Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

TÌM HIỂU VỊ TRÍ ĐỊA LÍ TỈNH THANH HÓA docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.88 KB, 27 trang )

TÌM HIỂU VỊ TRÍ ĐỊA LÍ TỈNH
THANH HÓA



Tỉnh Thanh Hóa


Tỉnh Việt NamChính trị và hành chínhBí thư tỉnh ủyNguyễn Văn
LợiChủ tịch HĐNDLê Ngọc HânChủ tịch UBNDMai Văn NinhĐịa
lýTỉnh lỵThành phố Thanh HóaMiềnBắc Trung BộDiện tích11.133,4
km² km²Các thị xã / huyện1 thành phố, 2 thị xã, 24 huyệnNhân khẩuSố
dân
• Mật độ3.405.000 người người
306 người/km²Dân tộcViệt, Mường, Thái, Thổ,
Dao, H'Mông, Khơ-múMã điện thoại37Mã bưu chính41ISO 3166-2VN-
21Websitethanhhoa.gov.vnBiển số xe36Thanh Hóa là tỉnh cực Bắc
miền Trung Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội khoảng 150 km về phía Nam
và cách thành phố Hồ Chí Minh 1.560km về hướng Bắc. Đây là một tỉnh
lớn của Việt Nam, đứng thứ 5 về diện tích và thứ 3 về dân số trong số
các đơn vị hành chính trực thuộc trung ương, cũng là một trong những
địa điểm sinh sống đầu tiên của người Việt.
Cách đây khoảng 6000 năm đã có người sinh sống tại Thanh Hóa. Các
di chỉ khảo cổ cho thấy nền văn hóa xuất hiện đầu tiên tại đây là văn hóa
Đa Bút. Sang đầu thời đại kim khí, thuộc thời đại đồ đồng, qua các bước
phát triển với các giai đoạn trước văn hóa Đông Sơn, Thanh Hóa đã trải
qua một tiến trình phát triển với các giai đoạn văn hoá: Cồn Chân Tiên,
Đông Khối - Quỳ Chữ tương đương với các văn hóa Phùng Nguyên -
Đồng Đậu - Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Và sau đó là nền văn minh
Văn Lang cách đây hơn 2.000 năm, văn hoá Đông Sơn ở Thanh Hóa đã
toả sáng rực rỡ trong đất nước của các vua Hùng.[1]


Thanh Hóa là tỉnh chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Trung Việt Nam
trên nhiều phương diện. Về hành chính, Thanh Hóa là tỉnh cực bắc
Trung Bộ, tiếp giáp với Tây Bắc Bộ và đồng bằng Bắc Bộ. Về địa chất,
miền núi Thanh Hóa là sự nối dài của Tây Bắc Bộ trong khi đồng bằng
Thanh Hóa là đồng bằng lớn nhất Trung Bộ, ngoài ra một phần nhỏ
(phía bắc huyện Nga Sơn) thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng. Về khí
hậu, Thanh Hóa vừa có kiểu khí hậu của miền Bắc lại vừa mang những
hình thái khí hậu của miền Trung. Về ngôn ngữ, phần lớn người dân nói
phương ngữ Thanh Hóa với vốn từ vựng khá giống từ vựng của phương
ngữ Nghệ Tĩnh song âm vực lại khá gần với phương ngữ Bắc Bộ.
Thanh Hóa bao gồm 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 2 thị xã và 24 huyện,
với diện tích 11.133,4 km2 và số dân 3,405 triệu người với 7 dân tộc
Kinh, Mường, Thái, H'mông, Dao, Thổ, Khơ-mú[2], trong đó có khoảng
355,4 nghìn người sống ở thành thị. Năm 2005 Thanh Hóa 2,16 triệu
người trong độ tuổi lao động , chiếm tỷ lệ 58,8% dân số toàn tỉnh, lao
động đã qua đào tạo chiếm 27%, trong đó lao động có trình độ cao đẳng,
đại học trở lên chiếm 5,4%.
Lịch sử

Bài chi tiết: Lịch sử Thanh Hóa
Các di chỉ khảo cổ cho thấy người Việt đã sống ở đây cách nay 6000
năm. Thời kì dựng nước nó là bộ Cửu Chân và bộ Quân Ninh của nước
Văn Lang.
Thời Bắc thuộc

Thời Nhà Hán chính quyền đô hộ Thanh Hóa thuộc quận Cửu Chân.
Sang đến thời Tam Quốc, nhà Đông Ngô trực tiếp cai trị. Sau khi tách
quận Cửu Chân thành hai quận Cửu Chân và Cửu Đức thì thuộc quận
Cửu Chân mới gồm đất Thanh Hóa ngày nay và một phần phía nam
Ninh Bình. Cửu Chân được chia làm 7 huyện: Tư Phố, Di Phong, Cư

Phong, Trạn Ngô, Kiến Sơ, Phù Lạc, Thường Lạc, Tùng Nguyên. Sang
đến thời nhà Lương, Lương Võ đế đổi Cửu Chân làm Ái Châu. Đến thời
Nhà Tùy gọi là Cửu Chân quận.
[sửa] Thời kì tự chủ

