Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tài liệu về Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long - part 3 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.94 KB, 10 trang )

Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long

Nhóm III lớp DH06QM Page 21
xuyên năm 2004 trong khu vực I chiếm 60,13%, KV II chiếm 13,11% và KV III
chiếm 26,76%.
(Theo Thống kê Lao động Việc làm 2004- Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
Đơn vị

Diện tích
(km
2
)
Dân số
nghìn người
Mật độ
dân số
(người/km
2
)

Thủ phủ
Khoảng cách
với TP HCM
(Km)
ĐBSCL
40,263
17,099
425


TP Cần Thơ


1,389
1,127.1
811
TP Cần Thơ
169
Long An
4,993
1,407.1
282
Thị xã Tân An
47
Đồng Tháp
3,238
1,643.7
508
TX Cao Lãnh
143
An Giang
3,406
2,174.7
638
TP Long Xuyên
189
Tiền Giang
2,367
1,684.3
712
TP Mỹ Tho
70
Vĩnh Long

1,475
1,047.2
710
TX Vĩnh Long
135
Bến Tre
2,322
1,345.6
580
TX Bến Tre
85
Kiên Giang
6,269
1,632.8
260
TX Rạch Giá
248
Hậu Giang
1608
776.3
483
TX Vị Thanh
230
Trà Vinh
2,215
1,015.8
459
TX Trà Vinh
200
Sóc Trăng

3,223
1,259.8
391
TX Sóc Trăng
230
Bạc Liêu
2,547
786.4
309
TX Bạc Liêu
280
Cà Mau
5,211
1,198.1
230
TP Cà Mau
247
Bảng3: Đơn vị hành chính đồng bằng sông Cửu Long
Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long

Nhóm III lớp DH06QM Page 22
(Nguồn: Kinh tế Việt Nam đổi mới, Niên giám thống 2001- Tổng cục Thống kê )
Theo số liệu thống kê, đến nay, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có 51 khu và
cụm CN với tổng diện tích gần 13.000ha. 12/51 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động,
thu hút 153 dự án với tổng vốn đăng ký hơn 400 triệu USD và 1.335 tỷ đồng, trong đó
có 44 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và 109 đầu tư trong nước. Tuy phần lớn
là những tỉnh nông nghiệp, nhưng những năm qua, trong tiến trình công nghiệp hóa-
hiện đại hóa, vai trò của các khu công nghiệp đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long ngày càng rõ nét
Trong những năm gần đây kinh tế ĐBSCL có những bước khởi sắc đáng kể, cơ

cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực (giảm dần tỷ trọng khu vực I và tăng ở
khu vực II và III). Đời sống người dân ngày càng được nâng cao. Một số kết quả đạt
được trong năm 2004 như sau:
 Tổng giá trị GDP toàn vùng 1994 đạt 81,518 ngàn tỷ đồng; Thu nhập bình quân
đầu người đạt 424 USD/năm
 Cơ cấu GDP chuyển biến tích cực: khu vực 1 chiếm 48,1%, khu vực II chiếm
21,5% và khu vực III là 30,3%.
 Tăng trưởng kinh tế năm 2004 đạt 11,4%, Bình quân giai đoạn 2001-2004 đạt
trên 10%
 Tổng mức bán lẻ hàng hóa toàn vùng đạt 75,554 ngàn tỷ đồng
 Kim ngạch xuất khẩu toàn vùng đạt 2.479,2 triệu USD
 Sản lượng lúa đạt trên 18,5 triệu tấn, sản lượng sây ăn trái đạt gần 3 triệu tấn.
 Sản lượng thủy sản đạt 1,6 tấn, trong đó sản lượng cá nuôi đạt gần 450 ngàn
tấn, tôm 230 ngàn tấn.




Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long

Nhóm III lớp DH06QM Page 23
CHƯƠNG III: Ô NHIỄM ĐẤT Ở ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
III.1. Những khái niệm có liên quan:
III.1.1. Ô nhiễm đất:
Đất bị ô nhiễm là đất bị thay đổi tính chất, chứa những chất độc hại đối với sự sống
của con người và sinh vật.
Có thể phân loại đất bị ô nhiễm theo các nguồn gốc phát sinh hoặc theo các tác nhân
gây ô nhiễm.
Nếu theo nguồn gốc phát sinh thì có:

 Ô nhiễm đất do các chất thải sinh hoạt
 Ô nhiễm đất do các chất thải công nghiệp
 Ô nhiễm đất do hoạt động nông nghiệp
Nếu theo tác nhân gây ô nhiễm:
 Ô nhiễm đất do tác nhân hóa học: ví dụ như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật,
chất thải sinh hoạt và công nghiệp.
 Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học: vi khuẩn, giun sán, ký sinh trùng…
 Ô nhiễm đất do tác nhân vật lý: các chất phóng xạ
Chất ô nhiễm đi vào đất nhiều nhưng đi ra rất ít, vì sau khi thấm vào trong đất, chất ô
nhiễm sẽ ở lại và lưu tồn trong đất. Yếu tố này phụ thuộc nhiều vào khả năng tự làm
sạch của đất.
III.1.2. Khả năng tự làm sạch của đất:
Là khả năng tự điều tiết của đất trong hoạt động của môi trường đất thông qua một số
cơ chế đặc biệt để giảm thấp ô nhiễm từ ngoài vào, tự làm trong sạch và loại trừ các
chất độc hại cho đất. Mức độ làm sạch phụ thuộc vào các yếu tố như:
Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long

Nhóm III lớp DH06QM Page 24
 Số lượng và chất lượng hạt keo trong đất, càng nhiều hạt keo (keo mùn) thì khả
năng tự làm sạch cao.
 Đất nhiều mùn, nhiều acid humic
 Trạng thái hiện tại của môi trường đất, đất chưa bị ô nhiễm hoặc ô nhiễm ít thì
khả năng tự làm sạch tốt hơn.
 Sự thoát nước và giữ ẩm
 Cấu trúc đất tốt.
 Các chủng loại vi sinh vật phong phú, số lượng nhiều sẽ giúp đất đào thải chất
độc chất ô nhiễm nhanh chóng.
 Khả năng oxy hóa tốt, chưa bị nhiễm mặn, nhiễm phèn
Môi trường đất có khả năng tự làm sạch cao hơn các môi trường khác (môi trường
nước và không khí) do môi trường đất có các hạt keo đất có đặc tính mang điện, tỷ lệ

diện tích hấp phụ lớn, khả năng trao đổi ion và hấp phụ chúng lớn mà các môi trường
khác không có. Nhưng nếu mức độ ô nhiễm vượt quá khả năng tự làm sạch của đất thì
sự nhiễm bẩn trở nên nghiêm trọng. Khi đó, khả năng lây truyền ô nhiễm từ môi
trường đất sang môi trường đất, nước mặt và nước ngầm và khuếch tán vào không khí
rất nhanh.
III.1.3. Đất tốt và đất xấu
Cùng điều kiện ngoại cảnh như nhau, có đất cây phát triển tốt và có năng suất cao; có
vùng đất cây mọc cằn cỗi, năng suất thấp. Chất lượng đất là một chỉ số môi trường,
qua đó chúng ta có thể biết được tình trạng chung về các tính chất cũng như quá trình
trong đất. Một số chỉ tiêu về đất:
 Tính chất hóa học: độ chua, khả năng hấp thụ dinh dưỡng, hàm lượng muối.
 Tính chất vật lý: độ rỗng giữa các hạt đất, hạt kết bền trong đất, khả năng giữ
ẩm.
 Tính chất sinh học: lượng và loại chất hữu cơ, số lượng và loại hình, chức năng
của các vi sinh vật; hoạt tính sinh học trong đất và hoạt động của enzym.
Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long

Nhóm III lớp DH06QM Page 25
 Cây trồng: năng suất, tình hình sinh trưởng của cây, sự phát triển của bộ rễ.
 Nước: chất lượng nước mặt và nước ngầm.

Bảng 4. Đặc tính một số loại đất xấu
(Nguồn: Hội khoa học đất Việt Nam, 2002)
Khảo sát các hộ nông dân nhiều năm canh tác trên một diện tích đất nhất định, họ
đã mô tả về chất lượng đất tốt nếu đất có tầng đất mặt sâu và màu sẫm, đất tơi xốp, dễ
làm đất, đất ẩm và phơi nhanh khô, chứa nhiều mùn (chất hữu cơ), ít bị xói mòn và có
thể có nhiều động vật như giun. Trong đất, giun chiếm tỉ lệ trọng lượng lớn và số
lượng nhiều nhất. Trong quá trình sống giun đào đất và lấy xác bã lá mục, cây mục
làm thức ăn để bài tiết ra lượng mùn tới 50-380 tấn/ha/năm. Quá trình này biến các
chất hữu cơ phức tạp thành mùn, trong chất thải của giun có chứa N, K, P làm giàu

cho đất.
III.2. Ô nhiễm đất ở đồng bằng sông Cửu Long:
III.2.1. Hiện trạng môi trường chung:
Hiện nay môi trường đồng bằng sông Cửu Long đang gặp phải những thực trạng đáng
lo ngại, đó là:
Chế độ ngập lụt ở đồng bằng sông Cửu Long tập trung chủ yếu ở các tỉnh Đồng Tháp,
An Giang, Tiền Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long kéo dài từ tháng 7 đến
tháng 12 hàng năm. Ngập lũ ở ĐBSCL hàng năm đã tác động nhiều mặt đến điều kiện
Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long

