Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Việt Nam trước khi thực dân Pháp tiến đánh Bắc kỳ lần thứ nhất_2 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.43 KB, 8 trang )

Việt Nam trước khi thực dân Pháp
tiến đánh Bắc kỳ lần thứ nhất


Để xúc tiến âm mưu này, năm 1872, sau khi thám thính vịnh Hạ Long,
sử dụng đồng đảng Tạ Văn Phụng để gây sức ép với triều đình Huế, thực
dân Pháp đã dùng tên lái buôn J.Duy-Puy gây rối trên sông Hồng, tự tiện
xâm phạm chủ quyền của Việt nam. Năm 1872 - 1873 Đuy-Puy liên tiếp
gây ra những vụ khiêu khích thậm chí cướp phá ở Hà nội. Sau đó lấy cớ
giải quyết vụ Duy-Puy ngày 11-10-1873 Fhơ-răng-xi Gác-ni-ê được lệnh
từ Sài gòn đem quân ra Bắc. Sau khi tự tiện tuyên bố mở cửa sông
Hồng, F.Gác-ni-ê quyết định đánh thành Hà Nội.

Fhơ-răng-xi Gác-ni-ê hạ thành Hà Nội lần thứ nhất.

Ngày 20/11/1873 Đại tướng Nguyễn Tri Phương - lúc đó được cử giữ
chức Trấn thủ thành Hà Nội, đã cùng Hiệp quân Trần Văn Cát, suất đội
Ngô Triều xông lên mặt thành chỉ huy tác chiến. Phan Tôn, Phan Liêm
những lãnh tụ nghĩa quân miền Tây lục tỉnh năm xưa đã anh dũng chiến
đấu cho đến khi bị giặc bắt. Một viên chưởng cơ cùng 100 quân chống
chọi đến người cuối cùng ở ô Thanh Hà (về sau đổi thành ô Quan
Chưởng). Nguyễn Tri Phương bị trọng thương ở bụng, không chịu để
giặc buộc thuốc, nhịn ăn, nhịn uống cho đến chết.

Trong vòng 3 tuần lễ, giặc Pháp đánh lan ra các tỉnh Bắc kỳ, chiếm các
tỉnh: Hưng yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Nam Định, Ninh Bình Nhân dân
các địa phương nói trên đã phối hợp với quan lại, sĩ phu tự đứng lên tổ
chức chống giặc, ở Hải Dương có Lê Hữu Thường, tuần phủ Đặng Xuân
Bảng, bố chính Nguyễn Hữu Chính, án sát Nguyễn Đại. ở Nam Định,
văn thân chia nhau trấn giữ các huyện: Nguyễn Mậu Kiến tập hợp nghĩa
binh, xây dựng trung tâm kháng chiến ở Trực Định (nay là Kiến


Xương). Phạm Văn Nghị, Nguyễn Hữu Lợi chống Pháp ở Phong
Doanh, Ý Yên.

Tại Bắc Ninh, Sơn Tây, hai cánh quân của Trương Quang Đản, Hoàng
Kế Viêm đã phối hợp với toán quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc tạo
thành thế bao vây uy hiếp thành Hà nội.

Ngày 21/12/1873 tại Cầu Giấy, quân ta tổ chức mai phục tiêu diệt toán
quân Pháp, trong đó có tên tổng chỉ huy F.Gác-ni-ê, đồng thời ở các nơi,
quân dân ta ráo riết bao vây Nam Định, Hải Dương, Ninh Bình.

Hiệp ước 1874

Quân Pháp hoang mang dao động. Cuộc kháng chiến kiên cường anh
dũng của nhân dân ta đã đặt thắng lợi giải phóng đất nước trong tầm tay.
Giữa lúc đó triều đình Huế ký điều ước 15/3/1874 mang tên Hiệp ước
Hòa bình và liên minh (còn gọi là điều ước Giáp Tuất). Điều ước gây
nên sự bất bình và phẫn uất trong dân chúng. Nhiều cuộc nổi dậy chống
triều đình kết hợp với chống thực dân Pháp đã bùng nổ, tiêu biểu nhất là
cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn - Đặng Như Mai ở Nghệ Tĩnh (1874):
Dập dìu trống đánh cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây.


