Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Vua hiền Lê Thánh Tông docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.68 KB, 6 trang )

Vua hiền Lê Thánh Tông






Cách đây gần bảy mươi năm, năm 1942, trong bài diễn ca Lịch sử
nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “ Vua hiền có Lê Thánh
Tông ”. Thánh Tông là miếu hiệu của Lê Tư Thành, con thứ tư, cũng
là con út của vua Lê Thái Tông (1423 - 1442).

Ông còn có tên là Hạo, hiệu Thiên Nam Động chủ, sinh ngày 27 tháng
Bảy năm Nhâm Tuất 1442 tại nhà ông ngoại ở mạn tây nam Quốc Tử
Giám, nay là khu đất chùa Huy Văn, Hà Nội. Sau khi vua Lê Huy Tông
bị hãm hại, rồi Lê Nghi Dân bị lật đổ, Lê Thánh Tông được lên ngôi
vua, khi mới 18 tuổi. Ông trị vì 38 năm với hai niên hiệu là Quang
Thuận (1460 - 1469) và Hồng Đức (1470 - 1497), “là bậc vua anh
hùng, tài lược, dù Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không
hơn được” (Đại Việt sử kí toàn thư).

Là người yêu dân, yeu nước tha thiết, khi ở ngôi, Lê Thánh Tông tỏ ra
là một nhà tổ chức vô cùng tài giỏi, có tinh thần cải cách táo bạo và
một ý chị tự cường dân tộc mạnh mẽ. Hành chính nước Đại Việt ta với
5 đạo từ Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông chia thành 15 đạo, rồi dổi gọi là
thừa tuyên. Dười thừa tuyên là phủ, huyện, châu, tổng, xã. Hệ thống
quan lại cũng được đặt lại từ trung ương xuống địa phương, nhằm đáp
ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Nhờ vậy, sự quản lý lãnh thổ
chặt chẽ, biên cương được bảo vệ vững chắc.Trình độ quản lý đạt đến
đỉnh cao, thể hiện rõ trong việc biên vẽ bản đồ quy mô toàn quốc.
Một số thư tịch cổ cho biết, từ thời Lý đã tiến hành đo đạc và biên vẽ


bản đồ, rất tiếc là không còn lưu lại được đến ngày nay.

Còn bộ bản đồ thời Hồng Đức, dẫu chỉ còn lại các bản sao của các đời
sau, nhưng cũng đủ để chúng ta thấy một trình độ đáng khâm phục.
Hai thế kỷ sau, Alexandre de Rhode đến nước ta và đã vẽ bản đồ nước
ta. Dù có được kỹ thuật đồ bản phương Tây thế kỷ XVII, A. Rhode vẫn
phải chịu ảnh hưởng rất nhiều và trong chừng mực nào đó còn không
bằng bản đồ thời Hồng Đức vẽ. Bản đồ của A. Rhode vẽ không đặt
theo trục Bắc – Nam như bản đồ của người phương Tây, mà cũng đặt
chiều đứng theo trục Tây – Đông, giống bản đồ Hồng Đức. Những việc
đó cho thấy rõ, bộ bản đồ thời Hồng Đức có trình độ đồ bản đạt đến
đỉnh cao của nhân loại đương thời.

Cũng dưới triều Lê Thánh Tông, các chính sách mang tính khai phóng
đã được tiến hành, như mở mang đồn điền, khai khẩn đất đai, khuyến
nông, nuôi dưỡng sức nước bằng việc làm tăng trưởng sức dân. Theo
sách Việt sử thông giám cương mục thì, năm Hồng Đức thứ mười hai,
1481, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu lập 13 sở đồn trong cả nước “là cốt
để dồn hết sức vào việc làm ruộng cho sự tích trữ (lương thực) trong
nước được dồi dào ”.

