Sự tha hoá của cái Tôi
Ở một bộ phận lớn của thế giới là khu vực chậm phát triển, hiện tượng cái Tôi tha
hóa xảy ra rất phổ biến. Vậy có mối liên quan nào giữa sự tha hóa này với trạng
thiếu tự do không? Theo quan điểm của tôi, chính sự thiếu tự do đã khiến cho đời
sống tinh thần của con người trở nên mất cân bằng và do đó tạo ra sự tha hóa của
cái Tôi.
Tại sao lại như vậy? Bởi vì Tự do là nguồn gốc sự phát triển của con người. Khi
con người không có các quyền tự do thì dần dần con người sẽ đánh mất những
kinh nghiệm về tự do, mất ý chí đòi tự do cũng như mất cảm hứng sử dụng tự do
như là phương tiện để phát triển các giá trị tinh thần của mình. Nếu không có tự do
thì con người không có tiền đề không có không gian tinh thần đầy đủ, không có sự
sạch sẽ tâm hồn để tiếp nhận tất cả các khả năng để phát triển, tức là không có
năng lực. Sự hạn chế của không gian tự do bên ngoài và bên trong đã làm cho cái
Tôi tha hoá mà biểu hiện rõ rệt nhất của nó là sự mất mát năng lực. Tôi cho rằng
đây là một vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu nếu không chúng ta vẫn tiếp tục
xây dựng xã hội bằng những viên gạch hỏng mà không lý giải được tại sao xã hội
không phát triển. Thực tế ở nhiều quốc gia lạc hậu cho thấy, sự tha hoá của cái Tôi
là kết quả của một đời sống tinh thần phát triển không lành mạnh dưới tác động
của sự ràng buộc của tư tưởng, sự bao vây của văn hóa lạc hậu, sự níu kẻo của
nghèo đói và trên hệ là sự cai trị của nhà nước. Tất cả, những yếu tố như vậy xuất
hiện trong mọi mặt của đời sống, từ kinh tế, văn hóa, chính trị cho đến giáo dục,
làm cho con người trở nên lệch lạc và kết quả là con người không còn đủ các năng
lực để thích nghi với cuộc sống.
Trên phương diện kinh tế có thể thấy nền kinh tế chịu sự áp đặt của các quan điểm
chính trị, được mô hình hóa bằng tiêu chuẩn chính trị mà không phải bằng các tiêu
chuẩn, hay các đặc thù kinh tế. Trong các mô hình kinh tế này, có không ít mô
hình được lựa chọn dựa trên những quan điểm chính trị khác biệt, mâu thuẫn với
sự phát triển tự nhiên của đời sống kinh tế. Sự lựa chọn mô hình kinh tế theo
những tiêu chuẩn chính trị được dẫn hướng bởi một hệ tư tưởng cố định đã kéo
theo hậu quả là trói buộc thân phận của các dân tộc vào những quan điểm chính trị
cụ thể, làm mất tính năng động, tính tự do của các lực lượng kinh tế và ảnh hưởng
sống còn đến đời sống phát triển. Hệ quả của nó là con người chuẩn bị toàn bộ các
năng lực của mình theo tiêu chuẩn của nền kinh tế mà nhà cầm quyền định xác lập
và khi mô hình kinh tế ấy sụp đổ, nhường chỗ cho một loại hình kinh tế khác thì
toàn bộ năng lực đã chuẩn bị của con người trở nên không tương thích với những
đòi hỏi mới. Nhìn trên phương diện chính trị, chúng ta có thê thấy rất rõ sự cai trị
của các nhà nước. Tất cả các mặt đời sống của con người đều bị áp đặt theo một
khuynh hướng được qui định bởi lý tưởng chính trị của những người cầm quyền.
