Tải bản đầy đủ (.pdf) (219 trang)

Văn hóa và con người Tây Nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945-2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 219 trang )

TRANG THÔNG TIN LUẬN ÁN
ĐỀ TÀI
“VĂN HÓA VÀ CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN TRONG VĂN
XUÔI NGHỆ THUẬT 1945- 2000”
- Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
- Mã số: 62.22.34.01.
- Họ và tên nghiên cứu sinh: Đặng Văn Vũ
- Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Hữu Tá
- Tên cơ sở đào tạo: Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí
Minh.
+ Tóm tắt nội dung luận án: Luận án nghiên cứu vấn đề Văn hóa và Con người
Tây Nguyên được thể hiện trong mảng văn xuôi nghệ thuật từ 1945 đến 2000.
Trong đó các giá trị văn hóa và vẻ đẹp con người được phân tích, đánh giá một cách
thấu đáo để người đọc hiểu hơn về một mảng văn xuôi có giá trị trong toàn bộ tiến
trình văn học Việt Nam.
+ Những kết quả của luận án:
1. Luận án đã làm nổi bật vẻ đẹp cũng như sự phong phú của các giá trị văn hóa
Tây Nguyên được thể hiện một cách độc đáo trong các tác phẩm văn xuôi.
2. Luận án cũng đã phân tích những yếu tố tiêu cực của các sinh hoạt văn hóa, tín
ngưỡng của người Tây Nguyên.
3. Luận án nêu lên thực trạng biến đổi văn hóa ở Tây Nguyên theo hướng tích cực
lẫn tiêu cực
4. Luận án cũng đã làm hiện lên hình ảnh người Tây Nguyên với những phẩm chất
tốt đẹp của họ trong chiến đấu cũng như trong cuộc sống thường nhật.
5. Luận án cũng đã phân tích sự thay đổi về phẩm chất con người Tây Nguyên
trong thời buổi hòa nhập với các dân tộc khác.
6. Luận án đã khái quát được vể đẹp văn hóa và con người Tây Nguyên mà các tác
giả văn xuôi đề cao và ca ngợi. Đó như là một sự cảnh tỉnh về hiện trạng đang
mất dần đi vẻ đẹp đó trong hiện tại và tương lai.
+ Các ứng dụng/khả năng ứng dụng trong thực tiễn hoặc những vấn đề còn bỏ ngỏ
cần tiếp tục nghiên cứu:


1. Với sự độc đáo và phong phú của văn hóa và con người, Tây Nguyên là mảnh
đất màu mỡ của văn chương, nghệ thuật; luận án như là một động lực cho sáng
tác văn chương, nghệ thuật về đề tài Tây Nguyên.
2. Tây Nguyên có một vị thế quan trọng đối với cả nước, luận án sẽ giúp nhiều
người hiểu hơn về văn hóa và con người Tây Nguyên, từ đó sẽ giúp họ- nhất là
những người gánh vác trách nhiệm phát triển Tây Nguyên- ứng xử đúng đắn hơn
với Tây Nguyên.
3. Luận án như là tiền đề quan trọng cho việc nghiên cứu sâu hơn về nhiều nội
dung quan trọng khác được thể hiện trong văn xuôi nói riêng và văn học nói
chung.
4. Đề tài chỉ nghiên cứu vấn đề văn hóa và con người Tây Nguyên trong mảng văn
xuôi nên dù sao cũng chưa thật toàn vẹn, đầy đủ. Người viết sẽ tiếp tục nghiên
cứu vấn đề trên (và nhiều nội dung khác) trong văn học viết về Tây Nguyên.

Xác nhận của người hướng dẫn khoa học
Nghiên cứu sinh



PGS. TS TRẦN HỮU TÁ ĐẶNG VĂN VŨ






















THESIS INFORMATION PAGE

TOPICS
"CULTURE AND PEOPLE OF THE HIGHLANDS IN PROSE 1945 - 2000"

- Major: Vietnamese Literature
- Code: 62.22.34.01.
- Name of graduate students: Dang Van Vu
- The Instructor: Associate Professor. Dr. Tran Huu Ta
- Name of institution: University of Social Sciences and Humanities City Ho Chi
Minh.
+ Dissertation abstracts: The thesis studied the issue of Culture and People of
Highland in the prose from 1945 to 2000. In which cultural values and human
beauty are analyzed and evaluated thoroughly so that readers can out more
about an a valuable section of the prose literature in the Vietnamese.
+ Results of the thesis:
1. The thesis highlights the beauty and cultural richness of the Highlands.
2. The thesis also analyzed the negative elements of the cultural Highlands
3. Thesis highlight the cultural changes Highlands positively and negatively.

4. The thesis depict people of Highlands with their good qualities in combat as
well as in daily life.
5. The thesis also analyzed the changes in the human qualities in the
Highlands in integration with other nations.
6. Thesis Essential beauty of human culture and the Highlands that the authors
of fiction highly praised. As a warning that the current situation is that beauty
fades in the present and future.
+ Applications / ability in practical applications or matters left open to further
study:
1. With the unique and rich culture and people, the Highlands are fertile ground
for literature and art the thesis can be considered a motivation for the creation
of literature and art on this theme.
2. Highland has an important geographical position. Dissertation help people
better understand the culture and people of the Highlands to may develop in
the right direction Highlands.
3. The thesis is an important premise for the study of deeper and more literary
the Highlands.
4. The thesis only study the issue of culture and human the Highland in prose
should not full. Future, we will continue to research this issue (and other
problems more) in the literature Highland.


Science Instructor Graduate students

TRAN HUU TA DANG VAN VU

1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
P. Dourisboure, Jacques Dournes, Geores Condominas, Henri Maitre,

Albert Maurice được xem là những người đầu tiên khám phá miền đất cao
nguyên Trung phần mà ngày nay chúng ta gọi là Tây Nguyên. Bằng sự trải
nghiệm cả tuổi thanh xuân, những nhà dân tộc học người Pháp này đã đem đến
không những cho người Việt, người Pháp mà cả thế giới biết đến một miền đất
được coi là “hoang sơ” nhất hành tinh này. Chính tại nơi đây, họ đã gặp lại thời
thơ ấu của loài người, và họ nhận ra rằng nền văn minh vật chất đã làm thoái
hóa lương tri con người, nơi heo hút và mông muội nhất lại là nơi con người
sống với nhau đẹp đẽ nhất. Sống với người Tây Nguyên họ như được trở về với
tuổi thơ trong sáng. Mọi sự cám dỗ về danh vọng họ đều xem nhẹ, thậm chí như
Jacques Dournes sẵn sàng từ bỏ tôn giáo của mình để “qui y” “Tôn giáo Tây
Nguyên”. Geores Condominas sau khi từ Tây Nguyên trở về Paris, giữa thủ đô
hoa lệ, ông vẫn cởi trần đóng khố và khắc khoải nỗi nhớ về làng Sar Luk xa xôi.
Đến tận tám mươi tuổi ông vẫn tìm về thăm lại Tây Nguyên. Tại sao những
người đến từ nền văn minh hàng đầu thế giới lại hành động như vậy?
Nguyên Ngọc, Vũ Hạnh, Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy là
những người Việt đến với Tây Nguyên từ thời chống Pháp và chống Mỹ, lúc ấy
họ chưa tiếp cận được với những nghiên cứu về Tây Nguyên của người Pháp.
Họ chỉ hiểu Tây Nguyên qua sự lăn lộn trong cuộc sống chiến đấu của mình.
Và họ cũng bị Tây Nguyên hấp dẫn. Nguyên Ngọc đến tuổi “thất thập” mà vẫn
luôn đau đáu với Tây Nguyên, vẫn luôn thấy mình còn mắc nợ với đất và người
Tây Nguyên. Trung Trung Đỉnh thì “yêu Tây Nguyên như chính quê hương
mình”, năm nào cũng dành thời gian về với buôn làng để “gội rửa linh hồn”
khỏi bụi bẩn thị thành. Tại sao họ bị Tây Nguyên mê hoặc như vậy?

