Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tăng Bạt Hổ- Tấm Gương Kiên Trung của Phong Trào Đấu Tranh Giải Phóng Dân Tộc ở Việt Nam đầu thế kỷ XX doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.63 KB, 6 trang )

Tăng Bạt Hổ- Tấm
Gương Kiên Trung của
Phong Trào Đấu Tranh Giải
Phóng Dân Tộc ở Việt Nam
đầu thế kỷ XX





Từ nửa sau thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước Việt Nam,
đặt ách thống trị và áp bức bóc lột dân tộc Việt Nam. Để bảo vệ chủ
quyền dân tộc, toàn thể dân tộc Việt Nam không ngừng nổi lên chống
thực dân Pháp bằng các cuộc khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi
nghĩa, làm nên Cách mạng Tháng tám thành công. Nhìn lại một chặng
đường lịch sử chiến đấu và chiến thắng kẻ thù của dân tộc ta từ hơn
một thế kỷ qua, chúng ta ghi nhận rất nhiều tấm gương chiến sỹ kiên
trung đã giành cả cuộc đời cho tổ quốc. Tăng Bạt Hổ là một trong
những tấm gương đó. Trong quá trình hoạt động cách mạng cứu nước
của mình, Tăng Bạt Hổ đã cùng các đồng chí của mình sáng lập ra
Duy Tân Hội với tôn chỉ: “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam,
thành lập nước quân chủ lập hiến, và vạch ra kế hoạch tiến hành,
trong đó có vấn đề “cầu ngoại viện”. Đầu năm 1905, Tăng Bạt Hổ,
Phan Bội Châu cùng các đồng chí của mình vượt biển sang Nhật Bản
“cầu viện”. Việc không thành, các đồng chí trong Duy Tân Hội lập tức
chuyển thành “cầu học” và kịp thời phát động một phong trào tuyển
chọn thanh niên yêu nước qua Nhật Bản học tập, đào tạo nhân tài để
chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước “Việt
Nam mới” văn minh tiến bộ. Phong trào này gọi là phong trào Đông
Du. Những hoạt động trong những năm đầu thế kỷ 20 của các chiến
sỹ trong phong trào Đông Du nói chung và Tăng Bạt Hổ nói riêng rất


sôi động nên liên tục bị thực dân Pháp tìm cách ngăn chặn, và phong
trào Đông Du bị thất bại có nguyên nhân chính từ đó. Tuy không
thành nhưng phong trào Đông Du mà trong đó Tăng Bạt Hổ được xem
là một nhân vật hướng đạo luôn được dân tộc Việt Nam tôn vinh là
tấm gương của truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc nối liền giai
đoạn cần vương chống Pháp thất bại đến với giai đoạn chống Pháp
thắng lợi.

TĂNG BẠT HỔ- MỘT KHÍ PHÁCH CỦA CON HỔ RỪNG GIÀ

Bước vào thời kỳ cận đại, một lần nữa nền độc lập và chủ quyền của
nước ta được đánh đổi bằng xương máu của biết bao nhiêu thế hệ lại
được đem ra thử thách. Từ tiếng súng đầu tiên thực dân Pháp nổ ở Đà
Nẵng năm 1858 cho đến nửa đầu thế kỷ XX, gần một trăm năm với
rất nhiều hi sinh mất mát, với những đấu tranh không ngừng để sửa
chữa và khắc phục sai lầm, chúng ta đã giành được độc lập, trước một
đối thủ có tiềm lực mạnh hơn gấp nhiều lần. Có thể nói, chưa có thời
điểm nào, bộ mặt chính trị nước ta lại sôi động và phức tạp đến như
thế. Sự thay thế lẫn nhau của các khuynh hướng dưới tác động của
nhiều luồng tư tưởng trong và ngoài nước đã tạo nên một diện mạo
mới cho cách mạng Việt Nam. Trong số những con đường giải phóng
dân tộc ấy, có một con đường thoạt nhìn thì có vẻ hơi khác so với
truyền thống đánh giặc giữ nước được bồi đắp suốt chiều dài lịch sử,
song về cơ bản, vẫn là một bộ phận của dòng chảy tư tưởng cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đó là con đường canh tân đất nước, đổi mới tư
duy mà đại diện tiêu biểu là dòng canh tân của các sĩ phu yêu nước,
một trong những đại biểu xuất sắc là Tăng Bạt Hổ. Tăng Bạt Hổ, tên
của ông gắn liền với một giai thoại lý thú, nói lên bản lĩnh của ông lúc
chưa đầy 30 tuổi: Tháng Giêng năm Đinh Hợi - 1897, sau ngày chiến
đấu chống bọn thực dân Pháp và bọn tay sai phản động không thành,

