Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Diễn xướng ca dao theo dòng thời gian doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.72 KB, 7 trang )

Diễn xướng ca dao theo
dòng thời gian







3. Nói, kể - những hình thức diễn xướng mới của ca dao hiện đại
3.1 Hoàn cảnh lịch sử - xã hội và nhu cầu sáng tạo thưởng thức của tầng lớp công
chúng mới
Có thể nói, hoàn cảnh lịch sử - xã hội mới là nhân tố đầu tiên thúc đẩy sự vận động
biến đổi của hình thức diễn xướng ca dao. Nếu như, trước Cách mạng tháng Tám, hình thức
diễn xướng của ca dao cổ truyền (thực chất là diễn xướng trong sinh hoạt dân ca) chủ yếu là
hát thì sau Cách mạng tháng Tám, hình thức nói, kể và một số cách thức biểu hiện đa dạng
khác chiếm ưu thế trong diễn xướng ca dao hiện đại. Tuy nhiên, như đã xác định, diễn
xướng không đơn giản lúc nào cũng chỉ thể hiện bằng lời lẽ, âm thanh, nhịp điệu. Đi kèm
với các yếu tố còn có cử chỉ, động tác và những yếu tố mang tính chất ma thuật nếu là diễn
xướng gắn với nghi lễ.
Nhưng những yếu tố cụ thể nào tác động vào quá trình sáng tạo, giao tiếp nghệ thuật
không chuyên trong giai đoạn lịch sử từ 1945 đến nay. Trước hết, phải nói rằng, đó là hoàn
cảnh lịch sử đất nước đang có chiến tranh: ba mươi năm vừa kiên cường trong kháng chiến,
vừa gian khổ chi viện cho tiền tuyến và xây dựng đất nước. Môi trường sinh hoạt văn hóa văn
nghệ dân gian, chủ thể sáng tạo của ca dao thời kỳ đó cũng có sự biến động. Trước năm
1945, sinh hoạt ca hát dân gian, trong đó có diễn xướng ca dao diễn ra chủ yếu trong khung
cảnh làng quê yên bình, thơ mộng. Chủ thể sáng tạo, lưu truyền và thưởng thức ca dao là
những người dân quê bình dị, chăm chỉ trong cuộc mưu sinh nơi ruộng đồng thôn xóm.
Những điều họ quan tâm và nói tới trong sinh hoạt ca hát dân gian liên quan nhiều đến đời
sống tâm hồn, tình cảm, đặc biệt là tình yêu lứa đôi. Cảm hứng trữ tình trong những lời ca mà
họ trình diễn thường là cảm hứng về đời tư, trong đó chú tâm hơn đến thân phận người phụ


nữ. Khi vào cuộc hát, người dân quê thường hoặc là tinh nghịch, lém lỉnh trêu ghẹo bạn hát:
Cô kia đứng ở bên sông,
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.
Hoặc là kín đáo, ý tứ hỏi han:
Mình ơi ta hỏi thực mình,
Còn không hay đã chung tình với ai?
Hôm qua tát nước gầu dai,
Có phải nhân ngãi hay ai tát cùng?
Có thể thấy sự thong thả, yên lành, bình lặng của nếp sống thôn quê thời bình với
những con người lạc quan, yêu đời, ham sống dù cuộc đời thực có vô vàn khó khăn, trắc trở.
Đó là cái nền, là chất xúc tác làm nảy sinh những vần thơ dân gian truyền thống.
Khác xa với môi trường sinh hoạt ca hát trước Cách mạng, những năm sau Cách mạng
vừa là thời kỳ sục sôi ra trận đánh giặc vừa là giai đoạn khắc phục khó khăn để cải thiện cuộc
sống, dựng xây đất nước. Chủ thể sáng tạo, lưu truyền, diễn xướng cũng thường là những
người dân quê bình dị nhưng mang tư cách và tâm thế mới của người ra trận và của người
làm chủ cuộc sống mới.
3.2 Nói, kể với những biểu hiện phong phú khác của giao tiếp nghệ thuật trực tiếp
Thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám đến nay, những truyền thống nghệ thuật tốt đẹp của
ca dao, dân ca Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển và trong những tình huống sinh hoạt văn hóa
độc đáo, nhiều “nghệ nhân dân gian” đã thể hiện tài năng ca hát, ứng tác linh lợi và cách thức
diễn xướng mới lạ đến không ngờ.
Có thể hình dung ra ít nhiều nhịp độ cuộc sống chiến đấu, lao động khẩn trương ở thời
kỳ lịch sử mới và những tình huống sinh hoạt văn hóa, văn nghệ thời chiến qua khung cảnh
sinh hoạt văn nghệ của một đơn vị bộ đội - dân công thời chống Pháp. Đó là đêm sinh hoạt
văn nghệ trong khuôn khổ truyền thống cũ do nhà văn Trần Đăng ghi lại vào thu đông năm
1949 như sau: “Xẩm tối, anh chính trị viên xem đồng hồ nhẩm tính một chương trình sinh
hoạt văn nghệ cấp tốc Kiểm thảo nội bộ không còn gì để kiểm thảo nữa, ở các nhà, các
trung đội đã bắt đầu vui hát. Chèo Ét ti pô tẩu mã cười nôn ruột. Thơ. Tình quân dân, ý nghĩa
là anh bộ đội đi giết giặc, tôi là dân ở nhà tăng gia sản xuất. Những lời thơ hai người ngâm
đối đáp văn hoa rất dài.Giọng ngâm tốt sang sảng của hai đội viên thi nhau ngân dài và đọc l