2
Có ai một lần đến với Tây Nguyên mà không khỏi ngạc nhiên với nền
văn hóa độc đáo và con người thân thiện trên mảnh đất thấm đẫm chất huyền
thoại này. Sự kỳ lạ của văn hóa và con người, vẻ đẹp nên thơ và hùng vĩ của
thiên nhiên Tây Nguyên luôn có một sức hút mãnh liệt với những ai thích khám
phá. Và đã khám phá rồi thì sẽ bị nó hút lấy, như Jacques Dournes, Geores

Condominas, Nguyên Ngọc, Trung Trung Đỉnh…
Vậy thỏi nam châm ấy là gì?
Jacques Dournes – người đến với đất và người Tây Nguyên từ rất sớm,
đắm mình trong cuộc sống của họ hơn hai mươi năm để đi đến một kết luận:
Con người Tây Nguyên hôm nay là nhân chứng về quá khứ
của nhân loại, chỉ cho chúng ta biết ngày xưa chúng ta là như thế
nào; chỉ riêng một điều đó thôi, họ cũng đã đáng cho chúng ta
chăm chú và yêu quí rồi. Quan sát họ, ta thấy hiện lên một bức
tranh độc nhất và hấp dẫn về chính chúng ta trong quá khứ [82, tr.
10].
Nguyên Ngọc- người đầu tiên gieo hạt giống văn học viết trên mảnh đất
Tây Nguyên, đã có lần tâm sự:
Nói đến Tây Nguyên người ta thường hay nghĩ, nói ngay đến
thiên nhiên, núi non, rừng rú, cảnh quan lạ lùng của nó. Tất nhiên
cái đó là đúng và cũng tác động đến người mới bước chân đến
đây. Nhưng còn quan trọng hơn nhiều, theo tôi là nền văn hóa của
nó. Các dân tộc Tây Nguyên đã “cấy trồng” trên đất đai núi rừng
của mình một nền văn hóa lớn, cực kỳ độc đáo và đặc sắc, lâu đời
và bền vững [119, tr. 9].
Như vậy chính yếu tố “con người quá khứ của nhân loại”, “nền văn hóa
lớn” của họ mới là nét mới lạ độc đáo làm nên sức hấp dẫn để Nguyên Ngọc,

3
Vũ Hạnh, Y Điêng, Thu Bồn, Anh Ngọc, Trung Trung Đỉnh, Phạm Kim Anh,
Khuất Quang Thụy, H’Linh Niê, Thu Loan…khám phá.
Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của nhà văn là bắc những nhịp cầu
để người đọc đến với những miền đất xa lạ mà do sự ràng buộc về không gian
và thời gian họ không thể đến được. Hiện nay, khoảng cách không gian giữa
các vùng miền khác nhau đã trở nên gần gũi hơn nhờ sự phát triển của giao
thông và khoa học công nghệ. Nhưng đối với nhiều người, Tây Nguyên vẫn xa

lạ, hoang dã, “rừng rú”. Để Tây Nguyên gần gũi, thân thương hơn trong mắt
mọi người, nhiều nhà văn đã khai phá mảnh đất này bằng thái độ trân trọng và
tình cảm yêu thương. Là người sống và làm việc tại Tây Nguyên, chúng tôi
muốn khái quát toàn bộ sáng tác văn xuôi tiêu biểu nhất về Tây Nguyên dưới
góc độ văn hóa và con người để có thể xác định vị thế cũng như sắc thái độc
đáo của văn hóa, văn học Tây Nguyên trong bức tranh chung của văn hóa dân
tộc. Qua đó, có thể giúp cho mọi người hiểu và yêu mến hơn một vùng đất kỳ
ảo Tây Nguyên.
Một số tác phẩm viết về Tây Nguyên đã được đưa vào nhà trường và
được nhiều người phân tích, đánh giá. Song sự phân tích ấy chỉ nặng về tìm
hiểu giá trị hiện thực cũng như nội dung tư tưởng của tác phẩm. Thực ra, trong
tác phẩm văn xuôi về Tây Nguyên có một dòng chảy văn hóa mà ngọn nguồn
của nó là cuộc sống của con người trên một vùng đất thấm đẫm chất huyền
thoại, vùng đất của cổ tích và sử thi. Nghiên cứu văn hóa và con người trong
văn xuôi nghệ thuật viết về Tây Nguyên không chỉ giúp hiểu thêm về một mảng
sáng tác trong văn chương dân tộc, thấy được vẻ đẹp độc đáo về cuộc sống con
người và văn hóa nơi đây, mà còn phục vụ cho việc giảng dạy, học tập môn văn
trong nhà trường được đúng hướng hơn, toàn diện hơn.
Những chính sách về kinh tế của nhà nước nhằm phát triển Tây Nguyên
cũng có hai mặt của nó. Một mặt, đời sống của đồng bào được cải thiện đáng
kể, họ được tiếp xúc với các nền văn minh trước đây vốn rất xa lạ với họ, thế
giới quan thần linh chủ nghĩa không còn ngự trị một cách tuyệt đối như xưa nên
nhiều hủ tục được xóa bỏ. Nhưng mặt khác, sự phát triển này dẫn đến sự biến
đổi văn hóa cả theo hướng tích cực lẫn tiêu cực. Hướng tiêu cực có nguy cơ
phát triển mạnh hơn làm thay đổi cả hệ thống luật tục mà từ ngàn đời nay vẫn
duy trì sự ổn định cuộc sống của họ. Việc khai thác rừng một cách tàn nhẫn, sự