Hiệp ước Giáp Tuất là điều ước thứ hai, đánh dấu bước trượt dài trên
đường suy vong của triều đình Huế. Nó gồm 22 khoản. Những khoản
chính là: triều đình chính thức thừa nhận việc quân Pháp chiếm cứ 3 tỉnh
miền Tây Nam Kỳ, thừa nhận cho người Pháp được tự do truyền đạo ở
khắp nước ta và được tự do thông thương, đặc biệt là ở Hà nội và trên
sông Hồng.



V. Quân Pháp đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ hai (1882-1884)


Âm mưu của Pháp sau Hiệp ước 1874 và cuộc tấn công Hà Nội lần
thứ hai của Pháp.

Việc cắt đất đầu hàng của triều đình Huế vẫn chưa làm vừa lòng quân
Pháp. Để cứu vãn những vùng còn lại, một mặt triều đình Tự Đức tiếp
tục lao sâu vào con đường phản bội, cùng quân Pháp đàn áp các cuộc nổi
dậy của nhân dân, mặt khác, tìm cách cầu cứu nhà Thanh.

Lợi dụng việc triều đình Huế vẫn nhờ tàu Pháp từ Sài gòn ra dẹp bọn
cướp biển ở vùng biển Hạ Long, Quảng Yên rồi lấy cớ triều đình Huế
không nghiêm chỉnh thi hành Hiệp ước 1874, vẫn tiếp tục quan hệ với
Trung Hoa, ngăn trở việc đi lại buôn bán của người Pháp trên sông
Hồng bọn thực dân sau khi do thám tình hình đã quyết định tăng quân
số ở miền Bắc rồi gửi thêm quân viễn chinh từ Pháp sang. Tháng 3/1882
thống đốc Nam Kì lại phái Trung tá hải quân Ri-vi-e đem 300 quân ra
Bắc đổ bộ lên Hà Nội nâng tổng số quân của chúng ở đây lên 600 tên.
Ngày 25/4/1882 Ri-vi-e nổ súng đánh thành Hà Nội.

Tổng đốc Hoàng Diệu đốc quân kháng chiến anh dũng.

Nối tiếp tinh thần bất khuất của Nguyễn Tri Phương năm xưa quân ta
dựa vào các thành lũy, chiến hào đẩy lui từng đợt tiến công của địch.
Nhưng cuộc cầm cự chỉ kéo dài được hơn nửa ngày. Sức đề kháng của
quan ta yếu dần, cuối cùng tổng đốc Hoàng Diệu đã phải tuẫn tiết sau
khi lấy máu viết tờ di biểu gửi triều đình.


Ngay từ giữa năm 1882, biết âm mưu Pháp sắp thanh toán hết Việt Nam
triều đình Mãn Thanh đã hạ lệnh cho tập trung quân ở miền biên giới và
đưa một bộ phận sang đóng ở Cao Bằng, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc
Ninh, Sơn tây. Nhưng khi thành Hà nội thất thủ chúng vẫn án binh bất
động. Vì giữa nhà Thanh và Pháp đang có cuộc thương lượng tại Bắc
Kinh, chúng gắng đi đến một hiệp nghị (cuối 1882) để định vị trí chia
nhau thống trị Bắc Việt nam.
Trước thái độ bạc nhược của triều đình Huế và thái độ dè dặt của triều
đình Mãn Thanh, thực dân Pháp càng củng cố quyết tâm đánh chiếm
bằng được phần thị trường Bắc Việt Nam, vừa để khai thác tài nguyên,
vừa để thâm nhập vào vùng Tây Nam Trung Hoa.

Từ tháng 2/1883 chính phủ Pháp gấp rút chuẩn bị hành động. Chúng
tăng quân ở bắc Việt Nam lên 2000 tên năm 1883 và 15000 tên đầu năm
1884.
Việt nam, hỗ trợ về tinh thần cho triều Nguyễn và cũng là để lợi dụng
cuộc kháng chiến của nhân dân Việt nam mà mặc cả với Pháp.Trong lúc
đó, cũng như trước kia, Pháp và Mãn Thanh lại tiếp tục thương lượng ở
Pa-ri và Thượng Hải. Lập trường của nhà Thanh là thừa nhận cho Pháp
chiếm 6 tỉnh Nam Kì nhưng đòi Pháp phải thừa nhận quyền Thiên triều
của Bắc Kinh đối với Huế.