ra n: "Anh nà chiến sĩ ngàn phương", "Tôi đi tô thắm điệu đời đêm lay" Nghe phơi phới,
non trẻ, tươi thắm lạ thường”
(16)
.
Những mô tả sinh động về các cuộc hát đối đáp, hình thức lưu truyền ca dao đối đáp
trong lao động, chiến đấu là những minh chứng chân thực nữa về sức sống của ca dao, đặc
biệt là những hình thức diễn xướng đa dạng của ca dao Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.
Đó là những cuộc hát đối đáp của các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong trong lao động ,
trên đường đi tiếp vận tải lương. Đó là cách lưu tryền ca dao độc đáo: dán trên báng súng, ba
lô, gài vào nắm cơm, gửi ra trận địa.
Trong những thập niên cuối thế kỷ XX và đặc biệt những năm đầu thế kỷ XXI, hình
thức diễn xướng nói, kể được sử dụng khá phổ biến như một phương tiện đặc thù của ca
dao hiện đại. Hầu như ở bất kỳ môi trường giao tiếp nào: nông thôn hay thành thị, bên bàn
trà, chén rượu hay bên lề các cuộc họp; đối với bất kỳ tầng lớp công chúng nào: công nhân,
nông dân, tri thức Mọi người đều hào hứng sáng tạo lưu truyền, diễn xướng những lời thơ
dân gian như để giải tỏa nỗi lòng, bày tỏ quan điểm sống, châm biếm phê phán những hiện
tượng trớ trêu không lành mạnh đang ngự trị ngang nhiên trong đời sống xã hội. Nói như vậy
không có nghĩa là hình thức diễn xướng “hát” đã diễn ra trong lịch sử không còn mà chỉ
muốn khẳng định rằng hình thức diễn xướng của ca dao hiện đại chủ yếu, cơ bản là nói và kể.
Có thể đơn cử một vài ví dụ về sự tồn tại của những lời ca dao cùng những hình thức
diễn xướng đó. Những nội dung sâu sắc, thâm thúy của lời thơ được truyền tải qua nghệ
thuật ngôn từ ngắn gọn, bằng hình thức diễn xướng trực tiếp, “cơ động”, gây được ấn tượng
và lưu lại trong tâm trí người sáng tạo, thưởng thức. Cũng cần nói thêm rằng, những lời thơ
dân gian trong thời bình ngày càng nghiêng về xu hướng châm biếm, phê phán. Thói hư tật
xấu, tệ nạn xã hội trở thành đối tượng chính để dân gian đả kích. Trong nhịp sống khẩn
trương, sôi động thời hiện đại, nói, kể là hai hình thức diễn xướng tỏ ra phù hợp, đắc dụng.
Chẳng hạn một anh chồng nào đó yếu bóng vía hay không may bị “cắm sừng” đều
có thể giật mình khi có người tinh quái đọc cho nghe mấy câu ca sau:
“Im lặng vợ bảo giận gì,
Tươi cười vợ bảo chắc đi với bồ.”

Hay: “ Vợ là cơm hẩm nhà ta,
Lại là phở tái của thằng cha láng giềng!”
Những người có tính “trăng hoa” chắc sẽ rất tâm đắc với những lời thơ kiểu như:
“Gái tơ cặp với bồ già,
Như mai cổ thụ nở hoa bốn mùa”
Hay: “Bánh mì phải kẹp pa tê,
Đàn ông phải có máu dê trong người”
Trong các cuộc chuyện phiếm hiện nay, cho dù về chủ đề nào, một vài người trong các
nhân vật tham dự giao tiếp ít nhiều đều có thể kể hoặc đọc một cách say sưa những lời ca mà
nhiều người tán thưởng. Tán thưởng bởi nội dung lời thơ phù hợp với nhận thức chung của
mọi người; Tán thưởng có lẽ còn bởi người phát ngôn dí dỏm, có duyên trong cách truyền
đạt:
Chẳng hạn những lời thơ sau:
- “Con gì ăn ít nói nhiều,
Mau già, lâu chết, miệng kêu tiền tiền.”
Hay: - “ Thanh tra, thanh mẹ, thanh gì,
Hễ có phong bì thì cứ Thank you.”

