Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Chương1: Lý thuyết tiến hoá đối với sinh học_5 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.36 KB, 7 trang )

Chương1: Lý thuyết tiến hoá
đối với sinh học

Nếu sự gia tăng mật độ tia UV-B gây ra những ảnh hưởng bất lợi đến số
lượng loài lưỡng cư, chúng ta có thể đưa ra phỏng đoán rằng việc giảm
tia UV-B ở các ao nơi trứng loài lưỡng cư được ấp và ấu trùng đang phát
triển sẽ cải thiện được tỷ lệ sống sót của chúng.

Bước 5 : kiểm tra giả thuyết



Giả thiết cho rằng việc tăng mật độ tia UV-B có thể làm giảm sút số
lượng loài lưỡng cư đã được kiểm tra bằng cách so sánh các phản xạ của
các con nòng nọc của 2 loài ếch sống ở vùng núi Australia. Một loài
Litoria verreauxii đã biến mất hoàn toàn khỏi vùng này; và loài còn lại
thì Crinia signifera thì không. Nguyên nhân là do ở vùng cao, các con
nòng nọc này sẽ phải chịu 1 lượng tia UV-B lớn hơn, và kinh nghiệm
cho thấy rằng khả năng sống sót của loài L.verreauxii ít hơn loài
C.signifera nếu phải chịu cùng 1 lượng UV-B như nhau. Theo như
phỏng đoán, khi tiếp xúc với tia UV-B, các cá thể của loài C. signifera
vẫn sống tốt, nhưng tất cả các cá thể loài L. verreauxii đều chết trong
vòng 2 tuần. Nếu được nuôi trong 1 hồ lớn được bao bọc bởi những tấm
lọc nhằm hạn chế bớt tia UV, thì cá thể của cả 2 loài đều sống tốt. Và kết
quả thu được đã củng cố cho giả thuyết mà các nhà khoa học đưa ra ban
đầu.

Nhiều giả thiết cũng được đưa ra nhằm xác định các nguyên nhân dẫn
đến sự suy giảm số lượng của loài lưỡng cư, bao gồm cả các ảnh hưởng
do những biến động môi trường sống gây ra bởi con người. Hai tác động
rõ ràng nhất từ những biết đổi môi trường sống gây ra bởi loài người là


sự ô nhiễm không khí trong khu đô thị, khu tăng trưởng công nghiệp, và
thuốc trừ sâu sử dụng trong nông nghiệp.

Theo giả thuyết về sự biến đổi môi trường thì sự thái hoá của các loài
lưỡng cư có thể là do môi trường chúng đang sống ô nhiễm hơn các môi
trường ở vùng khác. Giả thuyết này được kiểm tra bằng phương pháp so
sánh. Các nhà khoa học mở rộng nghiên cứu lên 8 loài lưỡng cư tại ban
California. Các loài được nghiên cứu bao gồm 4 loài ếch thuộc giống
Rana, hai loài cóc và vài loài kỳ nhông. Các khảo sát được dùng theo
phương pháp thống kê (khảo sát và đếm) để nhận biết nơi nào các quần
thể của 1 loài hiện diện hay vắng mặt tại hàng trăm điểm khảo sát ở khắp
tiểu bang.

Kết quả thống kê của ếch Rana aurora được trình bày ở hình 1.10
Bản đồ hình 1.10 cho thấy một xu thế rất rõ của R. Aurora: các quần thể
lưỡng cư hầu như biến mất tại vùng thành thị và các vùng trồng trọt ô
nhiễm cao, và hiện diện rất nhiều tại các vùng nông nghiệp tương đối
sạch hơn. Đây là thông tin căn bản nhất của phương pháp so sánh.