Quân dân Hà Nội kháng chiến. Trận Cầu Giấy lần thứ hai 19/5/1883

Ngày 19/5/1883 Hăng-ri Ri-vi-e bị quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc
phục kích, tử trận ở Cầu Giấy. Tin này khiến Chính phủ Pháp quyết định
khai chiến để buộc triều đình Việt Nam đầu hàng hoàn toàn. Hác-măng
là lãnh sự Pháp ở Băng-Cốc được cử làm ủy viên toàn quyền điều khiển
cuộc chinh phục. Giữa lúc nguy kịch như vậy thì ngày 19/7/1883 Tự

Đức chết.


Pháp tấn công Thuận An. Nhà nước phong kiến Việt Nam sụp đổ.
Hòa ước 1883 và 1884

Triều đình đang còn lục đục trong việc suy tôn người kế nghiệp thì thực
dân Pháp đã đưa quân chiếm Thuận An (20/8/1883) rồi ngày 25/8/1883
chúng buộc triều đình Nguyễn ký ”Hiệp ước Hòa bình” - một hiệp ước
được Pháp soạn thảo sẵn với tinh thần nô dịch, đặt nền thống trị của
chúng tên toàn bộ đất nước Việt nam.

Hiệp ước 25/8/1883 (còn gọi là Hiệp ước Hác-măng) gồm 27 khoản. Nội
dung qui định triều đình Huế thừa nhận Nam kỳ là thuộc địa của Pháp,
phần còn lại đặt dưới chế độ ”Bảo hộ”. Đất nước Việt nam từ đây bị chia
thành 3 khúc: Co Sanh Sin (Nam kỳ), An Nam: từ Khánh Hòa tới Đèo
Ngang và Tông canh: từ Đèo ngang ra Bắc

Hiệp ước Hác măng tước bỏ hoàn toàn quyền ngoại giao của triều đình
Huế, kể cả với Bắc Kinh - tức là thủ tiêu ý đồ của Mãn Thanh dùng Huế
để mặc cả với Pháp.

Ngày 11/5/1884 - tại Thiên Tân, Mãn Thanh ký một qui ước với Pháp,
theo đó, Trung Quốc nhận rút quân khỏi Bắc kỳ và tôn trọng các hiệp
ước đã ký kết giữa Pháp và triều đình Huế.

Ngày 6/6/1884 Pháp soạn thảo một hiệp ước mới sai Pa-tơ-nốt đưa cho
triều đình Huế ký nhận. Nội dung sửa lại mấy khoản của hòa ước Hác
măng, để các tỉnh Bình thuận, Hà tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa đều thuộc
Trung kỳ, về danh nghĩa do triều đình cai quản nhưng dưới sự bảo hộ

của Pháp.

Để yên tâm thống trị Việt nam, ngày 9/6//1885, tại Thiên Tân, Pháp ký
với Trung Quốc một bản hiệp ước mang tên ”Hòa bình hữu nghị và
thương mại”. Bản hiệp ước này có 10 khoản, theo đó Pháp rút khỏi Đài
Loan còn Trung Quốc thừa nhận nền thống trị của Pháp tại Việt Nam.
Sau đó, Trung quốc còn nhượng cho Pháp một số quyền lợi trên lãnh thổ
Trung Quốc còn Pháp cũng nhượng cho Trung Quốc nhiều vùng đất của
Việt Nam tại vùng biên giới, sáp nhập các vùng đất này vào 2 tỉnh
Quảng Đông, Quảng Tây của Trung quốc. Ngày 26/6/1887 và 20/6/1895
- Pháp - Trung Quốc ký 2 công ước hoạch định biên giới Việt - Trung.
Đường biên giới trên biển cũng được chúng thỏa thuận trong công ước
ngày 26/6/1887./.

×