- Nếu hố ủ xây thì không cần xây nghiêng như kiểu hố đất vẽ
ở trên. Kinh nghiệm của một số gia đình đã áp dụng kỹ thuật này
cho biết cứ 1 m
3
hố ủ có thể nén được 500-600kg thân lá lạc. Nếu
muốn chế biến thân lá lạc làm thức ăn cho lợn thì chỉ nên sử dụng
phần thân và ngọn non (ngọn dài 30-40cm). Còn muốn chế biến để
dự trữ làm thức ăn cho trâu bò thì có thể dụng tất cả thân lá cây lạc
(thân dài 60-90cm).
Sau khi ủ chua 2 tháng có thể lấy dần cho gia súc ăn, nhưng
không nên bỏ tất cả lớp đất, mà nên lấy từng góc, lấy xong nên che
kín bằng bao tải dứa và không để đất cát lẫn vào. Thức ăn ủ này có
thể dùng dần cho gia súc trong 4-5 tháng mà chất lượng vẫn tốt.
Chú ý tránh không cho nước thấm vào thức ăn ủ vì khi nước thấm

vào sẽ rửa trôi các a xít hữu cơ, thức ăn ủ sẽ bị hỏng. Có thể coi
phương pháp này như là phương pháp “muối dưa khô” cho gia súc
(nhưng không được cho nhiều muối mà chỉ dùng 0,5kg muối cho
100kg thân lá cây lạc). Phương pháp nàydễ làm, mọi gia đình
nông dân đều có thể áp dụng được. Hiện nay khi mà các túi nilon
loại lớn có bán nhiều trên thị trường thì việc ủ chua càng đơn giản.
Các hộ chăn nuôi nhỏ đều có thể làm với khối lượng thân lá lạc và
thức ăn xanh không lớn với tỷ lệ hao hụt sẽ rất thấp.
Lợn thịt được nuôi bằng thân lá lạc ủ chua thay thế rau xanh
đã tăng trọng khá tốt (14-16kg/tháng). Còn bò sữa được nuôi bằng
khẩu phần thức ăn xanh thô có 50% cây lạc ủ chua và 50% là cỏ
xanh đã cho sản lượng sữa 9-10 lít/ngày, giá thành sản phẩm giảm
20-25%.
98
Điều cần lưu ý là quá trình thu thân cây lạc và băm thái càng
nhanh càng tốt (chỉ nên kéo dài 1-3 ngày) còn quá trình ủ cần tiến
hành trong 1 ngày và che đậy phủ đất ngay, thì chất lượng mới tốt.

IV. CHẾ BIẾN, DỰ TRỮ VÀ LÀM GIẢM ĐỘC TỐ TRONG
NGỌN, LÁ SẮN LÀM THỨC ĂN GIA SÚC
Sắn tuy là cây nhiệt đới không cho hiệu quả kinh tế thật cao,
nhưng đã gắn bó lâu đời với người nông dân nước ta cũng như các
nước nhiệt đới khác. Cây sắn chiụ được đất chua, dốc và nghèo
dinh dưỡng ở trung du và miền núi. Với diện tích sắn hiện nay có
thể ước tính hàng năm ở nước ta có gần một triệu tấn ngọn lá sắn,
nhưng mới một phần nhỏ được sử dụng làm thức ăn gia súc. Ngọn
và lá sắn khá giầu protein và chất bột đường nhưng lại chứa độc tố
xyanoglucosit. Hợp chất này sẽ giải phóng ra axit xianhydric
(HCN) gây độc cho người và gia súc. Độc tố này sẽ bị bay hơi khi
nấu thật kỹ hoặc khi phơi khô ngọn và lá sắn. Hàm lượng độc tố a