Trong nghiên cứu này, sau khi đếm tỉ mỉ và so sánh với các dữ kiện
tương tự khác có được từ 8 loài cho thấy rằng một vài loài biến mất tại
các vùng ô nhiễm cao, tuy nhiên vẫn có những loài(như cóc) thì không
bị ảnh hưởng. Từ đó chúng ta có thể kết luận môi trường sống của con
người không phải là nguyên nhân duy nhất của sự biến mất tất cả các
loài. Một vài nghiên cứu khác cũng nhấn mạnh một số giả thiết khác về
sự biến mất của một số loài lưỡng cư. Một vài bằng chứng cho thấy rằng
khói từ các đám cháy rộng có thể gây các ảnh hưởng bất lợi đến các loài
lưỡng cư. Sự thay đổi khí hậu đóng một vai trò cự kỳ quan trọng ở
những vùng như vùng Trung Mỹ, nơi mà từ tiết ấm và khô suốt nhiều
năm mùa gieo trồng có thể là nguyên nhân biến mất của loài cóc vàng

Costa Rica. Và cũng theo Poeter Jonhson giải thích các sinh vật ký sinh
cũng là một phần nguyên nhân của vấn đề.
Mặt dầu việc tìm kiếm và thu thập thêm thông tin là rất quan trọng,
nhưng với những quan sát và nghiên cứu trên đây đã cho ta thấy được
không chỉ có một nguyên nhân dẫn đến tình trạng thoái hoá của các loài
lưỡng cư.

Phát hiện này không gây một ngạc nhiên nào bởi vì không có nơi nào
trên trái đất mà điều kiện tự nhiên lại giống nhau hoàn toàn cả, và cũng
không có loài lưỡng cư nào thích nghi giống loài nào. Trong quá trình
thích nghi với tự nhiên, lưỡng cư cũng giống như tất cả các sinh vật
khác. Sự sống của chúng rất phức tạp và là sự tương tác giữa rất nhiều
các nhân tố với nhau bao gồm cả sự tương tác giữa loài và loài.

Một giải thích đơn giản đối với mọi vấn đề không thể đạt được sự đồng
thuận và tin tưởng của tất cả mọi người. Sự phức tạp này làm cho sinh
học trở thành một bộ môn khoa học khá khó khăn để nghiên cứu. Nhưng
chính điều đó làm cho sinh học trở nên thu hút và lý thú hơn.

Không phải tất cả mọi điều tra đều là khoa học



Phương pháp nghiên cứu khoa học là công cụ mạnh nhất của loài người
để tìm hiểu tự nhiên và tăng cường sự hiểu biết của mình đối với thế giới
tự nhiên và các quy luật của nó. Sức mạnh của khoa học được đặt nền
tảng trên các lý thuyết đã được kiểm chứng. Quá trình này có khả năng
tự điều chỉnh bởi vì nếu có bất cứ sai lầm nào trong quá trình thiết lập
một học thuyết mới nó sẽ bị loại thải hoặc được thực hiện theo cách
khác trong các thí nghiệm sau. Thêm vào đó bởi vì các bước để thực

hiện một thí nghiệm được trình bày một cách kỹ càng nên các nhà
nghiên cứu đi sau sẽ dễ dàng kiểm chứng. Bất kỳ sai sót hay sự thiếu
trung thực nào cũng sẽ được nhanh chóng phát hiện. Đó cũng là lý do tại
sao khác với các nhà chính trị, các nhà khoa học trên thế giới luôn tin
tưởng kết quả của nhau .

Nếu hiểu rõ về phương pháp nghiên cứu khoa học ta có thể phân biệt rõ
giữa khoa học và các lĩnh vực khác. Nghệ thuật, âm nhạc và văn học
những hoạt động nâng cao đời sống con người không phải là các bộ môn
khoa học. Chúng giúp chúng ta hiểu biết được những giá trị của cuộc
sống. Tôn giáo cũng không phải là một bộ môn khoa học. Tôn giáo trao
cho ta niềm tin và dìu dắt đời sống tâm linh chúng ta, thiết lập những giá
trị nhân văn căn bản. Thông tin khoa học tạo ra một tình huống mà các
giá trị của tình huống đó được thảo luận và thành lập. Nhưng nó không
thể nói cho chúng ta tình huống đó có giá trị như thế nào

