Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Quan hệ con người – tự nhiên trong văn xuôi miền núi pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.19 KB, 5 trang )


Quan hệ con người – tự
nhiên trong văn xuôi
miền núi






Nói đến miền núi là nói đến con người giữa lòng thiên nhiên, nên việc so sánh
con người với thiên nhiên là một thao tác phổ biến trong văn học về đề tài này. Trong
văn xuôi miền núi hiện đại, sự đối sánh con người - thiên nhiên đã thoát khỏi những
khuôn mẫu gò bó xưa cũ, trở nên đa dạng, linh hoạt và sống động hơn so với văn học
trung đại. Thiên nhiên và con người là hai hình tượng sóng đôi, hình tượng này làm nổi
bật hình tượng kia. Kế thừa truyền thống với phương thức mượn cảnh ngụ tình, lấy thiên
nhiên làm giá đỡ tâm trạng, làm phiên bản của tâm trạng trở thành môtíp nghệ thuật
trong nhiều tác phẩm văn xuôi miền núi hiện đại.
Qua việc khảo sát văn xuôi dân tộc và miền núi, có thể khái quát mối quan hệ con
người và tự nhiên thành các cấp độ như sau:
1. Sự gắn bó giữa con người và tự nhiên - hai thực thể của tạo hoá
Marx từng cho rằng “con người trực tiếp là thực thể tự nhiên”, một “thực thể tự
nhiên sống”
(1)
. Con người miền núi tựa vào thiên nhiên mà chiến đấu và lao động, nuôi
dưỡng thể chất, bồi đắp tình cảm và thanh lọc tâm hồn. Thiên nhiên vừa là môi trường
sinh thái, là cơ sở thiết yếu nhất để con người tồn tại, vừa là bầu bạn của con người. Hầu
như bất cứ tác phẩm nào cũng ít nhiều thể hiện mối quan hệ hữu cơ này, nó như là một
thuộc tính của văn xuôi miền núi. Người du kích trên núi chè tuyết và đứa cháu xa
quê của Bùi Nguyên Khiết kì vĩ hình ảnh một ông già bảy mươi tuổi sống đơn độc trên
núi Hoa Thạch Bàn, nơi chỉ có “một màu xanh mênh mông vương vương vài sợi mây


trắng”, chỉ huy một bầy khỉ hái chè cho hợp tác xã, sáu năm không về nhà. Một con người
như tạc vào thiên nhiên, gắn với thiên nhiên liền một khối. Ông Pồn trong Ông Pồn và
chú hổ con (Ma Văn Kháng) cũng sống giữa muông thú như sống với bạn bè, hàng xóm,
và mối ân tình của ông với chú hổ mà ông nuôi nấng từ bé cho thấy con người và tự nhiên
không chỉ tương liên mà còn tương cảm lạ lùng. Một số hình tượng khác miêu tả con
người gần gũi với loài vật, cỏ cây trong Trăng non, Mùa săn ở Na Le… khẳng định thêm
cho nhận xét: "Cũng như các đồng nghiệp khác, Ma Văn Kháng luôn luôn chủ trương cổ
vũ cho lối sống hợp với tự nhiên, đánh thức khả năng giao hoà, giao cảm với thiên nhiên
để đạt tới sự hài hoà trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên"
(2)
. Chính bởi mối
quan hệ ràng buộc vĩnh viễn giữa người miền núi với môi trường tự nhiên của họ mà sự
gắn kết giữa hai thực thể của tạo hoá này có khi đến độ sâu nặng, máu thịt. Văn xuôi miền
núi ngay từ thuở mới hình thành đã để lại hình ảnh đẹp về một cô sơn nữ trốn khỏi thị
thành về với núi rừng thân thuộc, khi cô nhận ra rằng cuộc sống nhung lụa với người tình
giàu sang ở chốn phồn hoa “cũng chẳng bằng tiếng con vàng anh hót giữa khoảng trời yên
lặng”, “kém xa làn gió xuân êm dịu” và “sao có thể thay hẳn được những giờ mơ mộng
bên bờ suối trong xanh…” (Tiếng gọi của rừng thẳm - Lan Khai). Đó là tâm lí chung mọi
thời của người miền núi khi bị bứt ra khỏi mảnh đất hoang dã mà họ đã gửi lại cả tâm hồn.
Cô Din trong Ngải đắng ở trên núi (Đỗ Bích Thúy) có cùng tâm trạng với anh Pao
trong Vùng biên ải (Ma Văn Kháng) ở chỗ cứ đi xa về lại nhớ mùi thơm mộc mạc, nguyên
sơ thật sâu xa, đậm đà của cây cỏ ngải - cái mùi rất thương nhớ, như linh hồn xứ sở, quê
hương. Cũng phải ân nghĩa lắm nên trong Rừng xà nu, hình tượng cây và người mới hoà
làm một: nhựa xà nu bầm đen thành từng cục giống như máu người, và máu người cũng
đặc quện lại, tím thâm như nhựa xà nu. Những chi tiết này là sự hình tượng hoá quan
điểm cho rằng “giới tự nhiên là thân thể của con người” hay “con người là một bộ phận
của giới tự nhiên”
(3)
. Đắm say và nhạy cảm cao độ trước thiên nhiên, Nguyên Ngọc còn
nhận thấy giữa người miền núi và thiên nhiên có một sợi dây rung cảm nối liền: "Khi một