Chính việc bị áp đặt bởi một khuynh hướng và nhất là khi nhu cầu chính trị của
khuynh hướng ấy có sự khác biệt với nhu cầu phát triển của đời sống đã gây ra
hiện tượng mất mát năng lực, thiếu hụt năng lực chính trị của toàn xã hội. Hệ
thống chính trị sử dụng tất cả những phương tiện có trong tay để hướng dẫn con
người chuẩn bị những năng lực phù hợp với nhu cầu chính trị của nó, tức là những
thứ mà hệ thống chính trị cần chứ không phải là những thứ mà cuộc sống đòi hỏi.
Đây là một hiện tượng khá phổ biến ở các quốc gia chậm phát triển về mặt chính
trị, những nước mà đặc trưng cơ bản của nó là thiếu dân chủ, không có dân chủ.
Một vấn đề nữa của các nước chậm phát triển là có nền văn hóa vừa lạc hậu vừa
phi tự nhiên, do đó, nó ảnh hưởng đến sự phát triển về mặt tinh thần của con
người. Văn hóa luôn có tính lạc hậu tương đối, nếu nó không cởi mở và tiếp nhận
tự nhiên các yếu tố mới, nó sẽ tự xơ cứng và không thể trở thành môi trường tốt
cho sự hình thành các giá trị cá nhân. Sự lạc hậu của văn hóa là do tính khép kín
của nó, còn tính phi tự nhiên của văn hóa là do sự áp đặt chính trị của tập đoàn
cầm quyền. Trong những nền văn hóa đó, con người được hướng dẫn, được tuyên
truyền những tiêu chí đạo đức, tiêu chí năng lực, tiêu chí khoa học công nghệ, tiêu
chí chính trị một cách máy móc và xem những tiêu chí ấy như những tiêu chí ấy
hoàn toàn không thể thay đổi được, vừa có giá trị điều khiến, vừa có giá trị lãnh
đạo. Nhưng khi thực tế chứng minh rằng sự tuyên truyền ấy là nhầm lẫn, lý tưởng
chính trị đó là nhầm lẫn và những tiêu chí ấy hoàn toàn không có giá trị phục vụ
cho đời sống phát triển thì những xã hội hưởng thụ sự tuyên truyền ấy bỗng nhiên
mất toàn bộ năng lực. Thế giới luôn biến đổi không ngừng. Xu thế toàn cầu hóa
cưỡng bức mọi nền văn hóa phải mở cửa và không ai còn cơ hội để sống biệt lập
cả. Vậy con người sẽ ra sao khi phải sống bằng những năng lực đơn giản và được
chuẩn bị sai trong những điều kiện mới của thời đại?
Khi chính trị, kinh tế và
văn hóa lạc hậu, tất yếu
giáo dục cũng sẽ lạc
hậu. Giáo dục là khâu
trực tiếp giúp con người
chuẩn bị năng lực của
mình nhưng do sự áp
đặt của chính trị mà ở
các nước chậm phát
triển, con người không
được trang bị những
kiến thức để rèn luyện
những năng lực mà c
sống cần. Hệ thống
dục chỉ trang bị cho con người những kiến thức mà hệ thống chính trị cần, nhưng
những kiến thức này không những lạc hậu mà còn hoàn toàn không phù hợp với
nhu cầu của cuộc sống. Xét về mặt triết học và chính trị học, chương trình giáo
dục không có tính đa dạng cần thiết của khoa học nhận thức bởi vì nó chỉ dựa trê
uộc
giáo
n
một loại triết học duy nhất, dựa trên một hệ tư tưởng cố định phù hợp với nhu cầu
của hệ thống chính trị. Thời lượng trong chương trình giáo dục bị chiếm dụng m
cách không thương tiếc cho những nguyên lý để duy trì sự ổn định của những k
niệm đã cũ. Người ta đã không xem người lao động như một thực thể con người
với các quyền độc lập của nó. Đầu ra của hệ thống giáo dục này là lực lượng lao
động thiếu năng lực hay có những năng lực không bán được trên thị trường lao
động.
ột
hái
Sống trong những môi trường chính trị, kinh tế và văn hoá phi dân chủ, phi tự
nhiên một cách lâu dài sẽ làm con người biến dạng, con người không có đủ cảm
hứng và cũng không đủ năng lực để tạo ra giá trị, tạo ra cuộc sống của chính mình.