Ở thời kì tự chủ thì Thanh Hóa được đổi tên nhiều lần nhưng Thanh Hóa
vẫn là tỉnh có số lần sát nhập và chia tách ít nhất cả nước.
Ở thời Nhà Đinh và Tiền Lê Thanh Hóa gọi là đạo Ái Châu. Ở thời Nhà
Lý thời kỳ đầu gọi là trại Ái Châu, về sau vào năm Thuận Thiên 1 thì gọi
là Phủ Thanh Hóa (Thanh: trong sáng; Hóa: biến hóa).
Năm 1242 vua Trần Thái Tông đổi 24 lộ đời Lý thành 12 lộ, trong đó có
Thanh Hóa phủ lộ. Năm Quang Thái thứ 10 (Trần Thuận Tông - năm
1397) đổi làm trấn Thanh Ðô. Trấn Thanh Ðô lúc này gồm 7 huyện và 3
châu (mỗi châu có 4 huyện). Trong đó, 7 huyện là: Cổ Ðằng, Cổ Hoằng,
Ðông Sơn, Cổ Lôi, Vĩnh Ninh, Yên Ðịnh, Lương Giang. 3 châu bao
gồm: châu Thanh Hóa gồm huyện Nga Lạc, huyện Tế Giang, huyện Yên
Lạc, huyện Lỗi Giang; châu Ái gồm huyện Hà Trung, huyện Thống
Bình, huyện Tống Giang, huyện Chi Nga; châu Cửu Chân gồm huyện
Cổ Chiến, huyện Kết Thuế, huyện Duyên Giác, huyện Nông Cống.
Năm 1397, Trần Thuận Tông đổi làm trấn Thanh Đô, gồm 3 châu và 7
huyện: châu Thanh Hóa (gồm Nga Lạc, Tế Giang, Yên Lạc, Lỗi Giang);
châu Ái (gồm: Hà Trung, Thống Bình, Tống Giang, Chi Nga);châu Cửu
Chân (gồm: Cổ Chiến, Kết Thuế, Duyên Giác, Nông Cống); huyện Cổ
Đằng; huyện Cổ Hoằng; huyện Đông Sơn; huyện Vĩnh Ninh; huyện Yên
Định; huyện Lương Giang; huyện Cổ Lôi.
Năm 1430, Hồ Hán Thương đổi phủ Thanh Hóa thành phủ Thiên
Xương. Sách Ðại Nam nhất thống chí ghi:
Phủ này (tức phủ Thiên Xương) cùng Cửu Chân và ái Châu làm "tam
phủ" gọi là Tây Ðô". Thời thuộc Minh, trấn Thanh Ðô đổi thành phủ
Thanh Hóa (năm 1407 - theo Ðào Duy Anh)' và Thời thuộc Minh lại làm

phủ Thanh Hóa, lãnh 4 châu là Cửu Chân, ái Châu, Thanh Hóa, Quỳ
Châu và 11 huyện. Trong đó, 11 huyện là Yên Ðịnh, Nông Cống, Vĩnh
Ninh, Tống Giang, Cổ Ðằng, Nga Lạc, Lương Giang, Lỗi Giang, Ðông
Sơn, Yên Lạc, Cổ Lôi[4] Sau khi nhà Hồ thất thủ, nhà Minh cai trị Đại
Việt, lại đổi lại làm phủ Thanh Hóa như cũ, đặt thêm hai huyện: Lôi
Dương, Thụy Nguyên. Về địa giới vẫn không đổi.[4]
Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, nhà hậu Lê cầm quyền. Năm
Thuận Thiên thứ nhất (năm 1428), Lê Thái Tổ chia nước làm 5 đạo,
Thanh Hóa thuộc Hải Tây đạo, đến năm Quang Thuận thứ 7 (năm 1466)
đặt tên là Thừa Tuyên Thanh Hóa, năm Quang Thuận thứ 10 (năm 1469)
lại đổi thành Thừa Tuyên Thanh Hoa, tên Thanh Hoa có từ đây. Thanh
Hoa Thừa Tuyên theo "Thiên Nam dư hạ tập" lãnh 4 phủ, 16 huyện và 4
châu.