ông tìm đường sang Thái Lan cầu viện, cứu nước. Khi đi đến đèo Dốc
Đót, giáp giới cao nguyên An Khê - Bình Định, ông gặp một con cọp
chặn giữa đường, mấy người theo ông ai cũng lo, có người run như
cầy sấy. Tăng không chút sợ hãi, nhìn thẳng vào con cọp. Cọp phải
tránh sang một bên cho ông và các người cùng đi qua đèo. Từ đó, các
người cùng đi tôn ông là Tăng Bạt Hổ. Câu chuyện "bạt hổ" của Tăng
được truyền tụng trong dân gian, nơi làng quê Bình Định, vốn giàu
truyền thống yêu nước, bất khuất. Con đường cứu nước của ông, với
hành trang ngót 30 năm trên chiều dài đất nước, từ miền Trung Trung
Bộ ra Hà Nội, lên Sơn Tây, Cao Bằng và đến tận Thái Lan, Trung
Quốc, Nga, Nhật Bản xa xôi, để lại biết bao kỷ niệm và nghĩa tình sâu
lắng trong nhân dân trên mọi miền đất nước và bầu bạn xa gần từ
cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đến nay.

Tăng Bặt Hổ tên thật là Tăng Doãn Văn, hiệu Điền Bát, bí danh Lê
Thiệu Dần, sanh năm Mậu Ngọ (1858), tại làng An Thường, huyện
Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Thông minh, hiếu học, tuổi mới 14, 15 mà đã
nổi tiếng là bụng chứa đầy sách. Nhưng lại ghét lối văn cử tử mà
người đương thời đua nhau rèn luyện để chờ khoa xuân, khoa thu, cho
nên ông dùng thì giờ rèn văn để luyện võ. Ông có sức mạnh phi
thường. Lúc mới 11, 12 tuổi mà đã vác nổi một khúc gỗ mà phải hai
người khiêng, và lớn lên đã nhảy khỏi hàng rào cao lút đầu với hai
thùng thiếc đầy nước nơi hai tay. Ông giỏi quyền thuật, lại sở trường
về kiếm. Chí sĩ Tăng Bạt Hổ là một nhân vật tiêu biểu trong phong
trào yêu nước chống Pháp vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Tuy
nhiên, người Bình Định không phải ai cũng biết là mộ phần của ông
hiện nằm ở Bến Ngự (thành phố Huế), ngay trong khuôn viên vườn
nhà và mộ phần Phan Bội Châu Ngay trên đỉnh dốc Bến Ngự là khu
vườn nhà và lăng mộ của Sào Nam Phan Bội Châu. Nơi đây có mộ,
ngôi nhà tranh và nhà thờ Phan Bội Châu cùng bức tượng cụ Phan đúc

