Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Sự đổi mới của truyện có yếu tố kỳ ảo sau 1986 qua hệ thống ngôn từ ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.43 KB, 6 trang )

Sự đổi mới của truyện có
yếu tố kỳ ảo sau 1986 qua hệ
thống ngôn từ





Căn cốt của vấn đề là chúng ta chưa có được một cách nhìn thế tục vừa lém lỉnh
vừa nghiêm túc, vừa khắt khe vừa độ lượng. Trong khi đó, tiếng cười, chất hài lại là
"một loại quan hệ thẩm mĩ với đời sống, là một kiểu cảm hứng trong sáng tác, nếu được
chăm chú tìm tòi và thể hiện, nó sẽ bộc lộ một loạt những nguyên tắc thi pháp đặc trưng,
tạo nên cả một mạch thể tài văn học đặc sắc, đem lại rất nhiều hứng thú cho người
đọc"
(6)
. Sự xuất hiện của tiếng cười trong văn xuôi có yếu tố kì ảo hôm nay là biểu hiện
sống động cho tinh thần ấy.
Với giọng giễu nhại, văn học hôm nay thể hiện rõ sự thừa tiếp truyện cười truyền
thống. Ở Truyện cười ở làng Tam Tiếu, người viết cũng lấy lại mô típ của những nhân
vật có "số đỏ" một cách ngẫu nhiên như trong truyện dân gian. Vấn đề là từ sự mô
phỏng của Tạ Phong Ba trong tác phẩm này lại có thể trở thành truyện nhại. Nhại khác
mô phỏng ở sự bắt chước có ý thức nhằm một mục tiêu với một giọng điệu khác với
nguyên mẫu. Ở nhân vật này thì rõ ràng là nhại máy móc, nhưng không ngu độn như
kiểu Làm theo lời vợ dặn của truyện cười nguyên thuỷ, mà lại tinh ranh, "khôn lỏi". Tạ
Phong Ba là một diễn viên hề giữa cuộc đời còn quá nhiều trò hề. Mục đích của người
viết là giễu cợt, châm chọc một trong những quái trạng đáng buồn của xã hội hiện đại và
hiệu quả gây cười gắn liền với tính thời sự của truyện.
Sự giễu nhại này không tách rời tính chất nghiêm chỉnh của tinh thần xây dựng và
thái độ thực sự khách quan, cầu thị. Mỉa mai, châm biếm không phải đến từ một "cõi lạ",
không dính dáng đến hiện tại mà luôn gắn chặt với thực trạng muôn mặt của cuộc đời vì
nó là kết quả của một "nguyên nhân ngầm ẩn của cái giống như thật" như nhận xét của


cây bút kì ảo nổi tiếng thế giới, Thomas Mann. Dẫu nói về cái xấu, cái ác nhưng những
tác phẩm ra đời từ cảm hứng trào lộng vẫn hướng con người về phía cái đẹp, khơi gợi
những tình cảm cao đẹp bởi “khi cười cái xấu, người ta đứng cao hơn nó”
(Tsecnưsepxki). Tinh thần này toát lên từ dạng thức giễu nhại đến khó chịu trong một
văn cảnh hài hước mang đậm tính chất nghịch dị (grotesque) của Truyện cười ở làng
Tam Tiếu, Chuyện vui về đền miếu, Chuyện Bụt mọc có thật Qua đó, tác phẩm góp
phần xoá bỏ những khuôn khổ, ràng buộc, những lối mòn công thức để cho văn học "cởi
bỏ bộ mặt thánh thượng", tăng sự tự do trong sáng tạo của người nghệ sĩ đồng thời
khẳng định sự đổi mới theo chiều hướng tích cực và nhân bản của văn xuôi hôm nay. Sự
có mặt của giọng điệu này khiến văn học có thể du nhập vào nó nhiều hình thức ngôn
ngữ: nhại tác giả, tác phẩm, ngôn ngữ đời thường, những lời nói tục, thần chú, giai thoại,
bàn luận về thực tại hạ đẳng, thậm chí nhại cả phong cách của một giai đoạn văn học.
(Chi tiết vị trung tướng cũng viết nhật kí bằng thơ trong Người sông Mê khiến bạn bè
và người thân phải một phen bất ngờ khi phát hiện ra "bí mật" này như là sự giễu cợt
nhẹ nhàng quan niệm "chiến sĩ - thi sĩ" (lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa) khá phổ
biến một thời). Dẫu là sự đời thường hoá ngôn từ nghệ thuật đến mức tối đa, nhưng
tiếng cười trong văn xuôi có yếu tố kì ảo hôm nay không phải là tiếng cười lộ thiên,
mang tính chất bản năng, dung tục mà chứa đầy ý vị tinh tế, đằm sâu của nó.
Tóm lại, giọng trào lộng đã thể hiện rõ chức năng chỉnh lí hình tượng bằng tiếng
cười, là một trong những nỗ lực khám phá tích cực và toàn diện cuộc sống của người
viết. Nó góp phần mang lại sự cởi mở, thoải mái, dân chủ của đời sống văn học đương
đại. Một mặt nó giải thoát cho khả năng phán đoán, mở rộng trí tưởng tượng, mặt khác
lại không ngừng duy trì mối liên hệ tỉnh táo với hiện thực. Đây cũng chính là một trong
những nhân tố quan trọng tạo ra tính hiện đại của văn học giai đoạn này, bởi hài hước là
"phát minh lớn nhất của tinh thần hiện đại"
(7)
. Vì vậy, dẫu văn học sau 1986 vẫn đương
còn vận động nhưng những giá trị của nó trên nhiều phương diện, như phương diện tạo
ra một tiếng cười mới, là một biểu hiện đáng khích lệ và cần được ghi nhận trên hành
trình đi tới của văn học Việt Nam.