Thời Nhà Lê, Thanh Hóa là thừa tuyên Thanh Hóa (Thanh Hoa), gồm
phần đất tỉnh Thanh Hóa ngày nay và tỉnh Ninh Bình (thời kỳ đó là phủ
Trường Yên, trực thuộc) và tỉnh Hủa Phăn (Sầm Nưa) của Lào (thời kỳ
đó gọi là châu Sầm). Xứ Thanh Hoa thời nhà Lê với 6 phủ:
 Phủ Thiệu Thiên (Thiệu Hóa), nằm ở phía tây tây bắc xứ Thanh, có
8 huyện: Thụy Nguyên, Vĩnh Phúc (Vĩnh Lộc), Đông Sơn, Lôi
Dương, Yên Định, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Quảng Bình.
 Phủ Hà Trung phủ có 4 huyện: Hoằng Hóa, Thuần Lộc (Hậu Lộc),
Nga Sơn, Tống Sơn.
 Phủ Tĩnh Gia có 3 huyện: Nông Cống, Ngọc Sơn, Quảng Xương.
 Phủ Thanh Đô có 4 châu và 1 huyện là huyện Thọ Xuân và các
châu: Khai Na (Quan Da), Tàm (châu), Lương Chính (Lang
Chánh), Sầm (châu) (nay thuộc Lào).
 Phủ Trường Yên, nay là một phần tỉnh Ninh Bình, có 3 huyện: Gia
Viễn, Yên Mô, Yên Khang (Yên Khánh).
 Phủ Thiên Quan (Nho Quan), ở phía Tây Bắc xứ Thanh, giáp với

trấn Sơn Tây và trấn Sơn Nam, nay thuộc các tỉnh Ninh Bình và
Hòa Bình, có 3 huyện: Phụng Hóa, Yên Hóa, Lạc Thổ (Lạc
Sơn).[5]
Sau khi nhà Nguyễn lên nắm quyền, Thanh Hóa thuộc quyền cai trị của
nhà Nguyễn. Năm Gia Long thứ nhất (1802), gọi là trấn Thanh Hóa.
Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), đổi trấn thành tỉnh, bắt đầu gọi là tỉnh
Thanh Hoa (Hoa: tinh hoa). Đến năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), lại đổi
thành tỉnh Thanh Hóa.[6]
Tên gọi Thanh Hóa không đổi từ đó cho tới ngày nay.
Địa lý

Bài chi tiết: Địa lý Thanh Hóa
[sửa] Vị trí địa lý

Theo thiên văn cổ xưa đo đạc năm 1831 (năm Minh Mệnh thứ 10) thì
tỉnh Thanh Hóa thuộc về sao Dực, sao Chẩn, tinh thứ sao Thuần Vĩ, múc
cao nhất là 19 độ 26 phân, lệch về phía tây 1 độ 40 phân.
Ngày nay, theo số liệu đo đạc hiện đại của cục bản đồ thì Thanh Hóa
nằm ở vĩ tuyến 19°18' Bắc đến 20°40' Bắc, kinh tuyến 104°22' Đông đến
106°05' Đông. Phía bắc giáp ba tỉnh: Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình;
phía nam và tây nam giáp tỉnh Nghệ An; phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn
nước Lào với đường biên giới 192 km; phía đông Thanh Hóa mở ra
phần giữa của vịnh Bắc Bộ thuộc biển Đông với bờ biển dài hơn 102
km. Diện tích tự nhiên của Thanh Hóa là 11.106 km², chia làm 3 vùng:
đồng bằng ven biển, trung du, miền núi. Thanh Hóa có thềm lục địa rộng
18.000 km².
[sửa] Địa hình, địa mạo


Bãi biển Sầm Sơn (thuộc thị xã Sầm Sơn, cách TP. Thanh Hóa khoảng

16 km) là một trong số ít những bãi biển đẹp nhất Việt Nam, thu hút rất
đông du khách tới tắm, tham quan và nghỉ mát vào dịp hè.


Địa hình Thanh Hóa nghiêng từ tây bắc xuống đông nam. Ở phía tây
bắc, những đồi núi cao trên 1.000 m đến 1.500 m thoải dần, kéo dài và
mở rộng về phía đông nam. Đồi núi chiếm 3/4 diện tích của cả tỉnh, tạo
tiềm năng lớn về kinh tế lâm nghiệp, dồi dào lâm sản, tài nguyên phong
phú. Dựa vào địa hình có thể chia Thanh Hóa ra làm các vùng miền.
Miền núi, trung du: Miền núi và đồi trung du chiếm phần lớn diện tích
của Thanh Hóa. Riêng miền đồi trung du chiếm một diện tích hẹp và bị
xé lẻ, không liên tục, không rõ nét như ở Bắc Bộ. Do đó nhiều nhà
nghiên cứu đã không tách miền đồi trung du của Thanh Hóa thành một
bộ phận địa hình riêng biệt mà coi các đồi núi thấp là một phần không
tách rời của miền núi nói chung.
Miền đồi núi chiếm 2/3 diện tích Thanh Hóa, nó được chia làm 3 bộ
phận khác nhau bao gồm 11 huyện: Như Xuân, Như Thanh, Thường
Xuân, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, Ngọc
Lạc, Cẩm Thủy và Thạch Thành. Vùng đồi núi phía tây có khí hậu mát,
lượng mưa lớn nên có nguồn lâm sản dồi dào, lại có tiềm năng thủy điện
lớn, trong đó sông Chu và các phụ lưu có nhiều điều kiện thuận lợi để
xây dựng các nhà máy thủy điện. Miền đồi núi phía Nam đồi núi thấp,
đất màu mỡ thuận lợi trong việc phát triển cây công nghiệp, lâm nghiệp,
cây đặc sản và có Vườn quốc gia Bến En (thuộc địa bàn huyện Như
Thanh và huyện Như Xuân), có rừng phát triển tốt, với nhiều gỗ quý, thú
quý.
Vùng đồng bằng của Thanh Hóa lớn nhất của miền Trung và thứ ba của
cả nước. Đồng bằng Thanh Hóa có đầy đủ tính chất của một đồng bằng
châu thổ, do phù sa các hệ thống sông Mã, sông Yên, sông Hoạt bồi đắp.
Điểm đồng bằng thấp nhất so với mực nước biển là 1 m.