Nhóm III lớp DH06QM Page 26
sinh sống của người dân, đến cơ sở hạ tầng, đến phát triển kinh tế, y tế, giáo dục và
đặc biệt là tác động đến sức khỏe của cộng đồng dân cư.
Chế độ ngập mặn ở ĐBSCL chịu sự chi phối của chế độ bán nhật triều trên biển
Đông và chế độ nhật triều biển Tây vịnh Thái Lan, tập trung ở các tỉnh Kiên Giang,
Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang với tổng diện tích
khoảng 1,4-1,5 triệu ha. Những năm gần đây, quá trình chuyển dịch cơ cấu canh tác
nông nghiệp lúa nước truyền thống sang nuôi tôm nước mặn đã làm cho diễn biến
xâm nhập mặn gia tăng nhanh chóng, tạo nên các áp lực mới đối với hệ canh tác
nước ngọt ở khu vực ĐBSCL.
Đặc biệt ĐBSCL còn có vùng đất phèn khá lớn tập trung ở Đồng Tháp Mười, Tứ
giác Long Xuyên, Bán đảo Cà Mau với diện tích khoảng 1,5 triệu ha. Tác động của
các hoạt động canh tác nông-lâm-ngư đã diễn ra quá trình lan truyền phèn có tác
động đến môi trường đất và nước.
Trong cơ cấu kinh tế của ĐBSCL hiện nay, khu vực nông-lâm-ngư chiếm 48%,
khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 22%; khu vực dịch vụ chiếm 30%. Điều đó
cho thấy kinh tế ở đây vẫn chủ yếu là nền kinh tế phụ thuộc sinh thái, trong đó trạng
thái và chất lượng môi trường nước, môi trường đất và các hệ sinh thái có tính chất
quyết định đến các chất lượng và sản lượng các sản phẩm nông- lâm- ngư. Là vùng
sản xuất nông nghiệp lớn nhất toàn quốc, thế nhưng, ĐBSCL lại đang phải đối mặt

với một số vấn đề môi trường cần giải quyết để bảo đảm sự phát triển bền vững
trong khu vực.
Quá trình sử dụng đất trong canh tác nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, công
nghiệp, đô thị hóa làm biến đổi đất, suy thoái đất gây ô nhiễm môi trường. Diện
tích nuôi trồng thủy sản tăng lên rất nhanh. Năm 2000 là 445.300 ha, đến năm 2006
đã là 699.200 ha, với tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng 1.171.001 tấn, chiếm trên
70% sản lượng nuôi trồng và trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả
nước. Diện tích trồng lúa cả năm giảm dần: Năm 2000 là 3.945.800 ha, đến năm
2006 là 3.773.200 ha (trồng lúa mùa, lúa đông xuân và lúa hè thu).
Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long

Nhóm III lớp DH06QM Page 27
Các hệ sinh thái đất ngập nước bị tác động cả về quy mô và chất lượng các hệ
sinh thái trong khu vực. Sự cố cá chết hàng loạt ở An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ,
tôm chết kéo dài ở Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, Sóc Trăng gây thiệt hại kinh tế
lớn đến phát triển kinh tế - xã hội ở đây. Tổng lượng bùn thải và chất thải nuôi trồng
thủy sản ở ĐBSCL khoảng 456 triệu m
3
/năm. Đặc biệt, trong nông nghiệp hàng năm
sử dụng khoảng 2 triệu tấn phân bón hóa học, 500.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật và
các chế phẩm nuôi trồng thủy sản gây tác động nhiều mặt tới môi trường và sức
khỏe con người.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển, rừng tràm ngập úng ở khu vực ĐBSCL đã
bị suy giảm do quá trình khai hoang phát triển canh tác nông nghiệp, phá rừng nuôi
trồng thủy sản. Đến nay, diện tích đất lâm nghiệp trong khu vực chỉ còn khoảng
356.200 ha - trong đó, rừng tự nhiên chỉ chiếm khoảng 15% và còn lại 85% là rừng
trồng tái sinh. Tại vùng biển và ven biển có đến 260 loài cá được ghi nhận và rất
nhiều loại nhuyễn thể, giáp xác sinh sống. Tuy nhiên hệ sinh thái ở đây đã bị suy
giảm nghiêm trọng.
Sau nhiều năm cải tạo đến nay diện tích đất phèn còn khoảng 1,6 triệu ha (41%).