Đó không phải là cuộc sống của sự tiến bộ mà là cuộc sống mất cân bằng hay bị
tha hoá từ bên trong. Quan sát hàng ngày rất dễ thấy hiện tượng mất mát, thiếu hụt
năng lực ở số đông con người trong các xã hội chậm phát triển. Có thể kể ra ở đây
một số loại năng lực cơ bản, đó là:
Mất năng lực phản ánh sự thật:
Có thể nói sự tha hoá của cái Tôi chính là sự biến dạng, sự mất cân đối của hình
ảnh cuộc sống trong tâm hồn mỗi con người thông qua nhận thức. Chúng ta đều
biết, chất lượng của một tấm ảnh phụ thuộc vào chất lượng của máy ảnh, một cái
máy ảnh tốt sẽ cho một tấm ảnh có chất lượng, một cái máy ảnh tồi sẽ cho một tấm
ảnh hỏng... Tấm ảnh ấy bị hỏng tức là anh không chụp được một cách chính xác
các cấu trúc của cuộc sống, anh có những dị tật mà vì thế anh nhận dạng cuộc sống
một cách méo mó. Một trong những dị tật ấy chính là sự mất mát năng lực nhận
thức và phản ánh cuộc sống trung thực như nó vốn có. Năng lực phản ánh sự thật
là một trong những năng lực quan trọng nhất để xác lập ranh giới giữa cái Tôi lành
mạnh và cái Tôi không lành mạnh.
Khi con người bị khuyết tật về mặt nhận thức thì mọi diễn biến cuộc sống bên
ngoài khi phản ánh thông qua nó sẽ bị méo mó. Mặc dù trong con người luôn có
bản năng phản kháng tự nhiên đối với những sức ép những biến dạng mà cuộc
sống, xã hội, thể chế tạo ra nhưng do chịu sự
áp đặt lâu dài nên khả năng đó không được
rèn luyện và vì thế hệ miễn dịch của con
người trở nên thoái hoá, còn người mất đi cả
năng lực đề kháng trước những biến dạng mà
văn hoá hay chính trị có thể gây ra. Sự mất
năng lực đề kháng khiến con người trở nên
bạc nhược, thiếu ý chí. Mất năng lực phản
ánh sự thật nên con người cũng mất luôn cả năng lực rung động trên những đối
tượng khác nhau. Những đòi hỏi của cuộc sống do đó được phản ánh một cách
méo mó hoặc là không được phản ánh. Alfred de Musset, nhà văn lớn của Pháp
từng thốt lên rằng tôi biết nhiều tác phẩm vĩ đại đôi khi chỉ là những tiếng nấc.
Nhưng dường như ở những xã hội không tự do nơi con người tha hoá và lạc hậu
về mặt nhận thức, không ai có thể nghe thấy những tiếng nấc, tiếng khóc của cuộc
sống. Đó là một không gian tinh thần không có dấu hiệu con người.
Cái Tôi khi nhận thức sai sẽ gây hại cho chính nó, bởi vì, về cơ bản con người
nhận thức và hành động cho những lợi ích của mình, cho nên, khi con người nhận
thức sai, chụp ảnh cuộc sống sai thì con người tự dẫn mình đến những chỗ sai và
tạo ra sự thất thiệt cho chính mình. Con người cố gắng sống một cách biệt lập, cố
gắng không tương tác với thế giới bên ngoài, cố gắng đóng mọi cánh cửa để không
có ánh sáng nào lọt vào, để không ai phát hiện ra tình trạng khuyết tật của mình.
Việc đó diễn ra lâu đến mức con người không còn cảm thấy những khuyết tật của
mình nữa. Chính điều đó đã tạo ra cái chết lâm sàng của đời sống tinh thần, tức là
con người mất đi năng lực xúc động, năng lực nhận biết về cuộc sống, về chính
bản thân mình, cũng như không nhận ra sự thoái hoá trong nhận thức của mình.