Vùng ven biển: Các huyện từ Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Sầm Sơn,
Quảng Xương đến Tĩnh Gia, chạy dọc theo bờ biển gồm vùng sình lầy ở
Nga Sơn và các cửa sông Hoạt, sông Mã, sông Yên và sông Bạng. Bờ
biển dài, tương đối bằng phẳng, có bãi tắm nổi tiếng Sầm Sơn, có những
vùng đất đai rộng lớn thuận lợi cho việc lấn biển, nuôi trồng thủy sản,
phân bố các khu dịch vụ, khu công nghiệp, phát triển kinh tế biển (ở Nga
Sơn, Nam Sầm Sơn, Nghi Sơn).
Khí hậu, thủy văn

Thanh Hóa nằm trong vùng đồng bằng ven biển Bắc Bộ, hàng năm có 3
mùa gió. Gió Bắc do không khí lạnh từ vùng áp cao Siberi qua Trung
Quốc thổi xuống. Gió Tây Nam từ vịnh Bengal qua Thái Lan, Lào thổi
vào, rất nóng, gọi là gió Lào hay gió phơn Tây Nam. Gió Đông Nam
thổi từ biển vào đem theo không khí mát mẻ.
Mùa nóng ở đây bắt đầu từ cuối mùa xuân đến giữa mùa thu, mùa này
nắng, mưa nhiều thường hay có lụt, bão, hạn hán, gặp những ngày có gió
Lào nhiệt độ lên tới 39-40 °C. Mùa lạnh bắt đầu từ giữa mùa thu đến hết
mùa xuân năm sau. Mùa này thường hay xuất hiện gió mùa đông bắc, lại
mưa ít; đầu mùa thường hanh khô. Lượng nước trung bình hàng năm
khoảng 1730-1980 mm, mưa nhiều tập trung vào thời kỳ từ tháng 5 đến
tháng 10 âm lịch, còn từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau lượng mưa chỉ
dưới 15%.
Tổng tích ôn trung bình hàng năm khoảng 86000C, nhiệt độ trung bình
từ 23,3 °C đến 23,6 °C, mùa hè nhiệt độ có ngày cao tuyệt đối đến 40
°C, nhưng mùa đông có ngày nhiệt độ xuống thấp tới 5-6 °C. Độ ẩm
không khí tương đối cao trung bình hàng năm từ 80-85%.
Hàng năm Thanh Hóa có khoảng 1700 giờ nắng, tháng nắng nhất là
tháng 7, tháng có ít nắng là tháng 2 và tháng 3. Thành phố Thanh Hóa
chỉ cách bờ biển Sầm Sơn 10 km đường chim bay, vì thế nó nằm vào
tiểu vùng khí hậu đồng bằng ven biển, chính nhờ có gió biển mà những

ngày có gió Lào, thời gian không khí bị hun nóng chỉ xảy ra từ 10 giờ
sáng đến muộn nhất là 12 giờ đêm.
Thanh Hóa cũng như các tỉnh miền Trung Việt Nam thường hay chịu
các trận bão từ Thái Bình Dương. Theo chu kỳ từ 3-5 năm lại xuất hiện
một lần từ cấp 9 đến cấp 10, cá biệt có năm cấp 11 đến cấp 12.
Hành chính

Thanh Hóa có 27 đơn vị hành chính trực thuộc, chỉ đứng sau thành phố
Hà Nội. Thanh Hóa có 639 đơn vị hành chính cấp xã bao gồm 22
phường, 30 thị trấn và 587 xã.
Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Thanh Hóa.TênDiện
tích (2008), km² [7]Dân số (2009)[8]Thành phốThanh
Hóa57,94210.844Thị xãBỉm Sơn67,0154.148Sầm
Sơn17,8954.109HuyệnBá Thước775,2296.412Cẩm
Thủy425,83100.425Đông Sơn106,41102.765Hà
Trung244,50107.798Hậu Lộc143,67165.470Hoằng
Hóa224,73246.309Lang Chánh586,5945.417Mường
Lát814,6133.614Nga Sơn158,29135.805TênDiện tích (2008), km²
[7]Dân số (2009)[8]Ngọc Lặc495,53129.119Như
Thanh588,2985.152Như Xuân719,9564.303Nông
Cống286,53183.074Quan Hóa990,1443.855Quan
Sơn930,1735.428Quảng Xương227,80256.351Thạch
Thành559,20136.264Thiệu Hóa175,67176.994Thọ
Xuân300,10213.066Thường Xuân1.112,2383.241Tĩnh
Gia458,29214.420Triệu Sơn292,31195.286Vĩnh Lộc158,0380.227Yên
Định216,48155.112Bản đồ