Trong đó, khoảng 886.000 ha đất thuần phèn và 658.000 ha đất phèn mặn. Đất phèn
tiềm tàng có diện tích 613.000 ha, phân bố trên những vùng tiêu nước khá thuận lợi
nên thích hợp với lúa nước. Vì thế, 72% diện tích đất phèn tiềm tàng được sử dụng
cho nông nghiệp, 5% cho rừng và một phần là đất hoang. Đất phèn hoạt động tập
trung chủ yếu ở vùng có khả năng tiêu nước kém. Tuy vậy, cũng có đến 62% diện tích
được sử dụng cho nông nghiệp, 11% cho rừng và phần còn lại là đất hoang. Đất phèn
mặn tập trung ven biển, với 46% diện tích nông nghiệp, 17% rừng, 10% nuôi tôm và
phần còn lại chưa được sử dụng. Đây thực sự là nguồn ô nhiễm chua phèn đáng lưu ý
đối với nước mặt ĐBSCL.
ĐBSCL có khoảng 790.000 ha đất mặn (20%) trong tổng số gần 2 triệu ha tự
nhiên bị ảnh hưởng mặn, phân bố chủ yếu dọc bờ biển Đông và vùng BĐCM. Trong
đó, đất bị mặn dưới 2 tháng khoảng 100.000 ha (đều đã được sử dụng cho nông
nghiệp), đất mặn từ 2- 4 tháng 520.000 ha (88% sử dụng cho nông nghiệp, 9% cho
Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long

Nhóm III lớp DH06QM Page 28
rừng và 3% đất hoang), và đất mặn quanh năm chiếm khoáng 170.000 ha (34% cho
rừng, 25% nuôi tôm và 36% đất hoang). Trước đây khi công trình thuỷ lợi chưa phát
triển diện tích bị ảnh hưởng mặn 1g/l trở lên khoảng 2,1 triệu ha. Nếu tính với độ mặn
0,4g/l (tiêu chuẩn cho phép của nước sinh hoạt) thì phạm vi ảnh hưởng mặn còn rộng
hơn. Đến nay do công trình thuỷ lợi phát triển, nhiều vùng ven biển được ngọt hoá nên
diện tích bị ảnh 1,5 triệu ha. Tuy nhiên ranh giới hưởng mặn giảm đáng kể, chỉ còn
khoảng 1,3 mặn trên sông chính, sông Vàm Cỏ Tây và các kênh nối thông ra biển lại
có xu thế gia tăng.
 Vấn đề sử dụng đất ở ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm phần đất nằm trong phạm vi tác động của các
nhánh sông Cửu Long (thượng và hạ châu thổ) và phần đất nằm ngoài phạm vi tác
động đó (đồng bằng phù sa ở rìa).
Phần thượng châu thổ là một khu vực tương đối cao (2 – 4m so với mực nước
biển), nhưng vẫn bị ngập nước vào mùa mưa. Phần lớn bề mặt có nhiều vùng trũng

rộng lớn. Vào mùa mưa, chúng chìm sâu dưới nước, còn vào mùa khô chỉ là những
vũng nước tù đứt đoạn. Đây là vùng đất rộng, dân còn thưa, chưa được khai thác
nhiều.
Phần hạ châu thổ thấp hơn, thường xuyên chịu tác động của thuỷ triều và sóng
biển. Mực nước trong các cửa sông lên xuống rất nhanh, những lưỡi nước mặn ngấm
dần vào trong đất. Ngoài các giống đất ở hai bên bờ sông và các cồn cát duyên hải,
trên bề mặt đồng bằng cao 1 – 2m còn có các khu vực trũng ngập nước vào mùa mưa
và các bãi bồi trên sông.
 Thực trạng đất trồng lúa:
Năng suất lúa trên đất phèn ở đồng bằng cao, ngang bằng các nước có trình độ
thâm canh nông nghiệp cao (Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản). Sản lượng thóc trong
12 năm tăng từ 9,5 triệu tấn lên 17,5 triệu tấn. Bên cạnh đó, để phù hợp với điều kiện
sinh thái, tăng khả năng thâm canh và cơ cấu cây trồng vật nuôi được đẩy mạnh.
Nhiều diện tích trước đây trồng lúa không đạt hiệu quả được chuyển sang nuôi trồng
Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long