xít xianhydric trong ngọn lá sắn tươi rất cao 930mg/1kg chất
khôvà trong sắn dù cao hơn trong sắn ngọt. Do đó khi trâu bò và
lợn ăn nhiều ngọn lá sắn tươi sẽ bị ngộ độc và có thể gây chết đột
ngột, còn nếu chỉ gây độc nhẹ (ăn một ít lá ngọn sắn tươi chưa nấu
kỹ trong một thời gian dài) sẽ gây cho gia súc chậm lớn.
Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã nghiên cứu chế
biến và dự trữ ngọn lá sắn bằng phương pháp ủ chua có bổ sung
thêm bột sắn, cám gạo. Phương pháp này đã làm giảm được hầu
hết độc tố (hàm lượng HCN chỉ còn 32 mg/kg chất khô) đồng thời
lại có thể dự trữ được ngọn lá sắn trong một thời gian dài hàng
năm làm thức ăn cho lợn, trâu, bò. Như vậy hàm lượng độc tố
99
HCN trong lá sắn ủ chua đã thấp hơn 2 lần so với tiêu chuẩn quy
định về hàm lượng HCN được phép có trong 1 kg thức ăn hỗn hợp
của các nước thuộc cộng đồng châu Âu (EEC).
Phương pháp ủ chua ngọn lá sắn cũng tương tự như phương
pháp ủ chua thân cây lạc đã được giới thiệu ở phần trên. Có thể
tóm tắt quy trình đó như sau:
- Ngọn, lá sắn băm nhỏ (2-4cm)
- Bổ sung 5% bột sắn, hay cám gạo và 0,5% muối ăn
- Nén chặt trong hố ủ
- Che phủ kín, tránh nước thấm vào
Tương tự như phương pháp ủ chua đã nêu trên, tỉ lệ giữa ngọn
lá sắn và bột sắn, hoặc cám gạo và muối như sau:
- 100 kg ngọn lá sắn băm nhỏ
- 5kg bột sắn, hay cám gạo, bột ngô
- 0,5kg muối.
Sau đó ủ và đầm nén giống như ủ thân cây lạc.
Kinh nghiệm của nhân dân một số vùng cũng như những tài
liệu nghiên cứu khoa học đã xác định rằng trước khi thu hoạch củ

30-40 ngày người ta có thể bẻ ngọn và thu lá sắn (ngọn dài 30-
40cm, lá sắn lấy cả cuống lá) mà không ảnh hưởng gì đến năng
suất củ và hàm lượng bột trong củ. Do đó chúng ta có thể thu gom
lá sắn trước khi thu hoạch củ rồi chế biến làm thức ăn gia súc để
công việc không bị dồn dập trong vụ thu hoạch sắn.
Sử dụng lá sắn ủ chua thay thế rau xanh nuôi lợn thịt, đã đạt
hiệu quả tốt, tăng trọng hàng tháng đạt 15-17kg; đồng thời lại
100
giảm được lượng thức ăn tinh hàng ngày (Bùi Văn Chính, Lê Viết
Ly, 1991).
Phương pháp ủ ngọn, lá sắn đã được nhiều gia đình nông dân
ở miền núi, trung du áp dụng và đã thu được kết quả tốt. Ngọn lá
sắn ủ chua được gia súc rất thích ăn, do đó đã góp phần tăng
nguồn thức ăn có giá trị dinh dưỡng tốt cho gia súc, mà trước đây
thường bỏ phí.
V. SỬ DỤNG BÃ SẮN- NGUỒN THỨC ĂN RẺ TIỀN CHO GIA
SÚC
Ở nhiều vùng nước ta, nhân dân có tập quán sản xuất bột trắng
tinh để làm nguyên liệu cho công nghiệp bánh kẹo, hoặc dùng để
xuất khẩu. Sản phẩm phụ của chế biến bột trắng tinh là bã sắn và
bột sắn đen, hai sản phẩm phụ này có thể sử dụng làm thức ăn gia
súc.
Quy trình chế biến bột sắn tinh như sau:
Củ sắn tươi được rửa sạch, bóc vỏ, nghiền nhỏ, lọc qua một số
bể để loại bỏ bã và thu tinh bột. Tỷ lệ phụ phẩm của quá trình chế
biến bột sắn như sơ đồ dưới đây:
20 kg bột khô