Mường Lát
Quan Sơn
Bá Thước

Lang Chánh
Cẩm Thủy
Thạch Thành
Ngọc Lặc
Thường Xuân
Thọ Xuân
Yên Định
Vĩnh Lộc
Hà Trung
Nga Sơn
Hậu Lộc
Hoằng Hóa
Thiệu Hóa
Đông Sơn
Thanh Hóa
Quảng Xương
Tĩnh Gia
Nông Cống
Như Thanh
Như Xuân
Triệu Sơn

Bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hóa


Dân cư

Bài chi tiết: Dân cư Thanh Hóa
Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, Thanh Hóa có 3.400.239 người,
đứng thứ ba Việt Nam, chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.[9]

Trong tổng dân số năm 2009, nữ giới có 1.717.067 người, dân số thành
thị là 354.880 người. Mật độ dân số vào loại trung bình: giảm từ 310
người/km² (năm 1999) xuống 305 người/km² (năm 2009). Tỉ số giới tính
(số nam trên 100 nữ) tăng từ 95,6 % (năm 1999) lên 98,0 % (năm 2009),
tương đương với mức chung của cả nước.[9]
Thanh Hóa là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, nhưng chủ yếu có 7 dân
tộc là Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú. Người Kinh
chiếm phần lớn dân số của tỉnh và có địa bàn phân bố rộng khắp, các
dân tộc khác có dân số và địa bạn sống thu hẹp hơn.

Dân số các dân tộc chủ yếu
tỉnh Thanh HóaKinhMườngThổKhơ MúTháiMôngDaoDân số
(người)2.898.311328.7448.980607210.90815.3255.0 77Địa bàn cư
trúKhắp tỉnhCác huyện: Ngọc Lặc,Cẩm Thủy,
Thạch Thành, Bá ThướcHuyện Như XuânBản Đoàn Kết, xã Tén Tằn và
bản Suối Lách, xã Mường Chanh, Mường LátQuan Hóa,Quan Sơn,
Bá Thước,Lang ChánhXã Pù Nhi, huyện Mường LátCác huyện: Ngọc
Lặc, Cẩm ThủyNguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam[10]

Văn hóa

Văn hóa, văn nghệ dân gian

Tại Thanh Hóa có nhiều hình thức văn hóa truyền thống, phần nhiều vẫn
còn tồn tại và đang được phát huy. Về dân ca, dân vũ, được nhiều người
biết đến nhất là các làn điệu hò sông Mã, dân ca, dân vũ Đông Anh, trò
diễn Xuân Phả. Ngoài ra còn có ca trù, hát xoan Các dân tộc ít người
cũng có nhiều loại hình văn nghệ dân gian khá đa dạng như hát xường
của người Mường, khắp của người Thái
Kho tàng truyện cổ cũng khá đặc sắc như truyện cổ về sự tích về các

ngọn núi, truyện dân gian của ngư dân ven biển Hậu Lộc, Sầm Sơn,
Tĩnh Gia. Đặc biệt là các sự tích về nguồn gốc dân tộc Mường.
Các lễ hội cũng rất đặc sắc như lễ hội Pôồn Pôông của người Mường, lễ
hội cầu ngư, lễ hội đền Sòng
Văn nghệ đương đại

Văn nghệ thời kì sau cách mạng tháng Tám ở Thanh Hóa có các nhà thơ
Hồng Nguyên, Hữu Loan, Nguyễn Bao, Nguyễn Duy, nhà văn Triệu
Bôn Trong thời kì chiến tranh chống Mỹ những năm 1960-1975, địa
danh Hàm Rồng là đề tài của nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật.
Một số tác phẩm thơ viết về quê hương Thanh Hóa như: Về lại xứ Thanh
(Phan Quế), Về với Sầm Sơn (Hà Hồng Kỳ), Quê Mẹ (Lưu Đình Long),
Quê tôi đấy - Xứ Thanh! (Văn Công Hùng), Dô tả, dô tà (Mạnh Lê), Mẹ
Tơm (Tố Hữu), Trụ cầu Hàm Rồng (Mã Giang Lân).
Kinh tế

Tài nguyên thiên nhiên

Là tỉnh có nguồn tài nguyên đa dạng nhưng nhìn chung nguồn tài
nguyên có trữ lượng không lớn, và thường phân bố không tập trung nên
rất khó cho việc phát triển công nghiệp khai khoáng. Thanh Hóa hiện tại
mới chỉ có một số nhà máy đang tiến hành khai thác nguồn tài nguyên,
như: nhà máy xi măng Bỉm sơn, xi măng Nghi sơn, phân bón Hàm
rồng, Đa số nguồn tài nguyên đang bị thất thoát do kiểm soát không
chặt chẽ.
Công nghiệp


