Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đền thờ Hưng Đạo Vương giữa TP.Hồ Chí Minh ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.03 KB, 6 trang )

Đền thờ Hưng Đạo Vương
giữa TP.Hồ Chí Minh





Thuở nhỏ sống ở Sài Gòn, tôi nhiều lần lui tới chùa Vạn An và
cạnh chùa là ngôi đền nho nhỏ thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo được
dựng vào năm 1932, tọa lạc ở 36 đường Hiền Vương, Sài Gòn 1 nay là
36 đường Võ Thị Sáu, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Sau ngày giải
phóng miền nam trở về TP Hồ Chí Minh, đến thăm lại ngôi đền ngày
xưa, tôi sửng sốt trước đền rộng lớn và nguy nga hơn nhiều.
Nguyên do là ngôi đền cũ nằm cạnh Hội Quán được xây dựng từ năm
1929 của Hội Bắc Việt tương tế. Cụ Nguyễn Văn Bích, chủ nhân của
đền, đã hiến cho Hội Bắc Việt tương tế do Cụ Nguyễn Duy Ninh làm
chánh hội trưởng từ năm 1952 đến năm 1979 (khi cụ qua đời).

Ngôi đền mới thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo được kiến trúc sư nổi
tiếng Nguyễn Mạnh Bảo thiết kế và Hội Bắc Việt tương tế khởi công
xây dựng vào ngày 28-7-1957, hoàn thành vào ngày 11-7-1958, sau
đó dỡ bỏ ngôi đền nhỏ cũ, tạo thành sân đền rộng rãi chức hàng
nghìn người dự lễ hội.

Từ năm 1958 đến nay, đền thờ tuy có được tu bổ thêm nhiều lần,
nhưng nhìn chung cả vóc dáng lẫn đường nét căn bản của kiến trúc cũ
vẫn được giữ nguyên.

Đền có ba cổng lớn. Cổng chính giữa chỉ mở vào những ngày rằm, ba
mươi âm lịch hằng tháng và những lễ hội lớn trong năm. Hai cổng phụ
được mở thường xuyên để đón khách tới viếng thăm hằng ngày. Trên


nóc cổng chính là hình "lưỡng long hý nguyệt" và trước cổng nổi bật 4
chữ Hán cỡ lớn (phiên âm): Hưng Đạo Đại Vương. Ơở mặt ngoài của
hai cột cổng chính, có đôi câu đối viết bằng chữ Hán (tạm dịch):

Xem sử nhà Trần nhớ mãi những chiến tích oanh liệt tích tụ lại

Vào cửa miếu, thấy ánh sáng linh thiêng tỏa rạng ra.

Mặt trong của cổng, ở trên cao có bốn chữ triện: Trần Triều Hiển
Thánh và phía dưới, trên 2 cột cổng chính cũng có đôi câu đối viết
bằng chữ Hán.

Trong khuôn viên rộng chừng gần 2.000m2, sân đền chiếm phần lớn
diện tích, tỏa bóng mát cây cao. Sân đền lát gạch men màu nâu
thường được tổ chức đánh cờ người, võ cổ truyền và ca hát phục vụ
những ngày lễ, hội (lễ hội lớn nhất vào 20-8 Âm lịch, Ngày giỗ Đức
Thánh Trần). Ngay ở đầu sân, là bức tượng Trần Hưng Đạo do nhà
điêu khắc Trọng Nội đúc bằng xi-măng, tô màu đen pha vàng trông
uy nghi và hài hòa với khung cảnh khu vực đền thờ.

Từ sân, qua 5 bậc bước lên đền thờ được xây dựng một tầng 5 gian
bằng vật liệu gỗ, bê-tông cốt thép và mái lớp ngói vẩy cá. Và đền thờ
cấu trúc theo hình chữ đinh, diện tích khoảng 250m2, với ba cửa liền
nhau. Phía trên ba cửa nổi bật 10 chữ Hán (phiên âm):

Hiển thánh Trần triều Hưng Đạo Đại Vương linh từ.

(Đền thờ của bậc hiển thánh linh thiêng là Hưng Đạo Đại Vương họ
Trần). Mặt trước cửa chính, có đôi câu đối viết bằng chữ Hán:


Núi Vạn Kiếp không có ngọn nào là không có hơi kiếm bốc hỏa,

Sông Lục Đầu không có cơn sóng nào lại không có tiếng thu ầm
vang.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân thì câu đối này tương tuyền
là của thám hoa Vũ Phạm Hàm (người làng Đôn Thư, huyện Thanh
Oai, Hà Tây, 1864 - 1906).