10 kg chất khô (vỏ sắn)
100kg sắn tươi (có 40kg chất

khô)

8kg chất khô bã sắn

2kg chất khô bột sắn đen
101
Như vậy sản phẩm phụ của quá trình chế biến bột sắn tinh
chiếm tới 40%. Vỏ sắn có thể làm thức ăn cho gia súc nhai lại, còn
bã sắn, bột sắn đen có thể dùng nuôi lợn hoặc trâu bò rất tốt.
Nhưng cần chú ý là bã sắn tuy có hàm lượng tinh bột khá cao
(60%) trong chất khô, nhưng hàm lượng chất xơ cũng cao (15%),
do đó chỉ nên sử dụng với mức 40-60% trong khẩu phần của lợn
thịt, đồng thời bổ sung thêm thức ăn giầu protein vào khẩu phần.
Bã sắn có thể dự trữ được khá lâu vì một phần tinh bột đã được lên
men tạo cho bã sắn sẵn có độ pH = 4-5; ở pH này hầu hết các loại
vi sinh vật bị ức chế, do đó mà sắn không bị thối hỏng.
Bột sắn đen là loại bột có lẫn một phần chất sạn, bột này có
màu nâu đen, thường nằm ở phía bề mặt lớp bột trắng, còn một
phần còn lại nằm ở phía đáy bể, người ta đều có thể lắng gạn dồn
lại với nhau. Bột sắn đen có thể sử dụng ở dạng tươi, hoặc phơi
khô làm thức ăn cho lợn, bò sữa rất tốt, vì chúng có hàm lượng xơ
rất thấp và rất giầu tinh bột đường.
VI. CHẾ BIẾN VÀ SỬ DỤNG TẢNG U RÊ-RỈ MẬT LÀM THỨC
ĂN BỔ SUNG CHO GIA SÚC NHAI LẠI
Người ta đã xác định rằng có thể thay thế 25-30% protein
trong khẩu phần của gia súc nhai lại bằng đạm phi protein (Toosli,
1981; Preston và Leng, 1987; Sansoucy,1988 )
Ở nước ta thức ăn chính cho trâu bò trong mùa khô và mùa
đông là rơm lúa nên thường rất thiếu protein trong khẩu phần. Do
đó trâu bò trong mùa này thường chậm lớn, thậm chí còn giảm

trọng lượng. Nhưng cho trâu bò ăn thêm tảng u rê rỉ mật, khi thức
ăn chính trong khẩu phần là rơm lúa đã làm cho tốc độ tăng trọng
đạt 11-13kg/tháng trong mùa đông.
102
Sử dụng tảng u rê rỉ mật cho gia súc nhai lại, không chỉ đem
lại hiệu quả kinh tế cao so với sử dụng các loại khô dầu (như khô
dầu lạc, khô đỗ tương, khô dầu dừa ) mà còn giúp cho người
nông dân dử dụng có hiệu quả nguồn đạm phi protein là u rê, có
thể mua dễ dàng ở khắp mọi nơi. Ở nước ta và một số nước đang
phát triển thường sử dụng tảng u rê rỉ mật có thành phần như sau:
- U rê: 10%
- Vôi bột: 5%
- Xi măng: 5%
- Muối ăn: 5%
- Cám gạo: 5%
- Rỉ mật: 40-50%
- Vỏ lạc: 20-30%
Có thể thay thế vỏ lạc bằng bã mía ngon hay bã sẵn phơi khô,
hoặc dây lang, dây lạc băm nhỏ phơi khô Tảng u rê rỉ mật có thể
bảo quản dự trữ trong một thời gian dài 4-5 tháng mà không bị hư
hỏng. Sử dụng tảng u rê rỉ mật đã cung cấp cho hệ vi sinh vật của
gia súc nhai lại một số lượng đáng kể ammoniac (NH
3
) và
hydratcacbon (tinh bột đường). Do đó quá trình lên men và tổng
hợp protein của hệ vi sinh vật đạt hiệu quả cao. Vì vậy người ta đã
gọi tảng u rê rỉ mật là bánh thức ăn “đa dinh dưỡng” của gia súc
nhai lại. Tảng u rê rỉ mật có thể đặt vào nơi sạch sẽ trong chuồng
cho gia súc ăn tự do, sẽ đem lại hiệu quả cao nhất.
VII. SỬ DỤNG CÂY CHUỐI, NGỌN DỨA, BÃ DỨA LÀM THỨC