4
phát triển ồ ạt của các công trình thủy điện, ưu tiên mở rộng diện tích các loại
cây công nghiệp v.v…đã dẫn đến sự rối loạn trong nhịp điệu của tự nhiên, xã

hội ở Tây Nguyên. Trong sự rối loạn của cuộc sống đó, các tôn giáo ở nước
ngoài đã nhanh chóng giành lấy một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần
của người Tây Nguyên. Hệ quả là rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
đã bị biến mất. Nghiên cứu vấn đề văn hóa và con người trong văn học cũng là
góp phần nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa độc đáo của các dân
tộc Tây Nguyên đang có nguy cơ mai một trước sức tấn công ồ ạt của các dòng
chảy văn hóa khác.
Trong thời gian gần đây, Tây Nguyên rất được chú ý cả về chính trị, kinh
tế lẫn văn hóa. Về chính trị, càng ngày người ta càng nhận ra tầm quan trọng
của Tây Nguyên, vì nó nằm ở vị trí là “mái nhà” của Đông Dương. Về kinh tế,
vị thế của cây cà phê, hồ tiêu Tây Nguyên trên thế giới và đặc biệt là sự kiện
khai thác bô-xit ở Tân Rai và Nhân Cơ đã hướng sự chú ý của tất cả các tầng
lớp xã hội về Tây Nguyên. Về văn hóa, không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể và truyền khẩu của
nhân loại cũng đã dấy lên một phong trào tìm hiểu Tây Nguyên. Trong phong
trào có vẻ ồ ạt đó, đã xuất hiện nhiều cách ứng xử chưa thật đúng với văn hóa
Tây Nguyên. Một thực tế khác, những người làm công tác văn hóa (phần lớn là
người Kinh) nhiều khi đã không tìm hiểu thấu đáo về đời sống Tây Nguyên nên
vô tình họ đã làm nhòa đi màu sắc văn hóa Tây Nguyên. Những điều này đã
làm cho những nhà Tây Nguyên thực thụ như Nguyên Ngọc, Nguyễn Tấn
Đắc… rất bức xúc. Trước thực tế đó, chọn đề tài này chúng tôi cũng mong góp
một tiếng nói của mình để có thể hiểu đúng hơn về Tây Nguyên và có những
cách ứng xử phù hợp hơn.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Như trên đã nói, hiện nay Tây Nguyên là vùng đất thu hút sự chú ý của
các nhà nghiên cứu văn hóa, của giới văn nghệ sĩ. Nghiên cứu về văn hóa Tây
Nguyên, các học giả tập trung sưu tầm văn học dân gian của các dân tộc. Và họ
đã thu thập được một số lượng rất lớn các tác phẩm văn học dân gian Tây

5

Nguyên, trong đó nhiều nhất là các bộ sử thi. Qua công tác điều tra sưu tầm, có
thể nhận thấy rằng nền văn chương bình dân ở Tây Nguyên đa dạng, phong phú
không hề thua kém bất kỳ vùng đất nào.
Không như văn học dân gian, không như văn học viết về Tây Bắc; văn
học viết ở Tây Nguyên vẫn còn khá khiêm tốn về số lượng tác giả, tác phẩm.
Ngoài số ít nhà văn với những tác phẩm gây được tiếng vang, còn lại các nhà
văn địa phương cũng viết khá nhiều nhưng chưa đủ sức vươn ra khỏi “biên
giới” Tây Nguyên. Nhìn chung, văn học viết về Tây Nguyên ít gây được sự chú
ý của giới nghiên cứu. Theo đó, việc nghiên cứu về nó cũng chưa thật sự được
quan tâm, mặc dù ít nhiều nó cũng đã tạo ra một diện mạo riêng.
Theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì đến nay, ở Việt Nam chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách tổng thể về mảng văn học viết về Tây Nguyên.
Vấn đề nghiên cứu văn hóa và con người Tây Nguyên trong văn học cũng đang
còn bỏ ngỏ. Tuy nhiên, do có một số tác phẩm đã gây được tiếng vang nên cũng
có nhiều công trình nghiên cứu về nó ở cấp độ tác giả, tác phẩm. Trong số đó,
nghiên cứu về Nguyên Ngọc là nhiều nhất. Những nhà văn như Y Điêng, Trung
Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy, Thu Loan, H’Linh Niê thì chỉ có một số bài
giới thiệu, bình luận tổng quát in rải rác trên các báo và tạp chí.
Trong khoảng ba mươi bài nghiên cứu về Nguyên Ngọc, chỉ có một số ít
bài viết tìm hiểu một cách tổng quát, còn phần lớn các tác giả tập trung phân
tích tiểu thuyết Đất nước đứng lên và truyện ngắn Rừng xà nu, qua đó khái quát
đặc điểm văn chương Nguyên Ngọc.
Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Nguyên Ngọc, con người lãng mạn đã
khẳng định vẻ đẹp độc đáo trong sáng tác nghệ thuật và quan niệm về con
người của nhà văn. Ông cho rằng tâm hồn Nguyên Ngọc bắt rất nhạy những gì
dữ dằn, quyết liệt và có một vẻ hoang dã như sự sống thời nguyên thuỷ. Ông
nhấn mạnh:

6
Văn của anh cuốn hút người ta không phải bởi chỉ cách trần thuật

bằng chính giọng điệu của nhân vật của anh, với thứ ngôn ngữ hết sức
hồn nhiên ngây thơ, đầy những hình ảnh ví von rất ngộ nghĩnh, mà bằng
cả tâm hồn cũng rất Tây Nguyên...Nguyên Ngọc đích thực là một tri thức
của núi rừng, là nhà văn hóa của Tây Nguyên [176, tr.58].
Phong Lê trong một đánh giá khái quát về những tác phẩm tiêu biểu của
Nguyên Ngọc đã chỉ ra rằng trong sáng tác của Nguyên Ngọc, “con người gắn
bó với đất nước quê hương, gắn với truyền thống cha ông, và truyền cho đất
nước sức sống của mình”, “vẻ đẹp con người đã truyền đến cho thiên nhiên, và
thiên nhiên góp phần tô điểm con người”[168, tr.32]. Trong bài Nguyễn Trung
Thành và những trang viết về miền Nam đất lửa, Phong Lê cũng đã chỉ ra tính
chất biểu tượng trong cách miêu tả nhân vật già làng, và “cụ thể, độc đáo, hiện
thực khi miêu tả lớp con trẻ như những mạch nối của văn hóa truyền thống”
[169, tr. 48].
Trần Đăng Khoa trong bài báo Nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định sự
thống nhất trong phong cách nghệ thuật của tác giả chính là ở việc thể hiện
người thật việc thật, người tốt việc tốt; và nhà văn đã tìm đến một hình thức
nghệ thuật phù hợp, nhất quán. Tác giả nhấn mạnh: “Văn Nguyên Ngọc là một
dạng văn hay, giản dị, chắt lọc và trong veo” [152, tr. 6].
Nguyễn Văn Long trong những bài viết ngắn về Nguyên Ngọc cho rằng
ông sáng tác không nhiều về số lượng nhưng vẫn được độc giả chú ý, “Nguyên
Ngọc là một trong số hiếm hoi những cây bút gắn bó và am hiểu Tây Nguyên-
một xứ sở vô cùng phong phú và đầy sức hấp dẫn cả thiên nhiên cũng như bản
sắc văn hóa độc đáo mà hầu như vẫn còn giữ được nguyên vẹn” [42, tr.14]. Tác
giả khái quát: “Sự quan tâm hàng đầu đến những vấn đề có ý nghĩa trọng đại
lịch sử của dân tộc và cách mạng cùng với niềm say mê những tính cách anh