4.2. Giọng quan hoài da diết và cảm hứng trước nỗi đau và thân phận con
người
Cùng với độ lùi thời gian và những đổi thay trong cơ chế quản lí văn hoá, xã hội,
khuynh hướng nhận thức lại đã hình thành đậm nét trong văn học thời Đổi mới. Gắn
liền với những đánh giá khách quan về những được mất của con người, của dân tộc
trong và sau chiến tranh, văn xuôi cũng xuất hiện giọng trầm lắng, xót xa mà những âm
hưởng chủ đạo là mô típ nỗi đau, sự cô đơn và những ưu tư của người viết trước những
"bể dâu" của số phận, nhân tình.
So với văn học giai đoạn 1945-1985, văn học hôm nay thường nói nhiều hơn đến
nỗi đau, đến mất mát của từng cá nhân cụ thể. Giọng văn vì thế mà lắng xuống, câu chữ
như gẫy vụn, vỡ oà trước sự thúc ép của rất nhiều xót xa, thương cảm. Dù có nhiều mất
mát, xót đau nhưng phần lớn không có sự sám hối, phủ định; bao trùm lên nhiều sáng tác
có yếu tố kì ảo giai đoạn này vẫn là sự nhân hậu, minh triết của người viết, nhất là đối
với các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh. Sự hi sinh của người lính không phải đã đặt
dấu chấm hết cho những mất mát không gì bù đắp nổi của dân tộc, nỗi đau còn được kéo
dài, được nhân lên ở thế giới bên kia. Nhưng một điều cũng hết sức cảm động là từ cõi
âm, vẻ đẹp của nhân cách, tâm hồn người lính như được bọc trong ánh hào quang huyền
thoại nên lại càng lung linh, bất tử. Cuộc tử sinh dẫu có nhiều nước mắt nhưng đó chỉ là
sự chia tay tạm thời; còn nỗi đam mê, tình yêu cuộc sống tất cả sự vĩ đại mà dung dị
của người lính Việt Nam thì vẫn trường tồn và tiếp tục phát huy sức mạnh (Thần đất,
Cõi âm, Khúc hát biển ban mai, Nỗi buồn chiến tranh, Ăn mày dĩ vãng, Đợi bạn, Bến
trần gian, Cặp bồ với ma, Tàn đen đốm đỏ ).
Giọng quan hoài da diết cũng gắn liền với mô típ con người cô đơn sau chiến
tranh (Ngày xửa ngày xưa, Biển cứu rỗi, Những giấc mơ có thực, Người sót lại của
Rừng Cười). Nhưng giọng điệu này đạt hiệu quả nghệ thuật hơn cả là khi chạm đến
những vấn đề muôn thuở của con người: đó là những khắc khoải, những buồn vui, khổ
đau hay sung sướng (Chợ rằm dưới gốc dâu cổ thụ, Biển cứu rỗi, Thần đất, Ngày xưa,
cô Tấm Sự tích những ngày đẹp trời), những xáo trộn tình cảm trên hành trình mưu
cầu hạnh phúc và lẽ sống (Chảy đi sông ơi, Con gái thuỷ thần), là cảm giác tái tê, đắng
nghẹn của nhà văn khi đối diện những bi kịch nhân sinh mà nguyên nhân chính là hủ