ĂN CHO GIA SÚC
103
Ở một số vùng nước ta, nông dân có tập quán sử dụng cây
chuối đã chặt buồng làm thức ăn cho lợn. Nhưng thực tế chỉ thu
được hiệu quả kinh tế rất thấp. Bởi vì cây chuối có hàm lượng xơ
rất cao (35% tính trong chất khô), hàm lựơng protein rất thấp
nhưng lại chứa hàm lượng đáng kể tannin là chất cản trở quá trình
tiêu hoá protein ở dạ dày và ruột non. Tuy nhiên cây chuối có thể
sử dụng làm thức ăn cho gia súc nhai lại sẽ thu được hiệu quả tốt.
Ở nhiều nước châu Phi, trong mùa khô hầu như không có cỏ xanh
người ta đã sử dụng cây chuối đã lấy buồng kết hợp với tảng u rê
rỉ mật và cho ăn thêm một lượng nhỏ lá cây họ đậu, cám gạo
nuôi gia súc nhai lại đã thu được kết quả tốt.
Ở nước ta hàng năm còn có một khối lượng đáng kể ngọn dứa,
bã dứa có thể sử dụng làm thức ăn cho trâu bò. Trường Đại học
Nông nghiệp 1 Hà Nội (Nguyễn Xuân Trạch, 2005) đã có những
nghiên cứu chế biến sử dụng cây dứa, ngọn dứa, bã dứa, vỏ dứa
làm thức ăn cho trâu bò đã thu được kết quả tốt. Các phụ phẩm
dứa được chế biến theo phương pháp ủ chua đã dự trữ được 5-6
tháng mà chất lượng vẫn tốt. Nhiều gia đình chăn nuôi bò sữa đã
áp dụng kết quả nghiên cứu này và thu được hiệu quả kinh tế cao.
Có thể nói ở nước ta có nhiều nguồn phụ phế phẩm công-
nông nghiệp còn chưa được sử dụng có hiệu quả làm thức ăn chăn
nuôi. Nếu chúng ta áp dụng các tiến bộ kỹ thuật đã giới thiệu ở
trên một cách rộng rãi, thì nông dân nước ta sẽ có thêm một nguồn
thức ăn gia súc với khối lượng lớn, lại rẻ tiền, từ đó góp phần tăng
thu nhập cho người nông dân.
Tăng cường sử dụng các nguồn phụ phẩm công-nông nghiệp
sẵn có ở nước ta sẽ làm cho ngành chăn nuôi phát triển một cách
bền vững hơn và có hiệu quả cao hơn. Đây là một chủ trương có

104
tính chiến lược trong chăn nuôi đại gia súc bởi ở nước ta không có
nhiều đồng cỏ rộng.