7
hùng khiến cho tác phẩm của Nguyên Ngọc mang tính chất hùng tráng lại đậm
nét trữ tình và chất lý tưởng”[171, tr.62].
Đỗ Kim Hồi xem Nguyên Ngọc là người đầu tiên trong số những nhà

văn cách mạng thành công trên một mảng đề tài mà bốn thập kỷ trước đây đang
còn hoàn toàn mới lạ: Tây Nguyên. Ông nói: “Trong ký ức của chúng ta,
Nguyên Ngọc sẽ được nhớ như nhà văn của Tây Nguyên, hiểu trên hai nghĩa:
người viết hay nhất về Tây Nguyên cho tới hôm nay, và người mà- cũng cho tới
hôm nay- những sáng tác về Tây Nguyên cũng làm nên phần hay nhất, tiêu biểu
nhất trong sự nghiệp văn chương của mình” [286, tr. 582 ].
Trong lời giới thiệu cuốn Đất nước đứng lên của Nhà xuất bản Giáo dục
Giải phóng, có nhận xét: “Qua tiểu thuyết Đất nước đứng lên, Nguyên Ngọc
muốn giới thiệu cho người đọc rõ thêm về đất nước, về con người ở vùng núi
rừng Tây Nguyên. Đất nước ấy hùng vĩ mà hiền hoà, giàu đẹp và nên thơ.
Những con người ở đây yêu nước nồng nàn, cần cù lao động”[26a, tr.4].
Khi Đọc lại Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Trường Lưu cho rằng
thành công của việc miêu tả hình tượng Núp là thành công hai mặt: kết cấu
nhân vật và tính dân tộc lồng vào trong kết cấu. Hai mặt này cũng xuyên suốt cả
hệ thống hình tượng trong tác phẩm. Ông nhấn mạnh:
Nguyên Ngọc đã đi sâu nghiên cứu tính dân tộc của Tây
Nguyên, vận dụng những bài dân ca, những câu chuyện dân gian
Tây Nguyên đưa vào tác phẩm, tìm hiểu hoàn cảnh dân tộc đã sinh
ra một con người như Núp. Trong Đất nước đứng lên, nếu tác giả
không nắm vững tính dân tộc của Tây Nguyên thì tác phẩm chỉ có
cái lõi của sự việc chứ không có linh hồn Tây Nguyên [173, tr.28].
Hà Văn Thư trong bài viết Con người dân tộc thiểu số qua một số tác
phẩm của mấy nhà văn miền xuôi đã nêu lên những nét đặc sắc của con người
trong Đất nước đứng lên và kết luận về Nguyên Ngọc: “Thành công của

8
Nguyên Ngọc theo tôi là do lòng yêu thương thiết tha đồng bào Tây Nguyên mà
anh đã gần gũi trong những tháng ngày kháng chiến”[267, tr.44].
Như vậy đa số những bài nghiên cứu đều thừa nhận Nguyên Ngọc đã gặt
hái được nhiều thành tựu đáng kể trong những sáng tác về Tây Nguyên. Sở dĩ

có được thành công này là nhờ những hiểu biết phong phú và sâu sắc về văn
hóa và con người nơi đây, như ông đã từng kể: “Tôi đã sống trong các làng
đồng bào Ê-đê, được cùng đồng bào đi làm rẫy, làm nương, đi săn, đi bắt cá,
cùng ăn, cùng ở, cùng bàn bạc công tác, cùng đi đánh du kích, cùng dự các
cuộc vui và được nghe đồng bào kể những sự tích về núi rừng, sông suối, về
truyền thống bất khuất lâu đời của dân tộc”[197, tr.59]. Các bài nghiên cứu chủ
yếu đánh giá một cách tổng quát sáng tác của Nguyên Ngọc, nếu đi vào phân
tích cụ thể từng tác phẩm thì cũng chỉ đi tìm hiểu nội dung tư tưởng và giá trị
nghệ thuật chứ chưa đi vào nghiên cứu tác phẩm của ông như một giá trị văn
hóa, dưới góc nhìn văn hóa. Chưa có công trình nghiên cứu nào xem xét một
cách tổng thể có hệ thống vấn đề văn hóa và con người Tây Nguyên trong tác
phẩm của Nguyên Ngọc.
Sau Nguyên Ngọc, Trung Trung Đỉnh cũng có nhiều tác phẩm hay về
Tây Nguyên cho nên có một số bài viết có tính chất khái quát về chất Tây
Nguyên trong văn của Trung Trung Đỉnh chứ chưa có bài viết nào tìm hiểu sâu
về văn hóa Tây Nguyên trong tác phẩm của ông. Nguyễn Xuân Hải nhận xét
một cách khái quát về những trang viết của Trung Trung Đỉnh: “Nói đến Trung
Trung Đỉnh, bạn đọc nghĩ ngay đến những trang viết đầy ắp hơi thở Tây
Nguyên từ thời chống Mỹ cho đến nay”. Nguyễn Ngọc Thiện trong “Tuyển tập
văn học dân tộc và miền núi” cũng có nhận xét khái quát: “Là người Kinh,
nhưng sống và hoạt động nhiều năm ở Tây Nguyên, do thành thạo tiếng Bana
và được đào tạo chu đáo về nghề văn, tác giả đã có được những trang viết sinh
động, sắc sảo về cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ nơi đây, những phong tục tập

9
quán và và các giá trị văn hóa cổ truyền còn được lưu giữ” [42, tr. 39]. Và tác
giả cho rằng, với truyện ngắn Chớp trên đỉnh Kon Từng cùng với hàng loạt
truyện khác cùng đề tài, đã đưa Trung Trung Đỉnh vào hàng những tác giả tiêu
biểu viết về vùng đất Tây Nguyên vài chục năm gần đây. Trong bài viết Nhà
văn “Lạc rừng”, Văn Công Hùng khẳng định: từ sau năm 1975 trở lại đây,

Trung Trung Đỉnh là người viết thành công nhất về Tây Nguyên, bởi anh có
vốn sống, vốn hiểu biết sâu sắc về Tây Nguyên.
Là bậc “trưởng lão” trong làng văn hóa, văn học Tây Nguyên; Nguyên
Ngọc đã dành cho Trung Trung Đỉnh những ngôn từ đầy trang trọng, những
cảm nhận thú vị. Ông viết:
Trung Trung Đỉnh không viết về Tây Nguyên. Đối với Trung
Trung Đỉnh, Tây Nguyên không phải là “chất liệu”, cũng không
phải là “vốn sống”…Trung Trung Đỉnh xa lạ với tất cả những thứ
đó. Thậm chí đối với anh, Tây Nguyên cũng không phải là “đề
tài”, là văn chương, là nghề nghiệp. Sâu xa mà đơn giản hơn
nhiều, đối với anh, Tây Nguyên là tất cả. Là cuộc đời anh. Là nỗi
ám ảnh, là sự mê hoặc, là cuộc sống, là sự rơi chìm, sự nhấn chìm,
trùm lên toàn bộ cuộc đời anh, mê mẩn suốt đời, không cách gì rứt
ra được, thoát ra được, cho đến chết [6, tr. 6-7].
Là nhà văn người Ê đê, Y Điêng có khoảng mười tác phẩm văn xuôi về
Tây Nguyên, nhưng nghiên cứu về ông thì chỉ có vài bài, trong đó các tác giả đã
nhìn thấy những giá trị văn hóa làm nền tảng cho văn Y Điêng. Triệu Lam
Châu cho rằng truyện của Y Điêng trong trẻo, tự nhiên như trời đất. Và ông
khái quát: “Đọc truyện của Y Điêng, tôi thấy hiện lên biết bao là ánh núi. Ánh
núi hiện lên từ tiếng cồng chiêng âm vang cả núi rừng và lòng người. Ánh núi
hiện lên từ ánh mắt nao lòng của người con gái Ê đê khi trao chiếc công cho
người yêu…”.