Trong 43 sở đó, vùng ven Thăng Long cũng có những sở, như Quán La
Sở, Minh Cảo Sở (sau đổi gọi là Xuân Tảo Sở), bởi Sở đồn điền lập ra
trên làng nào thì lấy tên làng đó mà gọi tên sở, và cũng có thể những
sở đồn điền sau trở thành vùng dân cư trù phú và trở thành làng,
thôn Những việc đó đã tạo nên những thay đổi căn bản của quốc
gia Đại Việt. Về quốc phòng, Lê Thánh Tông cho tổ chức quân đội lại
chặt chẽ và cơ động, thường xuyên được học tập binh pháp. Và lần
đầu tiên trong lịch sử nước Việt ta xuất hiện luật về quân sự, khi vua
Thánh Tông cho ban hành 43 điều luật về quân đội, đưa quân đội vào

một quy chế chặt chẽ và có sức chiến đấu cao. Thật đặc biệt, Lê
Thánh Tông canh tân mọi mặt một cách căn bản và đặt trên nền tảng
cai trị bằng luật pháp. Một đỉnh cao tiêu biểu của pháp trị thời Lê
Thánh Tông là cho ban hành bộ Luật Hồng Đức. Ông đã nói với các đại
thần: “Pháp luật là phép công Nhà nước, ta và các ngươi phải cùng
tuân theo”. Câu nói đó thể hiện nét vĩ đại của tư tưởng Lê Thánh
Tông. Bộ Luật Hồng Đức chia làm 6 quyển, gồm 13 chương với 722
điều. Nhà học giả Phan Huy Chú từng đánh giá luật pháp thời Lê:
“Thật là cái mẫu mực để trị nước ”.

Đến đầu thế kỉ XIX, khi cho soạn bộ Hoàng Việt luật lệ, vua Gia Long
cũng đã tham khảo và đánh giá rất cao bộ Luật Hồng Đức. Đến cuối
thế kỉ XX, Đại học Ohio, nước Mỹ đã cho dịch và xuất bản bằng Anh
ngữ toàn bộ văn bản cùng những khảo cứu kỹ càng bộ Luật Hồng
Đức, dày 3 tập. Và, giáo sư Oliver Oldman, Chủ nhiệm khoa Luật Á
Đông của Đại học Harvard đã đánh giá rất cao Luật Hồng Đức, coi đó
là hệ thống luật với nhiều sự tương đương về chức năng so với những
quan niệm luật pháp Tay phương cận hiện đại ”.

Thời kì Lê Thánh Tông trị vì, xã hội phát triển mọi mặt, đất nước đạt
tới đỉnh cao cường thịnh, để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc
với những giá trị văn hóa xã hội vô cùng to lớn: Hồng Đức thiên hạ
bản đồ, Hồng Đức hình luật, Thiên Nam dư hạ tập, Hồng Đức quốc âm
thi tập Ông là người cho khở dựng Bia Tiến sĩ ở Quốc Tử Giám, là
người đầu tiên cho đặt Trường thi võ ở phía Tây kinh thành (địa điểm
Giảng Võ ngày nay) Một việc có ý nghĩa lịch sử mà ông đã làm năm
1464, là rửa oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm thơ văn Nguyễn Trãi
để lưu lại cho hậu thế. Chính Lê Thánh Tông như đã tạc bia cho
Nguyễn Trãi bằng câu thơ: Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo. Có
thể nói, Thánh Tông đã có công lao tạo lập cho thời đại ông một nền

văn hóa với diện mạo riêng, khẳng định bước phát triển mới của lịch
sử văn hóa dân tộc.