105
Chương 5
KỸ THUẬT BẢO QUẢN, CHẾ BIẾN VÀ
SỬ DỤNG PHỤ PHẨM GIẾT MỔ, THỦY SẢN
LÀM THỨC ĂN CHĂN NUÔI
I. CHẾ BIẾN BẢO QUẢN PHỤ PHẨM GIẾT MỔ ĐỘNG VẬT
LÀM THỨC ĂN CHĂN NUÔI
Thịt là sản phẩm chính khi giết mổ gia súc, gia cầm. Phần còn
lại là sản phẩm phụ giết mổ, đó là lông, da, sừng, móng, đầu, đuôi,
chân, máu, các cơ quan nội tạng, chất chứa trong dạ cỏ và dạ dày
đơn. Tỷ lệ mỗi loại so với khối lượng cơ thể sống của vật nuôi
khác nhau và tổng lượng sản phẩm phụ chiếm 43,5-77,5%, bình
quân là 60,5% (bảng 15)
Bảng 15. Tỷ lệ các phụ phẩm trong cơ thể vật nuôi (%)
Tên sản phẩm Biến động Trung bình
Da 7,0-10,0 8,5
Xương 12,0-30,0 21,0
Máu 3,5-5,5 4,5
Lông, sừng, móng 1,0-2,0 1,5
Nội tạng 10,0-15,0 12,5
Chất chứa dạ cỏ 10,0-15,0 12,5
Tổng sản phẩm phụ 43,5-77,5 60,5
Các sản phẩm phụ trên nếu được chế biến đúng cách thì trông
dễ ưa, có mùi vị ngon giảm bớt hoặc mất đi các đặc tính của chất
106

ban đầu. Nhìn chung các chất thải động vật không thể bằng các
thức ăn mà chúng thay thế nên khi nuôi dưỡng gia súc, gia cầm
bằng chất thải, chúng ta phải tạo ra cho khẩu phần có độ ngon
miệng cao để gia súc ăn hết khẩu phần.
Ở các nước có nền kinh tế phát triển, do việc giết mổ gia súc,
gia cầm tập trung với những thiết bị hiện đại đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm, những sản phẩm phụ giết mổ được chuyển ngay
khỏi cơ sở giết mổ và chế biến theo dây chuyền công nghiệp hiện
đại như bột máu bằng phương pháp sấy phun, bột xương, nội tạng
được tách mỡ (rendering) công phá sấy khô nghiền nhỏ thành bột
xương, bột thịt. Lông vũ, sừng, móng được thủy phân bằng axit
hoặc kiềm sau đó sấy phun thành bột karetin.
Những sản phẩm chế biến từ phụ phẩm động vật đã trở thành
những hợp phần với những liều lượng cố định trong thức ăn công
nghiệp cho các đối tượng gia súc, gia cầm khác nhau.
Ở các nước đang phát triển tình hình sản xuất sử dụng các sản
phẩm từ phế phụ phẩm ngành giết mổ còn nhiều hạn chế. Do thiếu
công nghệ chế biến phù hợp và do tình trạng giết mổ gia súc phân
tán, không có các lò giết mổ hiện đại nên đã hạn chế việc thu thập
dự trữ nguồn phế phụ phẩm này. Ngoài ra, các vấn đề về giao
thông, phương tiện đi lại, phương tiện vận chuyển, các thành viên
xã hội cũng là những nguyên nhân gây nên các hạn chế trong việc
nghiên cứu sử dụng phụ phẩm giết mổ gia súc. Ở các nước đang
phát triển dù muốn thì cũng không thể đầu tư vốn lớn vào cơ cấu
hạ tầng của nhà máy và máy móc như ở các nước phát triển. Công
nghệ được đề xuất ở các nước đang phát triển phải đơn giản và
vốn đầu tư ít. Công nghệ được đề xuất ở các nước này là công
nghệ giai đoạn bảo quản nguyên liệu một cách tốt nhất ở nơi sẵn
107
có, sau đó nguyên liệu đã được bảo quản này có thể vận chuyển và