10
Mã A Lềnh nhận xét văn phong Y Điêng:
Truyện dài Hơ Giang với lối kết cấu theo mạch thời gian
giản dị truyền thống, không cầu kỳ sắp đặt, không xen cài, không
phức tạp hóa những cảnh ngộ, không cố tạo dựng những tình
huống bất ngờ, những thử thách quyết liệt. Đó là một bức tranh
phẳng, thật thà tựa như những tượng gỗ trong khu nhà mồ của

người Tây Nguyên. Lối diễn đạt, giọng điệu nguyên xi như người
dân tộc nói, tạo nên hiệu quả đến thẳng với người đọc, không cần
suy nghĩ vòng vo, không cần vận nhiều triết tự, không quá ư triết
luận về nghệ thuật cao siêu. Đó là con đường ngắn nhất đến với
bạn đọc, mà bạn đọc trước hết là dân tộc mình[294, tr. 69].
Khuất Quang Thụy có một thời gian dài sống ở Tây Nguyên. Với tư cách
là một người lính, anh chủ yếu viết về những chặng đường của cuộc chiến tranh
chống Mỹ ở Tây Nguyên. Về đề tài văn hóa, con người Tây Nguyên, anh chỉ có
một số truyện ngắn, vì vậy nghiên cứu về Khuất Quang Thụy cũng chưa được
chú ý. Văn Giá trong Tuyển tập Văn học dân tộc và miền núi có nhận xét khái
quát về một vấn đề mà ông cho rằng Khuất Quang Thụy khá thành công, đó là
lẽ công bằng của người Tây Nguyên:
Nhà văn đã cố gắng khám phá và định danh cái cá tính ưu
trội nổi bật mang ý nghĩa phổ quát của con người Tây Nguyên, đó
là lẽ công bằng. Phẩm chất này có lẽ hình thành rất sớm từ thời
công xã nguyên thủy, một phẩm chất cộng đồng mà các buôn, plây
Tây Nguyên còn giữ được và trong suốt trường kỳ lịch sử những
người dân Tây Nguyên luôn coi phẩm chất này như là một giá trị
cao nhất trong bảng giá trị tinh thần truyền thống của mình [42,
tr.151]

11
Vốn là một nhạc sĩ, nhưng H’Linh Niê cũng khá thành công trong lĩnh
vực văn chương, chị có khoảng hai mươi truyện ngắn về các dân tộc Êđê,
M’Nông, Jrai, Bana… Tuy nhiên chưa có cồng trình nào nghiên cứu về văn của
chị. Chỉ có Lê Minh Khuê trong lời giới thiệu sách “Gió đỏ” đã nhận xét khái
quát về văn hóa, con người Tây Nguyên trong văn của H’Linh Niê:
Bằng lối viết nhẹ nhàng tinh tế, chị kể về những mối tình đôi
lứa, về những tình cảm của con người với nhau, về một gia đình,
về một buôn làng, về những làng này làng kia với những phong tục

tập quán riêng, vẻ đẹp riêng. Con mắt phụ nữ của chị như nhìn
thấy nét đẹp run rẩy của lá rừng mùa xuân, nhìn thấy ánh mắt của
chàng trai khi yêu, nhìn thấy sự can trường của con người của núi
rừng. Đọc truyện ngắn của H’Linh, ta như được du ngoạn qua cả
một vùng đất con nhiều bí ẩn [20, tr.197].
Thu Loan là nhà văn sống ở Tây Nguyên khá lâu, chị có nhiều truyện
ngắn viết về cuộc sống của người bản địa Tây Nguyên. Tuy nhiên, nghiên cứu
về văn xuôi của chị chưa nhiều. Trong chuyên đề Tìm hiểu các sáng tác của
nhà văn Thu Loan, nhóm tác giả của Hội Văn học Nghệ thuật Gia Lai cho rằng
Thu Loan đã phản ánh sinh động và chân thực hiện thực đời sống văn hóa, đặc
điểm con người Tây Nguyên, các tác giả viết:
“Đọc các tác phẩm văn xuôi của Thu Loan, người đọc cảm
giác đang sống chính trong không khí của buôn làng, núi rừng Tây
Nguyên với những con người dân dã, bình dị. Trong các truyện
ngắn của Thu Loan, đâu đâu cũng gặp những con người chất
phác, đầy nét nguyên sơ, hoang dã. Đâu đâu cũng ngập tràn không
khí Tây Nguyên: rừng đó, núi đó, suối sông đó, làng bản đó”[285,
tr.12].

12
Văn Công Hùng trong bài viết Đa mang Thu Loan cũng cho rằng Thu
Loan rất thành công trong mảng sáng tác về đề tài dân tộc Tây Nguyên, trong
sáng tác của chị hiện lên “những người đàn bà Tây Nguyên, buôn làng Tây
Nguyên, trẻ con Tây Nguyên, tâm thức Tây Nguyên, giá trị Tây Nguyên. Chị
như một sứ giả mộng du trong ấy và gặp biết bao điều mới lạ, cả ngang trái và
tốt đẹp, cả phiền não và hoang mang”[285, tr.17].
Một số nhà văn địa phương khác như Phạm Kim Anh, Phạm Minh Mẫn,
Nguyễn Ngọc Hòa… cũng có những tác phẩm hay về Tây Nguyên nhưng chưa
tạo được ấn tượng mạnh nên cũng chưa thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu.
Như vậy tình hình nghiên cứu văn học viết về Tây Nguyên chỉ “xôn xao”

với tác phẩm của Nguyên Ngọc, còn với các tác giả khác thì khá lặng lẽ và thưa
thớt. Tuy nhiên những gì có được cũng rất quí và đáng trân trọng .
Trên cơ sở tiếp thu những nhận xét, đánh giá quí báu của người đi trước,
chúng tôi xác lập hướng nghiên cứu có tính chất tổng thể nhằm tìm ra hệ thống
những giá trị văn hóa cũng như tính cách con người Tây Nguyên để khám phá
những thành tựu nổi bật trong sáng tác về đề tài Tây Nguyên trong văn xuôi
Việt Nam 1945-2000. Từ đó khẳng định tính độc đáo mới lạ làm nên đặc trưng
Tây Nguyên trong các sáng tác, qua đó thấy được những đóng góp to lớn của
các nhà văn đối với việc gìn giữ và phát huy nền văn hóa của một vùng miền
vẫn còn nhiều bí ẩn cần khám phá và truyền bá nhiều hơn.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng
Trước năm 1945, ở Tây Nguyên hầu như chỉ có văn học dân gian. Văn
học viết về Tây Nguyên chỉ thật sự được định hình từ năm 1945 với sự xuất
hiện của Nguyên Ngọc. Vì vậy, đối tượng khảo sát của luận án là những tác
phẩm văn xuôi nghệ thuật đặc sắc viết về Tây Nguyên từ năm 1945 đến 2000,
phần lớn l tc phẩm của Nguyn Ngọc. Sau đó là sáng tác của Vũ Hạnh, Trung