Nhóm III lớp DH06QM Page 29
thủy sản đạt hiệu quả cao hơn với mô hình như: lúa và cá, lúa và tôm nước ngọt, cây
ăn quả…
Ở vùng ngập sâu, không thích hợp với cây lúa, đã được thế chỗ bằng cây tràm, kết
hợp với nuôi trồng thủy sản tự nhiên và dự trữ điều tiết nước. Ở vùng đất ngập nông
thích hợp trồng cây ăn quả, cây công nghiệp có giá trị cao, đem lại hiệu quả kinh tế
cao hơn trồng lúa.
Với diện tích đất trồng lúa mỗi năm bị mất lên đến hơn 50.000 ha, trong khi đó về
lâu dài nguy cơ giảm tích đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và một số vùng
ven biển rất cao khi phải đối mặt với hiện tượng nước biển dâng do ảnh hưởng của sự
biến đổi khí hậu toàn cầu, làm diện tích đất trồng lúa bị ngập mặn tới 70-80% nếu
mực nước biển dâng cao thêm 1m. Những năm gần đây diện tích đất nông nghiệp ở
đồng bằng sông Cửu Long ngày càng bị thu hẹp dần, thay vào đó là các khu công
nghiệp, khu đô thị và dân cư mới. Một ví dụ cụ thể đối với tỉnh Cà Mau, năm 2000

toàn tỉnh có hơn 200.000 ha đất trồng lúa nhưng hiện tại chỉ còn trên 80.000 ha do
chuyển đổi sang đất xây dựng và các mục đích khác.

Hình 4. Biểu đồ tỉ lệ đất ngập nước bị ảnh hưởng khi mực nước biển dâng cao
hơn ở một số quốc gia , trong đó có Việt Nam
Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long

Nhóm III lớp DH06QM Page 30
III.2.2. Nguyên nhân đất ô nhiễm:
III.2.2.1. Ô nhiễm tự nhiên:
a. Nhiễm phèn và nhiễm mặn:
Nhiễm phèn:
Phèn được sinh ra có thể do nguyên nhân oxy hóa phèn tiềm tàng (FeS) tại chỗ để
tạo thành acid H
2
SO
4
, chứa nhiều độc chất Al
3+,
Fe
2+,
SO
4
-2
; hay cũng có thề do nước
phèn đi từ nơi khác gây nhiễm phèn cho MTST đất. Quá trình thứ nhất gọi là quá trình
phèn hóa (sulphate acidification) và quá trình thứ hai là quá trình nhễm phèn
(contamination of acid sulphate). Dù nguyên nhân nào thì trong dung dịch đất, lượng
độc chất Al
3+,

Fe
2+,
SO
4
-2
rất cao và pH môi trường xuống thấp, khả năng trao đổi và
điệm của môi trường đất bị phá vỡ, không thể tự làm sạch được nửa, nên cả môi
trường bị ô nhiễm nặng.
Môi trường đất chỉ được coi là ô nhiễm khi toàn bộ phản ứng môi trường pH<5
trong đó Al
3+
>130 ppm, Fe
2+
>300 ppm và SO
4
-2
>0.1%. Cây trồng và vật nuôi cũng
như con người bị ảnh hưởng trầm trọng.
Đất Mặn:
Ô nhiễm mặn chỉ có thể do mặn muối hoặc mặn kiềm. mặn do kiềm ít xảy ra mà
chủ yếu do mặn muối từ nước biển. trong nước biển nhiều muối NaCl, Na
2
SO
4
, CaCl
2
,
CaSO
4
,MgCl

2
, NaHCO
3
; vùng trũng nhiều hữu cơ có cả Na
2
CO
3
nhưng chủ yếu là
NaCl.
Môi trường đất được xem là ô nhiểm mặn khi nồng độ tổng số muối tan >0,3%,
trong đó muối Cl
-
>0,15% và Na
+
có hàm lượng trên 10 mEq/100gr, sau 24 giờ bị
ngập nước mặn và bị bốc mặn lên mặt.
Các yếu tố tự nhiên gây nhiễm phèn và nhiễm mặn ở ĐBSCL:
 Lịch sử hình thành đất ở ĐBSCL (tiềm năng sẵn có)
 Khí hậu:

×