chế biến thành sản phẩm cuối cùng tại một địa điểm trung tâm.
Phương pháp này là cần thiết vì chế biến nguyên liệu thành sản
phẩm cuối cùng ở nơi có nguyên liệu khi số lượng nguyên liệu sẵn
có chỉ có ít là không kinh tế. Mặt khác phương pháp công nghệ hai
giai đoạn này giúp cho việc giải quyết công ăn việc làm cho lao
động nhàn rỗi ở nông thôn. Chẳng hạn để sơ chế phụ phẩm từ 10
bò, 20 lợn hoặc 50 cừu/dê thì phải sử dụng hai lao động cả ngày
(Mahendra Kumar, 1989).
Ngòai ra công nghệ bảo quản là một hệ thống duy nhất để giải
quyết cả hai vấn đề: chất thải và kiểm soát ô nhiễm tạo ra một môi
trường vệ sinh, tạo nên các điều kiện sống tốt hơn và lành mạnh
hơn cho con người.
Việc nghiên cứu để sử dụng loại sản phẩm phụ này làm thức
ăn chăn nuôi được bắt đầu vào năm 1991 dưới dạng 1 đề tài cấp
Nhà nước giai đoạn 1991-1995 do GS. Lê Văn Liễn chủ trì. Kết
quả nghiên cứu đã tạo ra được các sản phẩm chế biến có thể bảo
quản lâu ở nhiệt độ bình thường và sử dụng nó trong chăn nuôi.
Những sản phẩm đó là: bột xương, bột máu, bột chất chứa dạ cỏ,
bột lông sừng móng. Các quy trình công nghệ chế biến không chỉ
nhắm mục tiêu kinh tế mà còn góp phần làm giảm ô nhiễm môi
trường, nếu được quản lý tốt mỗi loại sản phẩm đó được lần lượt
trình bày dưới đây.
1. Chế biến bột xương làm thức ăn chăn nuôi
Bột xương là nguồn phospho trong thức ăn chăn nuôi. Có ba
cách chế biến bột xương chủ yếu là đốt xương, sấy khô, ninh hầm
dưới áp suất hơi cao. Tuỳ phương pháp chế biến cho ba loại sản
108
phẩm tương ứng: tro xương (bone ash), bột xương thô (rawbone
meal), bột xương hấp hơi (steamed bone meal).
+ Tro xương (bone ash): chỉ còn chất khoáng, chủ yếu là canxi

(khoảng 30%) và 15% phospho năng suất của tro xương khoảng
60% trọng lượng xương khô.
+ Bột xương thô (raw bone meal): xương nghiền lọt qua mắt
sàng 2,5mm. Kích thước mắt sàng lớn hơn cho các loại xương
mảnh thường là:19mm, 16mm và 10mm các kích thước này được
dùng để chiết cao xương và bột xương thô.
Bột xương thô cần phải khử trùng trước khi bổ sung vào thức
ăn chăn nuôi. Trước khi nghiền, xương khô đã được sấy bằng hơi
than 6h-8h ở nhiệt độ trên 200
o
C nên bột xương đã được khử
trùng, loại bột xương này chứa 20,29% protein; 3,36% mỡ, 25,6%
can xi; 9,93% phospho và 8,60% độ ẩm, Lê Văn Liễn, 1995.
+ Bột xương hấp bằng hơi nước (steamed bone meal): Xương
được sử lý ở nhiệt độ 121-126
o
C với áp suất cao 2,8kg/cm
2
, trong
thời gian 3h nên đã khử trùng tuyệt đối và tan vào nước một ít chất
hữu cơ, loại bột xương này chứa 16,95% protein; 26,15% can xi;
14,4% phospho; 3,68% mỡ và 8,11% độ ẩm.
Kỹ thuật chế biến các loại bột xương trên được tiến hành theo
các bước:
Xương nguyên liệu

Rửa xương

Làm nhỏ sơ bộ Công
phá (đốt hoặc sấy, ninh hầm dưới áp suất cao)