13
Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy, Đỗ Tiến Thụy, Thu Loan và một số nhà văn
khác. Về tác giả là người dân tộc Tây Nguyên, người viết tìm hiểu các sáng tác
của Y Điêng, H’Linh Niê (Linh Nga Niê Kđăm), Kim Nhất.
Người viết chỉ tập trung khảo sát các tác phẩm phản ánh văn hóa và con
người bản địa Tây Nguyên (trong không gian năm tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk
Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng). Các tác phẩm viết về người Kinh ở Tây Nguyên
không thuộc phạm vi khảo sát của luận án.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Thế giới nghệ thuật của một tác phẩm văn học khá đa dạng. Đề tài chỉ tập
trung tìm hiểu những vấn đề văn hóa và con người Tây Nguyên trong tác phẩm
văn xuôi nghệ thuật (tiểu thuyết, truyện ngắn và một số tác phẩm ký giàu tính

nghệ thuật) từ năm 1945 đến năm 2000.
Ngoài ra người viết còn tham khảo văn học dân gian Tây Nguyên, nhất là
sử thi để có được một cái nhìn hệ thống và biện chứng các giá trị văn hóa trong
văn học. Và người viết cũng sẽ xem xét những tác phẩm văn xuôi viết về Tây
Nguyên sau năm 2000 để cảm nhận đầy đủ hơn một diện mạo văn học. Đồng
thời cũng sẽ tìm hiểu tất cả những công trình nghiên cứu về văn học, văn hóa
Tây Nguyên từ xưa đến nay nhằm xác định hướng đi mới của mình, tránh sự
trùng lặp. Để tiện so sánh, người viết cũng tham khảo những tác phẩm viết về
miền núi phía Bắc và các vùng miền khác.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 Phương pháp xã hội học
Được vận dụng để nhìn nhận cơ sở xã hội của sáng tác và tiếp nhận, từ
đó phân tích hiệu quả nghệ thuật của mối quan hệ tương tác giữa xã hội và văn
học. Cơ sở xã hội của văn học viết về Tây Nguyên chính là xã hội Tây Nguyên

14
trong một khung thời gian nhất định làm nền cho những giá trị văn hóa và con
người trong văn học.
4.2 Phương pháp hệ thống
Để có được cái nhìn cụ thể và lôgíc về vấn đề văn hóa và con người Tây
Nguyên, người viết sẽ đặt các nội dung một cách hệ thống theo trục dọc trong
các tác phẩm, từ đó mà phân tích khái quát nhằm làm nổi rõ vấn đề.
4.3 Phương pháp liên ngành
Để vấn đề được nhìn nhận, đánh giá một cách thấu đáo, người viết vận
dụng những kiến thức về xã hội học, dân tộc học, lịch sử, tôn giáo, chính
trị…để giải mã, cắt nghĩa các hiện tượng văn học. Trong quá trình tìm hiểu,
phân tích những giá trị văn hóa và đặc điểm con người, người viết không tách
rời tác phẩm văn chương với môi trường, thời đại và đặc trưng thẩm mỹ của
văn học.
4.4 Phương pháp so sánh, đối chiếu

So sánh tác phẩm viết về Tây Nguyên với tác phẩm viết về các vùng đất
khác. So sánh sáng tác của các tác giả với các tác phẩm văn học dân gian tiêu
biểu. Đối chiếu với đời sống văn hóa và con người trong thực tế để thấy được
giá trị hiện thực cũng như giá trị biểu hiện của hình tượng.
4.5 Thao tác phân tích, tổng hợp
Người viết chủ yếu đi vào phân tích những biểu hiện văn hóa cũng như
tính cách con người Tây Nguyên để làm hiện lên một cách rõ ràng các giá trị về
văn hóa và con người trong văn học. Từ đó khái quát đặc trưng văn hóa con
người Tây Nguyên trong hệ thống văn hóa, con người Việt Nam.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Như đã nói ở trên, nghiên cứu đề tài này, người viết muốn đem đến một
cái nhìn tổng thể toàn bộ sáng tác văn xuôi về Tây Nguyên. Và nó có tính chất

15
mở đường cho nghiên cứu về văn học viết về Tây Nguyên một cách có hệ
thống.
Luận án góp phần làm nổi lên bức tranh văn hóa Tây Nguyên từ nhiều
đường nét, màu sắc độc đáo để có thể khẳng định giá trị của một nền văn hóa có
thể sẽ một đi không trở lại nếu không được hiểu đúng và ứng xử đúng về nó.
Luận án cũng góp phần vào việc phân tích tính cách và đặc điểm hình
tượng con người Tây Nguyên thông qua cuộc sống sinh hoạt, lao động và chiến
đấu của họ để từ đó có thể rút ra được những ý nghĩa sâu xa về sự tồn sinh, về
nhân sinh quan tốt đẹp mà con người càng văn minh càng dễ bị đánh mất.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung được triển khai như sau:
Chương 1: Văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945-2000.
Chương 2: Con người Tây Nguyên trong xuôi nghệ thuật 1945-2000.
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện văn hóa con người Tây Nguyên trong văn
xuôi nghệ thuật 1945-2000.




CHƯƠNG 1
VĂN HÓA TÂY NGUYÊN
TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT 1945 - 2000
1.1 Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
Văn hóa là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Có rất nhiều định nghĩa
về văn hóa khác nhau bởi mỗi người đứng dưới một góc độ để xem xét. Tuy
nhiên dù ở phương diện nào cũng không nằm ngoài việc xác định văn hóa là
toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong trường kỳ lịch sử để phục

16
vụ cho sự tồn tại của mình. Trong hàng trăm định nghĩa về văn hóa, có nhiều
định nghĩa đã làm nổi rõ điều đó. Như định nghĩa của E.B. Tylor: “Văn hóa là
một phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập
quán cùng mọi khả năng và thói quen khác mà con người như một thành viên
của xã hội đã đạt được”[80, tr.10]. Định nghĩa của UNESCO:”Văn hóa là tổng
thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ
hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền
thống và các thị hiếu- những yếu tố xác định đặc tính riêng của từng dân
tộc”[80, tr. 10]. Từ những quan niệm về văn hóa, chúng ta thấy văn hóa có mặt
trong toàn bộ đời sống của xã hội loài người. Mọi sự sáng tạo có giá trị của con
người đều là văn hóa. Tuy nhiên cũng cần phải khu biệt khái niệm để cho công
việc nghiên cứu văn hóa tránh sự trùng lặp với nhiều ngành khoa học khác. Văn
hóa, theo cách hiểu thông thường nhất, chính là bộ mặt tinh thần và vật chất của
xã hội. Văn hóa làm nên diện mạo của dân tộc này so với dân tộc khác. Văn hóa
phản ánh mọi mặt đời sống của một dân tộc. Muốn tìm hiểu bản sắc của một
dân tộc thì không có cách nào khác hơn là phải đi khảo sát văn hóa của dân tộc
đó. “Bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc bắt nguồn từ trong sức sống, khả năng
sinh tồn của dân tộc ấy. Văn hóa là cái có tính chất nội sinh, vì vậy bản sắc văn

hóa cũng là vẻ đẹp tự nhiên, là thuộc tính của mỗi nền văn hóa”[99, tr.45]. Văn
hóa là sản phẩm của một cộng đồng người được hình thành và phát triển trong
suốt chiều dài lịch sử. Trong ý nghĩa đó, mỗi một dân tộc dù ở trình độ văn
minh nào thì cũng đều có nền văn hóa riêng của dân tộc mình. “Không có dân
tộc nào lại không có văn hóa và cũng không có văn hóa nào lại không gắn liền
với cuộc sống của một dân tộc cụ thể. Dân tộc là cội nguồn vĩnh cửu, là mảnh
đất vô biên của văn hóa” [270, tr. 56]. Nền văn hóa ấy biểu hiện cụ thể trong
đời sống vật chất cũng như tinh thần, trong cuộc sống lao động và chiến đấu
của họ trước sức mạnh của tự nhiên, trước sự khống chế của dân tộc khác.