Nền giáo dục khoa cử nước ta thịnh đạt đặc biệt và vai trò của tri thức
được đề cao chưa có thời nào được như thời Lê Thánh Tông. Ngoài
Hàn lầm viện, Quốc sử viện, Nhà Thái học, Quốc Tử giám là các cơ
quan văn hóa giáo dục lớn của Nhà nước, Thánh Tông còn cho xây
Kho bí thư để chứa sách, và lập Hội Tao đàn do ông làm Tao đàn
Nguyên súy, vừa sáng tác thơ văn vừa nghiên cứu phê bình. Những
trước tác phẩm của Hội Tao đàn được chép lại trong bộ sách đồ sộ
Thiên Nam dư hạ tập, và trong các sách Quỳnh uyển cửu ca, Mnh
lương cẩm tú, Hồng Đức quốc âm thi tập Trong đó không chỉ chép
thơ văn, mà còn ghi chép về lý luận phê bình văn học, về lịch sử, kinh
tế, quan chế, địa lý Thánh Tông là người dẫn đầu phong trào sáng
tác và trước thuật, để lại một lượng tác phẩm khá đồ sộ chép trong
Thiên Nam dư hạ tập, và các tác phẩm như: Thập giới cô hồn quốc
ngữ văn, Anh hoa hiếu trị, Châu cơ thắng thưởng, Chinh tây kỉ hành,
Văn minh cổ súy, Lam Sơn lương thủy phú Ông giỏi cả thơ và văn,
Nôm và Hán. Với cương vị của mình, ông viết nhiều tác phẩm văn học
chức năng.

Ông cũng là nhà văn lớn, nhà thơ mang tầm vóc của một thời đại. Tác
phẩm văn xuôi tiêu biểu của ông là tập Thánh Tông di thảo gồm 19
truyện vừa có tính truyền kì vừa mang tính ngụ ngôn, lại có màu sắc
quái đản lạ lùng, và thảy đều được viết với bút pháp đại gia. Các
truyện tiêu biểu như Tinh chuột, Duyên lạ xứ hoa, Hai Phật cãi nhau
có sức cuốn hút kì lạ cả về nghệ thuật thể hiện, cả về tư tưởng triết
học. Thánh Tông di thảo là dấu mốc quan trọng ghi nhận bước trưởng
thành của truyện kí nước ta viết bằng chữ Hán, ra đời trước cả tập
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (thế kỷ XVI). Về thơ, Lê Thánh

Tông là một thi sĩ mang tầm vóc thời đại ông, một thời đại tự cường
và thịnh đạt. Thơ ông là tiếng nói của một nhân cách lớn, một nhà tư
tưởng tiên phong, một trái tim chứa đựng bát ngát núi sông và tràn
đầy tự hào dân tộc: “Nắng ấm nghìn trượng tỏa trên ngọn cờ /Phóng
hết tầm mắt nhìn núi sông muôn dặm” (Bài Buổi sớm từ sông Cấm đi
tuần về phía đông). Còn bài Qua sông Bạch Đằng, vừa hào sảng vừa
có chiều sâu của xúc cảm lịch sử: “Cửa bạch Đằng trời nước một màu/
Nhớ mãi công cần vương của Hưng Đạo xưa / Ngày ấy xã tắc nhà
Trần không suy chuyển/ Núi sông nước Việt mọt thời vẫn còn như
muôn thuở ” Trong một bài thơ Nôm, Lê Thánh Tông tự trình bày
mình:

Trống rời canh còn đọc sách
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu

Thật đẹp đẽ, hình ảnh một ông vua đứng đầu quốc gia với bao quốc
sự bề bộn, mà tay luôn cầm quyển sách, và có thể, phải đọc vào
những buổi canh khuya. Học giả Phan Huy Chú (1782 - 1840) đã ghi
nhận về Lê Thánh Tông: “Tay không rời sách, kinh sử, chư tử, dich số,
toán chương đều tinh thông, văn thơ càng giỏi hơn các bề tôi, (là vị
vua) văn vũ tài lược hơn cả các đời”. Lê Thánh Tông thực sự là nhà
văn hóa lớn của dân tộc. Và có lẽ, trên hết cả, bao trùm tất cả, là tấm
lòng ông, là ý thức trách nhiệm của ông trước dân tộc và đất nước.
Ước vọng và hoài bão của ông là: “Thiên Nam vạn cổ thiên hà tại”. Đó
là câu thơ trong bài thơ khắc trên đá núi Bài Thơ, Quảng Ninh. Câu
thơ viết hơn năm trăm năm trước chắc mãi còn rung đông lòng người
hậu thế, bởi thơ ấy mang khẩu khí một bậc đế vương hiền tài và xúc
cảm của một tâm hồn lớn!


×