Nghiền bột


Kiểm tra chất lượng và đóng gói.
Cách tiến hành của mỗi bước như sau:
109
- Xương nguyên liệu: Xương nguyên liệu là xương các loại gia
súc (trâu, bò, lợn), xương có thể tươi đã lọc thịt hoặc xương tận
dụng, xương hoang.
- Rửa xương nguyên liệu: Dù loại xương nào cũng phải rửa
sạch các chất bẩn trên bề mặt bằng vòi phun mạnh hoặc thùng rửa
sau đó để khô hết nước.
- Làm nhỏ sơ bộ: Dùng búa đập nhỏ những xương thô, đặc biệt
là xương ống phải đập vỡ, xương sườn chặt ngắn 80-100mm,
xương khớp chặt nhỏ hơn 50-60mm.
- Đốt xương: Có thể dùng củi, trấu, than đốt xương, xương
được xếp lẫn với củi hoặc trấu, than đá trộn bùn và đóng bánh
được xếp xen kẽ với xương. Lúc đầu xương đen, sau trắng dần,
xốp. Xương đốt đã được khử trùng hoàn toàn, xương đã mềm dễ
dàng nghiền nhỏ thành bột.
- Hầm xương: Xương sau khi làm nhỏ sơ bộ được xếp vào nồi,
đổ nước ngập xương. Nâng nhiệt độ đến 121
o
C-126
o
C, giữ nhiệt
độ đó trong thời gian 3h được áp suất 12,8kg/cm
2
sau đó hạ nhiệt

áp suất. Khi nhiệt độ xuống thấp thì mở nắp vớt xương đem sấy
khô.
- Đập nhỏ: Xương đã được sấy khô, dùng máy chạy điện đập
nhỏ 10-12mm.
- Nghiền: Xương đã đập nhỏ được nghiền bằng máy nghiền
búa chạy điện với mắt sàng 2,5mm.
- Kiểm tra chất lượng: Kiểm tra độ mịn, độ ẩm, phospho,
protein, vi khuẩn.
110
- Đóng gói: Bột xương được đóng gói vào các bao bì có khả
năng chống ẩm, túi polyetylen, hoặc túi giấy có tráng lớp chống
ẩm. Trọng lượng tuỳ thuộc vào yêu cầu người sử dụng.
2. Chế biến bột máu làm thức ăn chăn nuôi
a. Chế biến bột máu bằng phương pháp xử lý nhiệt
Nội dung cơ bản của phương pháp này là phối hợp sử dụng cơ
năng và nhiệt năng làm giảm tối đa độ ẩm của máu (từ 80-82% tới
độ ẩm bảo quản 10-11%). Kỹ thuật chế biến gồm 4 giai đoạn.
- Làm đông (Coagulation): Máu sau khi thu gom không thể
đưa vào sấy trực tiếp được, vì hàm lượng nước cao và protein máu
rất dễ bị đông đặc biến tính. Chỉ cần nâng nhiệt độ lên trên 80
o
C
toàn bộ protein máu bị biến tính và đông đặc, sự tăng nhiệt độ cao
hơn nữa sẽ làm cho máu bị dính bết, khô đặc hoặc cháy, bởi vậy
trước khi sấy khô máu được luộc với nước theo tỷ lệ 1:1. Để máu
đông đặc hoàn toàn và tiệt trùng cần duy trì nhiệt độ sôi trong thời
gian 30 phút để tránh khê, cháy trong khi luộc, máu cần được
khuấy liên tục.
- Ép bớt nước (Squeezing): Khối máu đông đặc sau khi luộc
vẫn chứa hàm lượng nước rất cao. Để tiết kiệm nhiệt lượng trong

khi sấy cần phải ép bớt nước. Kỹ thuật ép đơn giản, ở những nơi
có điều kiện có thể làm thiết bị ép. Máu được đựng vào những túi
vải hoặc những bao tải thưa sao cho khi ép nước thoát ra ngoài
được dễ dàng. Dùng sức người xoay cần ép theo chiều kim đồng
hồ đến khi đạt độ nén cao nhất. Ở những nơi không có điều kiện,
có thể dùng những vật nặng như gỗ, đá, các tảng kim loại v.v. để

×