17
Là nhân tố quan trọng bậc nhất, văn học của một dân tộc góp phần làm
nên bản sắc văn hóa của dân tộc đó. Dòng chảy của văn học có nguồn mạch từ
những giá trị văn hóa dân tộc, cho nên: “Văn học nếu có chức năng phản ánh
hiện thực thì cũng không thể phản ánh trực tiếp được mà chỉ có thể phản ánh
thông qua lăng kính văn hóa, thông qua “bộ lọc” của cá giá trị văn hóa [258,
tr.67]. Văn học, trong ý nghĩa chung nhất là sản phẩm tinh thần dân tộc. Khi nói
đến văn học của một dân tộc người ta hay nghĩ đến văn hóa của dân tộc đó. Và
khi nói đến văn hóa của dân tộc người ta cũng quan tâm hàng đầu đến văn học.
Những tác phẩm văn học có giá trị, được cộng đồng chấp nhận, trường tồn cùng
thời gian thì đó cũng là sản phẩm văn hóa của dân tộc. Một tác phẩm văn học
độc đáo, vượt ra ngoài biên giới một quốc gia, có tính nhân loại thì trước hết tác
phẩm ấy phải có tính dân tộc sâu sắc. Như vậy, văn hóa chính là cái nôi nuôi
dưỡng cho văn học, tạo cho văn học một sắc thái riêng, mang đậm hơi thở của
dân tộc mình. Về phần mình, văn học lại góp phần quan trọng trong việc tôn
tạo, bổ sung những giá trị văn hóa làm cho đời sống văn hóa ngày càng phong
phú hơn. Văn học luôn có những tác động tích cực đến văn hóa. Văn học như
một tấm gương phản chiếu đời sống xã hội và văn hóa dân tộc. Các tác phẩm
văn học có thể giúp người ta nhận thức rõ hơn về hiện thực cuộc sống, ý thức
sâu sắc hơn về cộng đồng, về dân tộc, về truyền thống lịch sử…Văn học cùng

với các hình thức nghệ thuật khác cũng là nơi giữ gìn các giá trị văn hóa cổ xưa.
Nhà văn bao giờ cũng có công lớn trong việc xây dựng các giá trị văn hóa, định
hướng những chuẩn mực thẩm mỹ để hình thành tính nhân văn trong phẩm chất
con người của dân tộc mình.
Văn học là một bộ phận của văn hóa, nó nằm trong cái tổng thể văn hóa.
Quan hệ giữa văn học với văn hóa là quan hệ có tính biện chứng giữa cái tổng
thể và cái bộ phận. Mà cái tổng thể bao giờ cũng chi phối cái bộ phận, cái bộ
phận chịu sự qui định của cái tổng thể. Cái riêng chỉ tồn tại trong mức độ nó

18
liên hệ với cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng.
Nói như thế không có nghĩa là văn học không có những qui luật riêng của mình,
không có con đường đi riêng của mình. Cũng như cây xanh bám rễ từ đất để
vươn lên bầu trời cao rộng, văn học có gốc rễ từ văn hóa dân tộc nhưng nó có
xu hướng vươn tới những giá trị mới để hình thành những chuẩn mực thẩm mỹ
mới. Nhưng những ngả đường dù có phong phú đến đâu nó cũng không vượt ra
ngoài “khoảng trời văn hóa” mà nó tồn tại. Giá trị văn hóa là kết quả của quá
trình hoạt động có ý thức của con người được thời gian gạn lọc, một khi được
hình thành thì nó bao giờ cũng tác động tích cực đến ý thức cũng như hành
động của con người, khi đó mọi hoạt động của con người đều bị chi phối bởi
giá trị ấy.
Với phạm vi khái quát đời sống rộng lớn của mình: tâm hồn, tư tưởng,
tình cảm, khát vọng, ý chí…của con người; phong tục, đạo đức, pháp luật,
truyền thống, triết học, tín ngưỡng, tôn giáo…của xã hội; văn học là một bộ
phận quan trọng bậc nhất của văn hóa. Vai trò to lớn đó đã khẳng định rằng,
nghiên cứu văn hóa không thể không quan tâm đến văn học, đặc biệt là những
nền văn hóa trong đó văn học đóng vai trò trung tâm như văn hóa Việt Nam.
Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa ở nước ta khi khái quát đặc điểm, bản sắc văn
hóa dân tộc đã lấy cơ sở từ nhiều cứ liệu văn học, nhất là từ kho tàng tục ngữ,
ca dao và những tác phẩm cổ điển của văn học thành văn của dân tộc. Xem các

giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam sẽ thấy rõ điều đó.
Ở phía ngược lại, nghiên cứu văn học bao giờ cũng làm nổi bật các giá trị
văn hóa mà nó chứa đựng, có như vậy mới có thể khám phá một cách đầy đủ và
có chiều sâu một tác phẩm văn học, và quan trọng hơn là tránh được xu hướng
đơn giản hóa, dung tục hóa tác phẩm. Dù muốn hay không, có ý thức hay không
có ý thức phản ánh, thì văn hóa bao giờ cũng tồn tại trong văn học. Bởi nhà văn
bao giờ cũng là một con người cụ thể của một giai tầng và dân tộc, một thời đại

19
cụ thể; bởi thế giới nghệ thuật của anh ta bao giờ cũng tồn tại dưới một “bầu
trời” văn hóa cụ thể. Vì vậy, nghiên cứu văn học không thể tách rời văn học với
nhiều yếu tố khác có liên quan, trong đó văn hóa là một cơ sở quan trọng.
Không thể hiểu một cách sâu sắc và đúng đắn tác phẩm văn học nếu không đặt
nó vào cơ sở văn hóa.
Ngành nghiên cứu văn hóa ra đời và phát triển sau ngành nghiên cứu văn
học rất lâu. Khi lý luận về nghiên cứu văn hóa được du nhập vào nước ta, thì
đồng thời với nó lý luận về sự giao thoa giữa văn hóa và văn học cũng được
giới thiệu. Và với mối liên hệ nội tại của văn hóa và văn học, nghiên cứu văn
học ở phương diện văn hóa đã nhanh chóng phát triển nhờ vào ưu thế nổi bật
của nó trong việc khám phá nhiều giá trị sâu sắc và phong phú của văn chương.
Nếu con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội thì văn chương là tổng hòa
các hình thái ý thức của con người. Nếu con người luôn có ý thức vượt thoát
những giới hạn của sự hiểu biết thì nghiên cứu văn học cũng luôn có xu hướng
thoát khỏi những ràng buộc có tính truyền thống của mình để khám phá nhiều
chiều kích mới, đó là cơ sở để chúng ta tiếp nhận nhiều trường phái lý luận văn
học mới. Nghiên cứu văn học không chỉ giới hạn trong tính nghệ thuật, chức
năng thẩm mỹ, cấu trúc ngôn từ nghệ thuật, hệ thống thi pháp, cá tính sáng tạo,
tư duy hình tượng v.v… mà luôn mở rộng phạm vi của lý thuyết hệ thống để đi
vào những chân trời mới. Nghiên cứu văn hóa trong văn học nằm trong xu
hướng ấy.