bằng đồng. Nằm sát cổng chính của khu vườn, là ngôi mộ nhà chí sĩ
yêu nước Tăng Bạt Hổ nằm yên bình, dưới những bóng cây. Mộ xây
gạch, có tường bao, nhuốm màu thời gian, bên trong là một tấm bia
bằng chữ Hán, ngoài có tấm biển nhỏ đề: Lăng mộ Tăng Bạt Hổ. Tăng
Bạt Hổ mất ở Huế thì ai cũng rõ, sách nào cũng viết, nhưng tại sao
mộ phần ông lại được táng ở trong khu vườn nhà và lăng mộ Phan Bội
Châu? Trong khi đó, tập san kỷ niệm 30 năm giải phóng Hoài Ân lại
viết: "Mộ phần ông (Tăng Bạt Hổ) hiện nay nằm ở Hương Trà". Hồi ký
Tự phán của Phan Bội Châu viết: "Mùa xuân năm Bính Ngọ (1906),
ông (Tăng Bạt Hổ) tự Bắc Kỳ chạy khắp khoảng Thanh, Nghệ, Tịnh,
Bình, ngày nghỉ đêm đi sức hao lòng mỏi. Mùa đông năm ấy, đến Kinh
Huế nào ngờ ông xanh xao quá, việc chẳng như lòng, kịp đến nhà
cụ Võ ở An Hòa (Huế) bệnh phát nặng. Cụ Võ (Võ Bá Hạp, người đồng
chí của Phan Bội Châu) vì giữ tai mắt người ngoài, thuê một thuyền
con đậu dưới bến, khuya sớm phụng dưỡng ông, mới có vài tuần mà
ông đã tạ thế trong thuyền". Theo khảo sát của nhà nghiên cứu
Nguyễn Đắc Xuân, sau khi cụ Tăng Bạt Hổ mất, cụ Cử Võ cùng các
đồng chí đồng sự đã đem táng thi hài cụ Tăng trên một gò cao thuộc
ấp Thế Lại Thượng. Năm 1956, cụ Lê Ngọc Nghị, một nhân sĩ đã cùng
với một số hậu duệ các bậc tiền bối hợp tác cùng thân hào xã Thế Lại
Thượng tổ chức lễ truy điệu và cải táng hài cốt Tăng Bạt Hổ lên chôn
tại khu vườn nhà và lăng mộ Sào Nam Phan Bội Châu như hiện nay.
Cũng cần nói thêm về khu vườn này. Đây nguyên là nơi ở của cụ Phan
Bội Châu trong suốt 15 năm cụ bị giam lỏng ở Huế (từ 1925 đến
1940). Tiền mua đất và dựng nhà do đồng bào cả nước góp. Khi mất,
cụ Phan được cụ Huỳnh Thúc Kháng và các nhà yêu nước đương thời
táng ngay trong vườn nhà. Đồng thời, ngay bên cạnh ngôi nhà tranh
của cụ, cụ Huỳnh làm thêm một ngôi nhà nhỏ để thờ cụ Phan. Sau
cuộc kháng chiến chống Pháp, khu vườn, lăng mộ và nhà thờ bị tiêu
điều. Những người còn tưởng nhớ đến cụ Phan đã thành lập một ủy

ban xây dựng nhà thờ cụ Phan do bác sĩ Thân Trọng Phước đứng đầu.
Tháng 10 năm 1956, công việc xây dựng hoàn tất. Những người có
trách nhiệm thời bấy giờ đã đưa tên tuổi các nhà yêu nước khác trong
phong trào chống Pháp khởi đầu từ Thủ khoa Huân, Trương Định, cho
đến các nhà yêu nước trong phong trào Cần Vương, văn thân Đông
Du, khởi nghĩa Thái Nguyên, Yên Bái… vào thờ chung với Phan Bội
Châu và nhà thờ cụ Phan trở thành Nhà thờ Việt Nam Liệt sĩ cách
mạng và Phan Bội Châu tiên sinh. Cụ Tăng Bạt Hổ, một chí sĩ của
phong trào Cần Vương và Đông Du, nên hài cốt cũng được đưa về
táng ở đây. Người Bình Định sau này hể ai có dịp ghé đất Thần Kinh,
thường ghé và thắp hương tưởng niệm chí sĩ Tăng Bạt Hổ và các anh
hùng, nghĩa sĩ.

×