Cũng như Việt Nam, nền công nghiệp Thanh Hóa không phát triển.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2009, chỉ số

phát triển công nghiệp của toàn tỉnh tăng 8,2 %, đây là mức tăng cao so
với mức tăng bình quân của cả nước là 4,6% (trong đó TP Hồ Chí Minh
và Hà Nội chỉ tăng ở mức thấp là 0,4% và 2,7%).[11] Tính đến thời
điểm năm 2009, Thanh Hóa có 5 khu công nghiệp tập trung và phân tán.
Một số khu công nghiệp:
 Khu công nghiệp Bỉm Sơn - Thị xã Bỉm Sơn
 Khu công nghiệp Nghi Sơn (nằm trong Khu kinh tế Nghi Sơn) -
Huyện Tĩnh Gia
 Khu công nghiệp Lễ Môn - Thành phố Thanh Hóa
 Khu công nghiệp Đình Hương (Tây Bắc Ga) - Thành phố Thanh
Hóa
 Khu công nghiệp Lam Sơn - Huyện Thọ Xuân
Hiện tại Thanh Hóa đang xây dựng khu kinh tế Nghi Sơn. Khu kinh tế
này được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập và ban hành quy
chế hoạt động số 102/2006/QĐ-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2006. Khu
kinh tế này nằm ở phía Nam của tỉnh Thanh Hóa, cách Hà Nội 200 km,
có đường bộ và đường sắt quốc gia chạy qua, có cảng biển nước sâu cho
tầu có tải trọng đến 30.000 DWT cập bến. Khu kinh tế Nghi Sơn là một
trung tâm động lực của vùng Nam Thanh Bắc Nghệ đang được quy
hoạch, cũng được đánh giá là trọng điểm phát triển phía Nam của vùng
kinh tế trọng điểm Bắc bộ, đồng thời là cầu nối giữa vùng Bắc Bộ với
Trung Bộ, với thị trường Nam Lào và Đông Bắc Thái Lan.
Nông nghiệp


Thống kê đến năm 2004, toàn tỉnh có 239.843 ha đất nông nghiệp đang
được sử dụng khai thác.
 Năm 2002, tổng sản lượng lương thực cả tỉnh đạt 1,408 triệu tấn
 Năm 2003, tổng sản lượng nông nghiệp cả tỉnh đạt 1,5 triệu tấn:
nguyên liệu mía đường 30.000 ha; cà phê 4.000 ha; cao su 7.400

ha; lạc 16.000 ha; dứa 1.500 ha; sắn 7.000 ha; cói 5.000 ha
Lâm nghiệp

Thanh Hóa là một trong những tỉnh có tài nguyên rừng lớn với diện tích
đất có rừng 436.360 ha, trữ lượng khoảng 15,84 triệu m³ gỗ, hàng năm
có thể khai thác 35.000-40.000 m³ (thời điểm số liệu hiện tại năm 2007).
Rừng Thanh Hóa chủ yếu là rừng cây lá rộng, có hệ thực vật phong phú,
đa dạng về họ, loài. Gỗ quí hiếm có lát, pơ mu, sa mu, lim xanh, táu,
sến, vàng tâm, giổi, de, chò chỉ. Các loại thuộc họ tre nứa gồm có:
luồng, nứa, vầu, giang, tre, ngoài ra còn có: mây, song, dược liệu, quế,
cánh kiến đỏ các loại rừng trồng có luồng, thông nhựa, mỡ, bạch đàn,
phi lao, quế, cao su. Nhìn chung vùng rừng giàu và trung bình chủ yếu là
rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, phân bố trên các dãy núi cao ở biên giới
Việt - Lào. Thanh Hóa là tỉnh có diện tích luồng lớn nhất trong cả nước
với diện tích trên 50.000 ha.
Rừng Thanh Hóa cũng là nơi quần tụ và sinh sống của nhiều loài động
vật như: voi, hươu, nai, hoẵng, vượn, khỉ, lợn rừng, các loài bò sát và
các loài chim Đặc biệt ở phía nam của tỉnh có vườn quốc gia Bến En,
phía bắc có vườn quốc gia Cúc Phương, phía tây bắc có khu bảo tồn
thiên nhiên Pù Luông và khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, phía tây nam có
khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên là những nơi tồn trữ và bảo vệ các
nguồn gien, động vật, thực vật quý, đồng thời là những điểm du lịch hấp
dẫn.
Ngư nghiệp


Ngư nghiệp Thanh Hóa có nhiều điều kiện phát triển


Thanh Hóa có 102 km bờ biển và vùng lãnh hải rộng 17.000 km2, với

những bãi cá, bãi tôm có trữ lượng lớn. Dọc bờ biển có 5 cửa lạch lớn,
thuận lợi cho tàu thuyền ra vào. Vì vậy Thanh Hóa có điều kiện phát
triển ngư nghiệp rất tốt.
Dịch vụ