Trong các thể loại văn học thì văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết có sức
khái quát đời sống xã hội vô cùng rộng sâu, cho nên nó có ưu thế rất lớn trong
việc đi vào các nguồn mạch văn hóa, phản ánh các giá trị văn hóa một cách toàn
diện và đầy đủ nhất. Tất nhiên, văn hóa trong văn học thường được thể hiện
một cách “nghệ thuật” chứ không phải chỉ là sự miêu tả ở phạm vi “hiện thực”
của nó. Tuy nhiên, trong nhiều tác phẩm, các giá trị văn hóa- nhất là phong tục,

20
tập quán của người Tây Nguyên- chỉ được “sao chụp” lại. Bên cạnh đó cũng có
nhiều truyện ngắn phản ánh văn hóa Tây Nguyên chỉ với mục đích là truyền bá
hơn là biểu hiện nên người đọc tiếp nhật các giá trị ấy như là trong một tác
phẩm ký. Nhưng dẫu sao văn hóa Tây Nguyên đã đem đến cho các tác phẩm
văn xuôi nghệ thuật viết về Tây Nguyên nhiều màu sắc sinh động, hấp dẫn
người đọc bởi tính kỳ lạ độc đáo và đậm chất nguyên sơ. Ngược lại, chính các
tác phẩm ấy đã làm hiện lên một cách khá hoàn chỉnh bức tranh văn hóa Tây
nguyên đa sắc màu và đậm chất nhân văn để độc giả có thể hiểu và mến yêu
cuộc sống của con người nơi đây. Tác phẩm văn xuôi của Nguyên Ngọc, Trung
Trung Đỉnh, Y Điêng...chính là chiếc cầu nối để người đọc có thể đến với một
vùng văn hóa đặc sắc ở Việt Nam. Sự đặc sắc của văn hóa Tây Nguyên được
thể hiện khá đầy đủ trong các tác phẩm văn xuôi nghệ thuật. Ở đó chúng ta sẽ
được tiếp xúc với một nền văn hóa vô cùng phong phú: sự hiền minh của rừng,
niềm kiêu hãnh của làng, sự huyền hoặc của cồng chiêng, sự linh thiêng của
lửa, sự “ngọt ngào” của nước, tính đa chức năng của nhà rông, cái độc đáo của
rượu cần, sự đa dạng của lễ hội, sự kỳ lạ của những đêm kể khan v.v…
1.2 Rừng, bản nguyn của sự sống Tây Nguyên
Mỗi cộng đồng người đều gắn bó với những không gian sống cụ thể.
Không gian hay môi trường tự nhiên ấy có ảnh hưởng không nhỏ đến đặc điểm
tính cách của con người, từ đó mà góp phần hình thành nên diện mạo văn hóa.
Văn học phản ánh đời sống qua những hình tượng cụ thể, và thông qua các hình
tượng ấy mà khái quát một vấn đề nhân sinh nào đó. Trong quá trình tái hiện

đời sống, nhà văn luôn chọn không gian cho nhân vật hoạt động. Sự chọn lựa ấy
phụ thuộc vào ý đồ biểu hiện của nhà văn, đồng thời cũng phụ thuộc vào môi
trường trực tiếp. Đối với người Tây Nguyên, môi trường sống của họ là rừng.
Rừng là bản nguyên của sự sống nên rừng cũng là cội nguồn của văn hóa nơi
đây.

21
Tại sao nói rừng là bản nguyên của sự sống Tây Nguyên?
Khác với người Chăm phần lớn định cư ở vùng duyên hải nam Trung bộ,
người Khơ-me định cư ở hạ lưu sông Mêkông; các dân tộc Tây Nguyên sống ở
miền rừng núi - một vùng “rừng thiêng nước độc” đối với người Kinh. Ở Tây
Nguyên, trừ những khoảng đất của làng ra còn lại là rừng, rừng mênh mông bất
tận. Sự phong phú của rừng đã tạo dựng cho cư dân nơi đây một cuộc sống lấy
rừng làm điểm tựa, cả vật chất lẫn tinh thần. Người Tây Nguyên bước ra khỏi
làng là đến rừng. Về cơ bản, làng là văn hóa, rừng là tự nhiên. Cái thế giới tự
nhiên ấy vừa thân tình vừa bí hiểm, vừa hiền lành vừa dữ dội, vừa hiện thực
vừa huyền thoại. Nhà dân tộc học Jacques Dournes trong Rừng, đàn bà, điên
loạn có viết: “Con người đứng trên một thế cân bằng kỳ lạ, và kỳ diệu: họ đứng
“mấp mé”giữa làng và rừng, giữa văn hóa và hoang dã, giữa “cô gái làng” và
“cô gái rừng”[82, tr.11]. Nói chung, rừng Tây Nguyên là tài nguyên vật chất,
đồng thời là cội nguồn tâm linh. Rừng luôn ám ảnh con người nên rừng luôn
hiện hữu trong các tác phẩm văn chương viết về Tây Nguyên. Do ra đời vào
“thời thơ ấu của loài người” nên trong thần thoại sử thi, rừng là một thế giới
huyền bí linh thiêng, là nơi ngự trị của thần linh ma quái với một sức mạnh dữ
dội sẵn sàng đe dọa bất cứ ai. Trong văn học viết, rừng được phản ánh một cách
khoa học và biện chứng hơn, nhưng các tác giả cũng không thể không quan tâm
tâm đến tính linh thiêng của rừng; tức là “cô gái rừng” trong huyền thoại Tây
Nguyên vẫn không thể không ám ảnh các nhà văn, nhất là những nhà văn đã
từng sống nhiều với cư dân bản địa. Vì thực tế, người Tây Nguyên vẫn rất “sợ”
rừng, vì rừng già chứa đầy bí ẩn: “Càng đi vào trong, cây cối càng rậm dày

hơn, nhiều thân cây cao vút thẳng, che rợp bóng xuống thâm u, lá cành đều
mọc một lớp lông dài để chống khí lạnh quanh năm bốc tỏa từ trong thớ đất ẩm
ướt tuôn đầy lá mục. Một chất meo mốc quánh dẻo đóng vàng bên ngoài làm
cho hình dáng cây cối trở nên cổ quái và kinh dị” [15, tr.33]. Dẫu vậy, họ vẫn

×