Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nguyễn Công Trứ: Sự lên ngôi của cái Tôi - Cá thể ._2 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.52 KB, 5 trang )

Nguyễn Công Trứ: Sự lên
ngôi của cái Tôi - Cá thể







Với Nguyễn Công Trứ, riêng chữ "tình" cũng thành một khoản phong phú, phì
nhiêu hiếm có mà bản chất chính là sống theo quy luật tự nhiên mà tạo hoá đã ban cho
loài người. Ông định nghĩa, giới thuyết chữ tình: "Cái tình là cái chi chi/ Dẫu chi chi
cũng chi chi với tình/ Đa tình là dở/ Đã mắc vào đố gỡ cho ra Càng tài tình càng ngốc
càng si/ Cái tình là cái chi chi" (Vịnh chữ tình). Ông đùa với tình: "Tao ở nhà tao tao
nhớ mi/ Nhớ mi nên phải bước chân đi/ Không đi mi nói răng không đến/ Đến thì mi nói
đến làm chi/ Làm chi tao đã làm chi được/ Làm được thì tao đã làm đi " (Bỡn tình
nhân). Ông cũng có phen phải sầu tình "Sầu ai lấp cả vòng trời/ Biết chăng chẳng biết
hỡi người tình chung/ Xuân sầu mang mang tắc thiên địa/ Giống ở đâu vô ảnh vô hình/
Cứ tò mò quanh quẩn bên mình/ Khiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng"(Vịnh sầu tình).
Nguyễn Công Trứ là con người hành động, chăm lo phận sự, nhưng đồng thời không
quên chữ nhàn mà gần ba thế kỷ trước Nguyễn Bình Khiêm đã hăng hái đề xướng. Nay
đến ông lại muốn nâng cấp lên tầm triết lý: "Thị tại môn tiền náo/ Nguyệt tại môn hạ
nhàn/ So lao tâm lao lực một đàn/ Người nhân thế muốn nhàn sao được/ Nên phải giữ
lấy nhàn làm chước/ Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà
thị nhàn chữ nhàn là chữ làm sao" (Chữ nhàn),"Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu/ Trầm
tư bách kế bất như nhàn" (Muốn quên sự đời chỉ có rượu/ Suy nghĩ trăm kế không bằng
nhàn - Vịnh Nhàn), "Cơn chếnh choáng vần trời đất lại/ Chốc ngâm nga xáo lộn cổ kim
đi/ Cái công danh là cái chi chi/ Quý nhân tướng bất như nhàn nhân quý" (Nhàn nhân
với quý nhân). Với Nguyễn Công Trứ, hành lạc cũng đã trở thành triết lý cuồng nhiệt.
Ông có một bài thơ không biết nhan đề do ông tự đặt hay do đời sau làm sách đặt là
"Đánh thức người đời" trong đó có hai câu mà có lẽ đến hôm nay, không ít thuộc lớp


người có tuổi hẳn là phải kinh ngạc. Đó là: "Nhân sinh bất hành lạc/ Thiên tuế diệc vi
thương" (Người sống ở đời mà không hưởng lạc - Thì có thọ đến nghìn tuổi cũng coi
như chết yểu). Quả là Nguyễn Công Trứ đã say sưa với hành lạc chẳng kém gì say sưa
với phận sự, với công nghiệp. Bởi với ông, chuyện gì mà chẳng hết mình. Đến nay,
nhiều cụ già ở Kim Sơn, Tiền Hải vẫn còn kể chuyện: Nguyễn Công Trứ hồi làm doanh
điền sứ, ngày thì xông pha, năng nổ với công việc khẩn hoang, đêm thì chìm đắm trong
điệu phách câu ca với các ả đào non xinh đẹp. Rồi chuyện Nguyễn Công Trứ, lúc tuổi đã
ngoài bảy mươi, lên chơi chùa Hương Tích trên núi Ngàn Hống gần nhà, vẫn đem theo
"một đôi dì", mà chính ông đã ngang nhiên kể lại trong Bài ca ngất ngưởng: "Gót tiên
theo đủng đỉnh một đôi dì/ Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng"
Riêng trong văn chương, trước Nguyễn Công Trứ, có lẽ không ai, kể cả Tản Đà về
sau, có độ cuồng nhiệt với triết lý hành lạc như ông: "Sách có chữ nhân sinh thích chí/
Đem ngàn vàng chác lấy cuộc cười/ Chơi cho lệch mới là chơi/ Chơi cho đài các cho
người biết tay" (Cầm kỳ thi tửu, II), "Nợ tang bồng hẹn khách thiếu niên/ Cuộc hành lạc
vẫy vùng cho phí chí" (Cầm kỳ thi tửu, III), "Lần lựa tiết xuân dương có mấy/ Bóng
quang âm chơi lấy kẻo già/ Trăm năm trong cõi người ta/ Xóc sổ tính ngày chơi đã được
mấy" (Trong trần mấy mặt làng chơi), "Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy/ Cuộc hành lạc bao
nhiêu là lãi bấy/ Nếu không chơi thiệt lấy ai bù/ Nghề chơi cũng lắm công phu" (Chơi
xuân kẻo hết xuân đi)
Với Nguyễn Công Trứ, chơi, hành lạc là đủ thứ: có tình, có cầm, kỳ, thi, tửu đã
đành. Còn có thú thiên nhiên với trăng gió, cỏ hoa, với "Liễu tía đào hường mai trắng
trắng/ Lan tươi huệ tốt lý xanh xanh/ Thêm hương khi gió lá mưa cành/ Mở mặt thấy
giang sơn cười chúm chím Trân trọng lấy hương trời cho trọn vẹn/ Hoa với khách như
đà có hẹn/ Ưa màu nào màu ấy là xinh/ Trăm hoa cùng bẻ một cành" (Yêu hoa).
Nguyễn Công Trứ với triết lý hành lạc như thế, quả thật là một sự táo bạo, cũng
có thể nói là đi trước thời đại. Bởi trong lịch sử tư tưởng Việt Nam xưa mà ảnh hưởng
chưa phải đã chấm dứt với nhiều người thời nay thì vấn đề hành lạc vẫn là vấn đề không
đơn giản, bởi một khi con người từng được Nho giáo dạy bảo "khắc kỷ phục lễ" (phải
thắng mình để tuân theo lễ), từng được Phật giáo khuyến khích diệt dục để diệt khổ.
Khác với phương Tây, ngay từ thời cổ đại Hy Lạp, chủ nghĩa hành lạc (épicurisme) của