Ngân hàng

Bên cạnh Ngân hàng Nhà nước, hệ thống ngân hàng thương mại trên địa
bàn tỉnh gồm Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư Phát triển,
Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT, Ngân hàng Chính sách. Hiện nay,
các ngân hàng đang thực hiện đổi mới và đa dạng hóa các hình thức huy
động vốn, áp dụng các công nghệ tiên tiến trong việc chuyển phát nhanh,
thanh toán liên ngân hàng, thanh toán quốc tế bảo đảm an toàn và hiệu
quả. Tổng nguồn vốn huy động tín dụng hàng năm đạt trên 3.000 tỷ
đồng, tổng dư nợ năm 2002 đạt trên 4.000 tỷ đồng, tăng 20% so với năm
2001.
Bảo hiểm

Là tỉnh có dân số đông thứ ba cả nước, Thanh Hóa được xác định là thị
trường tiềm năng ở tất cả các loại hình bảo hiểm nhân thọ và phi nhân
thọ. Hiện tại trên địa bàn tỉnh có tám công ty bảo hiểm được cấp phép
hoạt động bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm trên địa bàn đang không
ngừng mở rộng thị trường, tạo sự cạnh tranh lành mạnh nhằm mục đích
nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
Thương mại dịch vụ

Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, thương mại Thanh Hóa đã
có bước phát triển quan trọng. Trên địa bàn đã hình thành hệ thống bán
buôn, bán lẻ với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, tạo điều kiện
lưu thông thuận tiện hàng hóa phục vụ nhu cầu đời sống, sinh hoạt và

sản xuất của nhân dân. Kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm, năm
2000 đạt trên 30 triệu USD, năm 2001 đạt 43 triệu USD và năm 2002
đạt 58 triệu USD. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, bên
cạnh thị trường Nhật Bản, Đông Nam Á, một số doanh nghiệp đã xuất
khẩu sang Mỹ, Châu Âu. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh là:
nông sản (lạc, vừng, dưa chuột, hạt kê, ớt, hạt tiêu, cà phê ), hải sản
(tôm, cua, mực khô, rau câu), hàng da giày, may mặc, hàng thủ công mỹ
nghệ (các sản phẩm mây tre, sơn mài, chiếu cói ), đá ốp lát, quặng
crôm
Giao thông

Thanh Hóa là một trong những tỉnh có cả 3 hệ thống giao thông cơ bản
là đường sắt, đường bộ và đường thủy. Trên toàn tỉnh có 8 ga tàu hỏa là
Bỉm Sơn, Đò Lèn, Nghĩa Trang, Hàm Rồng, Thanh Hóa, Yên Thái,
Minh Khôi, Thị Long trong đó có một ga chính trong tuyến đường sắt
Bắc Nam, 4 tuyến đường bộ huyết mạch của Việt Nam (quốc lộ 1A,
quốc lộ 45, quốc lộ 47, và đường Hồ Chí Minh), trong đó quốc lộ 47 dài
61 km, quốc lộ 1A chạy qua Thanh Hóa dài 123 km [cần dẫn nguồn];
một cảng nước sâu. Thanh Hóa có sân bay quân sự Sao Vàng. Các dự án
đường sắt cao tốc Bắc Nam, đường cao tốc Bắc Nam đều đi qua Thanh
Hóa.
] Du lịch

Bài chi tiết: Du lịch Thanh Hóa
Thanh Hóa là tỉnh có tiềm năng về du lịch. Năm 2007 du lịch Thanh
Hóa năm đón tiếp gần 1,7 triệu lượt khách, chủ yếu là khách trong nước
đến tham quan nghỉ mát tại đô thị du lịch biển Sầm Sơn.
Hiện tại, tỉnh Thanh Hóa xác định đưa du lịch thành ngành kinh tế quan
trọng. Tỉnh đã thực hiện quy hoạch hạ tầng, nâng cao năng lực cạnh
tranh du lịch. Năm 2007, Thanh Hóa phối hợp với Hà Nội, Ninh Bình,

Nghệ An, Huế trong chương trình "Hành trình một nghìn năm các kinh
đô Việt Nam". Phối hợp cùng Nghệ An và Ninh Bình lập định hướng
quy hoạch vùng du lịch trọng điểm Bắc Trung Bộ.
Các khu du lịch, di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng của tỉnh:

Suối cá tại chân núi Trường Sinh thuộc bản Ngọc, xã Cẩm Lương,
huyện Cẩm Thủy (cách trung tâm TP Thanh Hóa hơn 70 km về phía Tây
Bắc) là một điểm du lịch nổi tiếng thu hút khách du lịch và các nhà
nghiên cứu.
 Các khu du lịch biển: Bãi biển Sầm Sơn, Bãi biển Hải Hòa.
 Các khu bảo tồn thiên nhiên:
 Vườn quốc gia Bến En: Thuộc huyện Như Thanh cách thành phố
Thanh Hóa 36 km về phía Tây Nam, rộng 16,634 ha với những cây
lim ngàn tuổi, lát hoa, chò chỉ, ngù hương, săng lẻ và nhiều loài
thú như voi, gấu, hổ, khỉ
 Vườn quốc gia Cúc Phương: một phần thuộc huyện Thạch Thành.
 Các khu bảo tồn: Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, Khu bảo tồn
thiên nhiên Pù Luông, Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, Khu
bảo tồn thiên nhiên rừng sến Tam Quy.
 Suối cá thần Cẩm Lương: Thuộc làng Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện
Cẩm Thủy, cách thành phố Thanh Hóa hơn 70km về phía Tây, là
suối cá tự nhiên và ngày nay trở thành điểm du lịch lý thú của tỉnh
Thanh Hoá. Ở đây có tới hàng ngàn con cá lớn nhỏ bám dày đặc
suốt chiều dài hơn 100 m của con suối. Mỗi con cá nặng trung bình
từ 2 đến 8 kg, có cá chúa nặng tới 30 kg. Cá ở đây rất dạn người và
thân thiện với khách du lịch. Mặc dù rất nhiều cá nhưng điều kỳ lạ
là nước suối rất trong và mát, thậm chí khách có thể dùng để rửa
mặt. Người dân ở đây tôn thờ những chú cá như các vị thần (là
nguồn gốc của tên gọi "Suối cá thần"), mặc dù rất nhiều cá nhưng
không ai dám bắt ăn, người ta truyền miệng nhau rằng nếu ăn thịt

các ông "cá thân" thì sẽ gặp phải những điều rủi ro, bất hạnh.
 Cụm di tích Nga Sơn: Động Từ Thức, Cửa biển Thần Phù, Chiến
khu Ba Đình, đền thờ Mai An Tiêm
 Cụm di tích thành nhà Hồ, gồm thành Tây Đô (thuộc địa phận 2
xã: Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, cách thành phố
Thanh Hóa khoảng 50 km) và các di tích kề cận như đàn Nam
Giao, động Tiên Sơn (thuộc xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Lộc)
 Khu di tích lịch sử Lam Kinh: Thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ
Xuân, cách thành phố Thanh Hóa 50 km về phía Tây. Hiện còn lưu
giữ các điêu khắc đá như bia Vĩnh Lăng (Lê Lợi), bia hoàng hậu
Ngô Thị Ngọc Dao, các di tích cung điện thành nội, thành ngoại,
sân Rồng
 Thái miếu nhà Hậu Lê: thuộc phường Đông Vệ, thành phố Thanh
Hóa, có 27 thần vị và có nhiều hiện vật có từ thế kỷ 17, 18.
 Đền Bà Triệu, huyện Hậu Lộc.
 Đền thờ Lê Hoàn, huyện Thọ Xuân.
 Khu di tích lịch sử Phủ Trịnh và chùa Báo Ân, đã được xếp hạng
cấp quốc gia.
 Khu lăng miếu Triệu Tường, huyện Hà Trung, nơi phát tích triều
Nguyễn.
 Phủ Na (huyện Triệu Sơn), đền Sòng (Bỉm Sơn).
 Khu di chỉ, khảo cổ văn hóa Đông Sơn.
 Khu di tích Hàm Rồng: gồm cầu Hàm Rồng (một biểu tượng thời
Chiến tranh Việt Nam), đồi Quyết Thắng.
 Tòa Giám mục công giáo Thanh Hóa, chùa Thanh Hà, chùa Chanh
và chùa Mật Đa (thành phố Thanh Hóa).
 Thác Muốn, Điền Quang , Điền Lư, Bá Thước
 Suối cá Văn Nho,Bá Thước
Ẩm thực - Đặc sản


Đến Thanh Hóa du khách sẽ được thưởng thức những món đặc sản độc
đáo nổi tiếng cả nước của xứ Thanh như: nem chua Thanh Hóa, chè lam
Phủ Quảng, dê núi đá, gà đồi (của huyện Vĩnh Lộc), bánh gai Tứ Trụ
(của huyện Thọ Xuân), các món chế biến từ hến làng Giàng (huyện
Thiệu Hóa), bánh đa cầu Bố (thành phố Thanh Hóa), mía đen Kim Tân
(huyện Thạch Thành), hay các món hải sản: cua biển, ghẹ, sò huyết,
tôm, mực, cá thu, cá tràu từ các huyện ven biển Sầm Sơn, Tĩnh Gia, Nga
Sơn.[12]
Món đặc sản của Thanh Hóa được du khách thập phương biết đến nhiều
nhất có lẽ là nem chua. Nem chua Thanh Hóa được làm từ thịt nạc, bì
thái chỉ, hạt tiêu, ớt, tỏi và lá đinh lăng, gói bên ngoài bởi rất nhiều lớp
lá chuối. Thịt nạc được chọn là loại thật nạc, ngon, tươi, không dính mỡ,
không dính gân, trộn đều với bì luộc thái chỉ, gia vị. Không thể thiếu
một chút ớt cho thêm đậm đà, tiêu để dậy mùi, một chút tỏi để khử trùng
và một vài lá đinh lăng. Nem chua Thanh Hóa có hương vị rất khác lạ so
với nem chua Hà Nội hay nem lụi ở Huế, lại càng khác xa với nem rán
hay nem tai. Nó có vị chua, cay, ngọt, mặn và dậy mùi thơm khiến du
khách đã ăn một lần khó có thể quên. [13]
Giáo dục

×