thứ hoa trắng bắt đầu nở trên đỉnh núi Chư Krao lan dần xuống các sườn núi xanh biếc, và
các chị con gái tự nhiên nghe rạo rực trong ngực, thì biết đúng là mùa xuân đã đến rồi"
(Mùa xuân hoa trắng). Điều này đúng với nhận xét của một nhà nghiên cứu, rằng trong
văn xuôi miền núi con người luôn muốn trải lòng mình với thiên nhiên, ngoại cảnh, và
ngoại cảnh lại có một tiếng nói riêng của nó mà chỉ con người miền núi mới nghe và cảm
nhận được.
Ở một số tác phẩm, sự gắn bó giữa con người và tự nhiên còn được biểu hiện
trong những hình tượng mang màu sắc tâm linh. Trong thế giới quan của người vùng
cao, tự nhiên có khi được xem như một phiên bản của con người. Cây sồi giữa bản
người Dao xanh tốt hay héo lá, gẫy cành tùy thuộc vào sức khoẻ và sự sống chết của già
làng – người có số tuổi đúng bằng tuổi nó; đời sống dân bản êm ấm, hoà thuận hay
không thể hiện ở nước suối đầy hay cạn, cá suối nhiều hay ít. Người thế nào, tự nhiên
thế ấy, đó là đức tin thuần phác mà bền chặt của người vùng núi trong Bóng của cây
sồi, Đá cuội đỏ (Đỗ Bích Thúy). Tương tự, mỗi cây "vía" có chôn núm nhau của trẻ sơ
sinh ở bản người Tày là một cái cây mang hồn người, đứa trẻ khoẻ thì cây xanh tốt, đứa
trẻ ốm yếu thì cây cũng quặt quẹo còi cọc (Mùa mắc mật – Bùi Thị Như Lan). Như vậy,
tự nhiên đã trở thành khuôn gương thần bí soi chiếu đời sống trần thế và vận mệnh của
con người. Sự trân trọng và lòng tin sâu sắc vào thế giới tự nhiên còn chứa đựng trong
một số phong tục tập quán của người miền núi, như tục "trả cây" của người Dao được
miêu tả trongĐất bằng của Vi Hồng (tin vào truyền thuyết cảm động về người và cây,
người làm rẫy sau khi chặt đổ mỗi cây rừng lại lấy một cành nhỏ của nó cắm trả vào gốc
với hàm ý “chặt cây to - cho cây con” rồi khấn khứa). Người Tây Nguyên lại tâm niệm
cùng sống và cùng chết với rừng, từ đó dẫn đến tục "bỏ mả" nghĩa là sau một số năm thì
người sống không quan tâm đến người đã chết nữa vì tin rằng người chết sẽ về với rừng,
rừng sẽ tái sinh cho họ (Đêm Dliê Ya ngàn xanh - Hlinh Niê).

Tuy nhiên, mối quan hệ con người - tự nhiên không phải bao giờ cũng diễn ra
theo hướng tốt đẹp, xuôi chiều. Mâu thuẫn khó giải quyết giữa nhu cầu sinh tồn của con
người với nhu cầu sinh tồn của tự nhiên, hiểm hoạ của rừng già cùng những hận thù
khủng khiếp giữa người và ác thú đã được đề cập trong nhiều sáng tác, từ Tchya đến Vũ

Hạnh, Cao Duy Sơn. Chính ở đây, tính văn hoá trong phương cách ứng xử với tự nhiên
của con người được bộc lộ. Con người không chỉ là một thực thể tự nhiên mà là một
“thực thể tự nhiên có tính chất người” (Marx), do vậy sự tác động của con người vào tự
nhiên phải là sự tác động mang tính người, mang bản chất người. Nguyễn Tuân nhìn
sông Đà như một thứ kẻ thù “hung tợn độc ác khét tiếng với 73 cái thác hiểm nghèo”,
nhưng ông tin rằng việc trị thủy khiến “sông Đà dì ghẻ rồi sẽ hiền lành, trở thành người
mẹ nhân từ của tất cả người Thái, người Mường, người Kinh” (Người lái đò sông Đà).
Cũng như vậy, những con người “khổng lồ” trong Sông gọi (Hoàng Hạc) đã ra tay trị cái
tính nết hung dữ của sông Chảy, làm cho sông và người trở thành một đôi bạn nuôi
nhau, làm giàu cho nhau. Đó là việc tạo ra một “giới tự nhiên thứ hai” (Marx) – giới tự
nhiên được nhân hoá, theo quy luật của cái đẹp và sự hài hoà trong mối quan hệ con
người - tự nhiên. Thiên nhiên được cải tạo bởi con người, từ một quan hệ đối nghịch đến
quan hệ thân quen bè bạn. Biểu hiện của văn hoá trong mối quan hệ con người - tự nhiên
là ở chỗ con người điều chỉnh tự nhiên, tái tạo tự nhiên theo nhu cầu và khả năng của
mình.

×