Trong đại sảnh của đền cũng có nhiều đôi câu đối giàu tràng khí.

Ơở trước bàn hương án có hai con nghê ngồi chầu được tạo hình độc
đáo: mỗi con ngậm một cái xương sườn cá ông cong vút lên, dài gần
3m, tạo thành một hình vòng cung, trông rất uy nghi. Sau bàn hương
án ở điện ngoài, là nơi thờ các vị anh hùng hào kiệt đời Trần, đã có
công với nước mà dân gian tôn là các bậc "hiển thánh" như: Trần
Quang Khải, Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng.

Hai bên hương án là hai hàng cờ quạt, tàn lọng, đồ bát bửu, ngựa
hồng, ngựa bạch Phía trên và dọc theo hai cột ở hai bên hương án
cũng có hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng.

Nơi thờ chính của đền là Nội điện (hậu cung). Nội điện ở phía trong,
có tượng Trần Hưng Đạo bằng đồng, khởi công đúc từ ngày 25-10-
1957 và khánh thành vào ngày 1-7-1958. Tượng Trần Hưng Đạo được
đúc ở thế ngồi trên long ỷ, tay cầm quyển binh thư, thanh kiếm bạc
dựng một bên. Phía trái là nơi hai vị nương cô (tức một con gái Trinh
công chúa sau là vợ Trần Nhân Tôn và một gái nuôi Nguyễn công
chúa sau là vợ Phạm Ngũ Lão). Phía phải là nơi thờ bốn vị vương tử
(tức 4 người con trai của Trần Hưng Đạo gồm Hưng Võ Vương Quốc

Hiển, Hưng Hiến Vương Quốc Uy, Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng và
Hưng Trí Vương Quốc Nghiễn). Phía trên bức tượng là bức hoành phi,
giữa có thêu mấy chữ Hán (phiên âm): Nam Quốc Cơ Công (công
trạng xây dựng nền móng nước Nam). Cũng trên bức hoành phi này,
phía trái có thêm 2 chữ Đại nghĩa (Nghĩa lớn) và phía phải có thêm
hai chữ Chí trung (hết lòng trung).

Hai bên bức hoành phi trong nội điện có đôi câu đối chữ Hán:

Dòng dõi nhà vua, ngựa đá bao phen lo việc nước,

Trần Triều danh tướng, bình vàng xã tắc điện sáng ngời.

Trên nền hoành phi và câu đối là những hoa văn thường thấy ở các
đền thờ. Trên các vách cao của đền là hàng loạt những bức phù điêu
sơn son thếp vàng, chạm trổ công phu của nhà điêu khắc Trọng Nội,
diễn tả những sự kiện lớn của lịch sử đời Trần như: Hội nghị Diên
Hồng, Lời thề sông Hóa, Trận Bạch Đằng 1288.

Đó là chưa kể đến bản đồ, nguyên văn (bản dịch) Hịch tướng sĩ của
Trần Hương Đạo, cùng những lời khuyên chân tình mà sâu sắc của
Trần Hưng Đạo đối với vua Trần và kế sách giữ nước trước khi Trần
Hưng Đạo qua đời, cùng với nhiều hiện vật có giá trị khác được trưng
bày trong Hội quán làm Nhà truyền thống di tích đời Trần.

Hằng năm, đến Đức thánh Trần Hưng Đạo thường tổ chức lễ hội lớn
vào đêm giao thừa, mồng 1, 2,3 Tết, Lễ hội mừng xuân. Giỗ tổ Hùng
Vương (mồng 10 tháng 3 Âm lịch). Giỗ Đức thánh Trần Hưng Đạo (20
tháng 8 Âm lịch). Ngày Thánh đản mồng 10 tháng Chạp Ơở những
dịp này thường có múa lân, tế lễ cổ truyền, thi vật, võ cổ truyền, ca

nhạc dân tộc và thường xuyên tổ chức hội thảo về các chiến công
thời Trần.

Từ trước và nhất là ngày nay, hằng ngày, nhiều khách du lịch trong
nước và ngoài nước đến thăm đền thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo.
Trong cuốn sổ lưu niệm có biết bao khách nước ngoài đến đây và ghi
lại những lời xúc động. Nguyễn Duy Vượng

×