Hoặc: - “Đi đâu cho thiếp đi cùng,
No thì thiếp ở, lạnh lùng thì thiếp bye! ”
4. Đi tìm lời giải cho diễn xướng ca dao Việt Nam
4.1 Diễn xướng truyền thống - nền tảng để duy trì sinh hoạt văn hóa dân gian
Thực chất, đi tìm lời giải cho diễn xướng ca dao Việt Nam cũng chính là đi tìm lời giải
cho sự tồn tại, vận động của ca dao Việt Nam trong tiến trình lịch sử. Tìm hiểu về diễn xướng
- hình thức thể hiện cụ thể, mang tính ích dụng và đậm chất nghệ thuật của ca dao, ta hiểu rõ
hơn về một thể loại văn học truyền miệng gắn với đời sống sinh hoạt ca hát của quần chúng
nhân dân từ cổ truyền đến hiện đại. Đó là hình thức “trình diễn” dân gian ra đời từ sinh hoạt
của người dân, đáp ứng những nhu cầu sản xuất vật chất và giải tỏa tinh thần, tư tưởng của
họ.
Diễn xướng ca dao có quá trình vận động biến đổi phù hợp với từng giai đoạn lịch

sử - xã hội; đáp ứng kịp thời, thỏa đáng “khẩu vị” của quần chúng nhân dân - những
người trực tiếp sáng tạo, lưu truyền, thưởng thức thơ ca dân gian. Song, diễn xướng truyền
thống bằng hình thức chủ yếu là “hát” liệu có cơ sở tồn tại và có nên tồn tại? Lý giải điều
đó chắc chắn phải xem xét những sinh hoạt ca hát dân gian đang diễn ra trong đời sống
đương đại và vai trò của hình thức diễn xướng “hát”. Như đã biết, ca hát ra đời từ rất sớm
trong lịch sử nhân loại. Nó vận động phát triển cùng với lịch sử tiến hóa của loài người.
Nó có vai trò to lớn trong đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận người dân lao
động. Việc ca hát nên hay không nên tồn tại thì đã rõ. “Hát” hình thức diễn xướng truyền
thống có nhiều ưu thế này nếu bảo lưu và phát huy tốt sẽ tạo nền tảng để duy trì những
sinh hoạt văn hóa dân gian trong một số vùng văn hóa điển hình và phù hợp.
4.2 Diễn xướng hiện đại - cơ sở nảy sinh thơ ca dân gian trong điều kiện lịch sử -
xã hội mới
Nếu như “hát” có ưu thế nổi trội trong sinh hoạt văn hóa dân gian xưa thì “nói”, “kể”
tỏ ra phù hợp và đắc dụng khi chuyển tải những nội dung trữ tình mới trong xã hội hiện đại.
Khó có hình thức diễn xướng nào ngắn gọn hơn, cơ động hơn, phù hợp hơn với nhịp sống
hiện đại và thị hiếu thưởng thức văn học nghệ thuật đương thời. Bởi vậy, có thể thấy rằng,
chính hình thức diễn xướng hiện đại (nói, kể) là cơ sở nảy sinh thơ ca dân gian trong kiều
kiện lịch sử - xã hội mới.
Có lẽ, cũng không nên băn khoăn về sự vận động, biến đổi của hình thức diễn xướng
ca dao. Điều đó diễn ra là hợp qui luật và không chỉ riêng ở Việt Nam. Trong quan niệm của
một số nhà nghiên cứu phương Tây, diễn xướng được hiểu với một nội hàm khá rộng và linh
hoạt. Họ tóm lược ba truyền thống diễn xướng của cộng đồng người Cuna là: hát (Namakke),
nói (Sunmakke) và hét (Kormakke)
(17)
. Nhà nghiên cứu Richard Bauman cũng nhận định như
sau về diễn xướng và vai trò của diễn xướng trong lịch sử phát triển nhân loại: “Sự diễn
xướng, nếu như tôi nói, thì đúng là cái xuất phát điểm đó, mối liên hệ của truyền thống, hiện
thực và sự nổi trội trong nghệ thuật truyền miệng. Như vậy sự diễn xướng có thể là nền tảng
cho một nền Folklore mới, thoát khỏi viễn cảnh phải đối mặt với quá khứ và có khả năng
hiểu thêm rất nhiều về kinh nghiệm của con người”

(18)
.
Để hiểu thấu đáo hơn về diễn xướng ca dao người Việt, còn cần có những nghiên cứu
cụ thể về từng loại, từng tiểu loại thơ ca dân gian này; cũng cần có sự so sánh đối chiếu với
hình thức diễn xướng dân gian của thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam, đặc biệt là bộ phận
thơ ca đang lưu chuyển trong đời sống dân gian đương đại. Đó là hướng bài viết có thể triển
khai, hy vọng đem lại những thông tin khoa học cập nhật và có giá trị

×