tục, định kiến cứng nhắc, lỗi thời (Truyền thuyết viết lại, Châu Long, Tiếng thở dài qua
rừng kim tước), là sự u hoài man mác cảm giác tiếc nuối cho sự mai một những giá trị
truyền thống trước những đổi thay của cuộc sống hiện đại (Kiếp bèo, Độc huyền, Con
chuột lông vàng), là những đổ vỡ, bất hạnh của con người trong vòng quay số phận
Đây là một nguyên nhân khiến cho nhiều truyện không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi và
day dứt trong giọng điệu trần thuật (Cơ hội của Chúa, Người đi vắng,Trí nhớ suy tàn,
Những đứa trẻ chết già). Những cuốn tiểu thuyết này cho người đọc chứng kiến sự đổ
vỡ của những giá trị truyền thống, trong khi những giá trị mới chưa thể đem đến cho con
người sự thanh thản. Xét theo một nghĩa nào đấy, các nhân vật ở đây đều thua cuộc mà
nguyên nhân của nó có thể là do sự dồn đuổi của "thổ ngơi cùng khốn", nhưng điều cơ
bản vẫn là xuất phát từ chính cách sống giữa một thế giới với đầy những toan tính tối
tăm, phân li, vô cảm. Điều này được người viết khái quát thành một vấn đề có tính chất
tượng trưng, cảnh báo, là “thử thách cuối cùng của Chúa”.
Thậm chí trong cổ tích cũng không còn là thế giới lí tưởng, ở đó mọi thứ đều nhất
thành bất biến theo quy luật nhân quả thuần phác của dân gian mà cũng chứa đựng
không ít đổ vỡ, bất hạnh của con người ở hiền chẳng gặp lành (Châu Long, Những ngọn
gió Hua Tát).
Đội ngũ những người sáng tác trưởng thành sau 1986 phần lớn thuộc thế hệ nhà
văn "không mảy may bị vướng mắc cách nhìn sử thi". Câu văn trong truyện của họ
thường man mác cảm giác tê tái song hành với nỗi đau nhân tình âm thầm, lặng lẽ nhưng
sâu sắc. Nói như Hoàng Ngọc Hiến, "đau thương là quyền lớn nhất của nhà văn để viết
về những sự việc tiêu cực". Cho nên, sẽ không là võ đoán khi cho rằng, cùng với giọng
giễu nhại, sự lên ngôi của kiểu giọng điệu này cũng là yếu tố cơ bản tạo nên chất văn
xuôi và tính dân chủ, hiện đại của văn học những năm gần đây.
Đối với người cầm bút hiện đại, cái huyền ảo, kì bí chỉ là nơi gởi gắm những điều
mà nhà văn muốn nói xuất phát từ sự thúc ép của cuộc sống. Đằng sau những chi tiết
hoang đường, kì lạ bao giờ cũng lấp lánh trái tim nhà văn với nhiều sắc độ: Khi mỉa mai,
dằn hắt, lúc trầm lắng, xót xa. Sự phối kết nhiều chất giọng cũng thể hiện rõ những cách
tân của ngôn ngữ văn xuôi đương đại so với giai đoạn trước. Sự linh hoạt, phong phú
của giọng điệu trần thuật cũng chính là nhu cầu tự nhiên để người viết tự làm mới mình.

Khách quan mà nói, sự mới lạ, đa dạng của giọng điệu cũng là phương tiện quan trọng
để tác giả thể hiện một cách sinh động cái đa đoan của con người, cái đa sự của cuộc
sống. Việc có mặt của những giọng điệu này, theo Bakhtin, đã góp phần tăng thêm chất
văn xuôi cho tiểu thuyết cũng như truyện ngắn thời gian qua. Đây cũng là dấu hiệu của
sự phát triển, trưởng thành của văn xuôi giai đoạn này. Điều quan trọng hơn là độc giả
đến với truyện có yếu tố kì ảo đương đại không phải chỉ để tìm cái kì, cái quái mà là để
hiểu những nhân cách, những tấm lòng từ đó trang bị cho mình những kiến thức, vốn
sống phù hợp với thực tế.
Khách quan mà nói, chính nhãn quan kì ảo hoá thể hiện qua ngôn ngữ đã góp
phần làm cho "câu chữ có men" (Ma Văn Kháng). Tất cả những hình thức ngôn ngữ đó
giúp cho nhà văn tái hiện một cách chân thực, không giản lược toàn bộ thế giới tâm hồn,
trí tuệ của con người ngày càng phức tạp, thường là mâu thuẫn. Là "yếu tố thứ nhất của
văn học" (M. Gorki), ngôn ngữ văn học một thời kì, nói như Trần Đình Sử, "gắn với đặc
trưng tư duy hình tượng của thời ấy, là "hoá thạch" của đời sống tâm lí, xã hội một thời,
là tấm gương phản chiếu gần xa ý thức thẩm mĩ, luân lí, chính trị thời ấy"
(8)
. Văn học, vì
thế, không chỉ có nhiệm vụ ghi chép sự thay đổi của ngôn ngữ, nó còn là chính sự thay
đổi đó nữa. Sự độc đáo của ngôn ngữ văn xuôi đương đại dưới tác động của yếu tố kì ảo
cũng không ngoài nỗ lực, khát vọng tái hiện một cách sinh động, đầy tính nghệ thuật
thực tiễn xã hội đa sắc hôm nay; vì lẽ, việc sáng tạo ngôn ngữ văn học không bao giờ bắt
đầu từ bản thân ngôn từ mà bắt đầu từ ý đồ phản ánh đời sống của người nghệ sĩ


×