Épicure đã được coi là tiến bộ, là có giá trị nhân văn, không có gì mâu thuẫn với đạo
đức. Trong cuộc sống quả đã có hai thứ hành lạc. Một thứ hành lạc nhân văn chân chính.
Một thứ hành lạc thú tính, đê hèn. Triết lý hành lạc và nội dung hành lạc của Nguyễn
Công Trứ thuộc trường hợp thứ nhất. Chính ông đã nói rõ điều đó: "Tế suy vật lý tu hành
lạc/ An dụng phù danh bạn thử thân/ Song bất nhân mà lại chí nhân" (Xét kỹ thì ở đời
nên ăn chơi/ Sao nỡ để công danh trói buộc thân mình/ Nói là không nhân đạo nhưng
chính là rất nhân đạo - Chơi xuân kẻo hết xuân đi). Ông không từ chối hành lạc đã đành,
mà ngược lại còn khuyến khích "tu hành lạc" (nên hành lạc) vì theo ông đó là "chí nhân"
(hết sức nhân đạo), nên cần "Đánh thức người đời", bởi họ từ lâu rồi chưa biết hưởng cái
hạnh phúc trần gian đó. Dĩ nhiên đây là người đời Việt Nam chứ đâu phải người đời
dưới trời Âu. Riêng tôi thì thấy thời gian đã và đang ủng hộ Nguyễn Công Trứ và ở
phương diện này, trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam xưa, coi ông là người có tư tưởng
hiện đại không phải là không có lý. Tôi còn muốn nói thêm về mối nhân duyên giữa nhà
triết lý hành lạc Nguyễn Công Trứ và ông tổ, kiêm ông vua hát nói Nguyễn Công Trứ.
Như đã biết, hát nói là một thể loại đặc biệt ở tính chất tổng hợp, nguyên hợp giữa các
thành tố: văn chương, thanh nhạc, vũ đạo và sắc dục đang ở độ tinh khiết, thanh tao.
Thưởng thức hát nói chính là thưởng thức thành quả nghệ thuật nguyên hợp đó, đúng là
cha ông ta thuở trước, trong đó nổi lên có Nguyễn Công Trứ đã quá thông minh, quá tài
giỏi, quá khôn trong việc sáng tạo ra thể hát nói để hưởng thụ một cách phi Nho, phi
Phật nhưng rất nhân bản, rất người, rất nghệ thuật trong cuộc sống trần gian dưới chế độ
phong kiến khắc nghiệt. Nguyễn Công Trứ nếu không có nồng độ đắm say với triết lý
hành lạc đó thì làm gì trở thành ông tổ, ông vua của thể loại hát nói trong lịch sử thơ ca
Việt Nam. Nói đến cái Tôi - cá thể Nguyễn Công Trứ lại cũng không thể bỏ quên cái
ngất ngưởng, cái ngông của ông. Trong cuộc sống loài người, ngông hay ngất ngưởng
cũng có hai trạng thái. Một là đáng ghét. Một lại đáng yêu. Nguyễn Công Trứ và sau
ông là Tản Đà, thuộc trạng thái đáng yêu, đáng kính. Bởi ở đây, ngông, hay ngất ngưởng
thực chất là một hình thức tồn tại đặc biệt của nhân phẩm cao đẹp. Ngông, ngất ngưởng
là khác người. Nhưng khác ở chỗ xa lạc với sự tham lam, nịnh hót, xỏ xiên, thủ đoạn,
bần tiện Ngược lại là điệu sống nhân bản hơn, người hơn và cũng triết lý hơn dù trong
một hình thức không bình thường. Đọc kỹ lại Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công

Trứ, sẽ thấy rõ điều đó.
*
Nguyễn Công Trứ không phải là một đại anh hùng cứu quốc, một nhà tư tưởng
lớn, một học giả lớn, một thiên tài văn chương số I, một nhà đại cách mạng nhưng ở
Nguyễn Công Trứ là "sự lên ngôi của cái Tôi - cá thể" hiếm và trội mang giá trị nhân
bản chân chính cho dù trong thực tế nó vẫn không thoát khỏi bi kịch của trần gian.
Những điều được dẫn giải như trên hy vọng sẽ được khoa học nhân văn nước nhà chấp
nhận. Nếu đúng thế thì tôi cầu nguyện cho đất nước hôm nay và mai sau có được nhiều
Nguyễn Công Trứ theo tinh thần tiếp thu có phát triển trên cơ sở nhận thức đầy đủ hơn
và tường minh hơn về con người - cá thể trong sự sống nhân quần với những nội dung
phong phú cao đẹp và cần thiết của nó trong đó có tư duy cá thể mà Descartes đã khởi
xướng bên trời Âu từ thế kỷ XVII nhưng chính là của chung cho nhân loại trong muôn
đời


×