Sự liên hệ giữa sinh học và xã hội

Các nghiên cứu về sinh học có quan hệ rất lâu dài và chặt chẽ với cuộc
sống con người. Nông nghiệp và dược phẩm là 2 lĩnh vực quan trọng
nhất trong sinh học ứng dụng. Con người đã nghiên cứu về nguyên nhân
gây bệnh và các liệu pháp điều trị từ thời cổ đại. Ngày nay với sự giải
mã di truyền và khả năng thao tác trên gene của sinh vật, con người có
thể chữa trị được rất nhiều bệnh và sản xuất các sản phẩm nông sản
khác. Trong cùng thời gian này có rất nhiều vấn đề về đạo đức và xã hội
nảy sinh. Bao nhiêu và theo phương thức nào chúng ta chuyển đổi gene
của người và một số loài sinh vật khác? Có vấn đề gì không khi ta thay
thế các sinh vật truyền thống bằng các sinh vật biến đổi gene? Độ an
toàn của các sinh vật chuyển gene đối với môi trường và đối với con
người?


Nguyên nhân khác để ta lưu tâm đến việc nghiên cứu sinh học là để hiểu
rõ hơn về những tác động của con người lên thế giới tự nhiên. Việc sử
dụng các nguồn tài nguyên có thể hoặc không thể tái tạo đã gây nguy
hiểm lên môi trường, nơi cung cấp sự sống cho tất cả chúng ta. Những
hoạt động của con người đã thay đổi khí hậu toàn cầu, nguyên nhân của
sự tuyệt chủng hàng loạt các loài, và kết quả là sự lây lan của những căn
bệnh mới và biến thể nguy hiểm của các căn bệnh cũ. Ví dụ như sự lây
lan nhanh chóng của dịch SARS hay West Nile virus là do sự thuận tiện
của các phương tiện giao thông. Những hiểu biết về sinh học cần thiết
cho việc nhận biết nguyên nhân của các thay đổi trên, cảnh báo xã hội đề
phòng và đối phó với chúng, và khai thác sự đa dạng sinh thái của tự
nhiên nhằm cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho con người nhằm nâng cao
cuộc sống con người.

Các nhà khoa học còn giúp đỡ chính phủ trong việc thiết lập luật lệ và
các quy tắc ứng xử trong xã hội để đối phó với vấn đề và thử thách ngày
một nhiều. Trong quá trình nghiên cứu cuốn sách này chúng ta sẽ được
tiếp cận với các kiến thức về sinh học đủ để ta hiểu rõ nếu các chính
sách về sinh học được ban hành.

Xuyên suốt cuốn sách này chóng ta sẽ trao đổi về sự kỳ thú trong nghiên
cứu sinh vật và thấy được sự phong phú về phương thức nghiên cứu của
các nhà sinh học để tìm hiểu về thế giới theo cách chúng ta nhận biết và
cách thức hoạt động, chức năng của muôn loài.

Động cơ lớn nhất của các nhà sinh học là sự nghi ngờ, tò mò. Con người
bị quyến rũ bởi sự phong phú và vẻ đẹp của tự nhiên và muốn tìm hiểu
nhiều hơn về các loài giúp loài người hiểu biết thêm về các loài sinh vật
khác và sự tương tác giữa loài người với các loài sinh vật khác trong tự

nhiên. Lịch sử nghiên cứu cho thấy chỉ những người biết tò mò và tìm
hiểu thì mới có thể thành công. Nói một cách khác, tò mò là thích nghi!
Một lượng lớn câu hỏi của chúng ta về thế giới vẫn chưa được trả lời, và
những khám phá mới thường đặt ra nhiều câu hỏi mới nhiều hơn là
những điều mà nó trả lời được. Có nghĩa là sự tò mò sẽ là động cơ quan
trọng nhất để bạn có thể có những ý tưởng.

×