Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tóm tắt luận án tiến sĩ giải quyết khiếu kiện hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.92 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN DANH TÚ
GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH TRONG
ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hành chính
Mã số: 62 38 20 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội, năm 2013
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Chu Hồng Thanh
TS. Lê Hồng Sơn
Phản biện 1: GS. TS. Thái Vĩnh Thắng
Phản biện 2: PGS. TS. Đinh Ngọc Vượng
Phản biện 3: TS. Lương Thanh Cường
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp
Học viện họp tại Học viện Khoa học Xã hội
vào hồi … giờ … , ngày … tháng … năm …
Có thể tìm hiểu Luận án tại Thư viện Quốc gia Việt Nam
và Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
Më ®Çu
1. Tính cấp thiết của Đề tài
1.1. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã đặt ra
các yêu cầu đối với GQKKHC. Nhà nước pháp quyền khác với nhà nước
khác ở mối quan hệ giữa công quyền và người dân. Trong Nhà nước pháp
quyền, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân là mối quan hệ qua lại hai
chiều. Nhà nước hoàn toàn có thể và có nguy cơ bị công dân của mình khởi
kiện ra Tòa án nếu các quyết định của cơ quan thực hiện quyền hành pháp,
hành vi công vụ của công chức xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của


công dân. Khi quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền bị xâm phạm
bởi cơ quan hành chính thì một trong những chế định pháp lý bảo vệ quyền
công dân hiệu quả nhất chính là việc giải quyết khiếu kiện bằng con đường
Tòa án. Như vậy, GQKKHC là một chế định pháp lý hướng đến mục đích
cuối cùng là bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp
quyền. Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vì vậy việc nghiên cứu những yêu cầu
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với GQKKHC cũng như
nâng cao vai trò, hiệu quả của GQKKHC tại Tòa án là cần thiết.
1.2. Công cuộc cải cách tư pháp đã đặt ra nhiệm vụ phải nâng cao
hiệu quả GQKKHC, đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án. Chúng ta
đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: Mở rộng
thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới
mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo điều
kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa
công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án; Xây dựng cơ chế bảo đảm
mọi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ
quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Tòa án phải nghiêm
chỉnh chấp hành; Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không
3
phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng cũng khẳng định: “Đổi mới hệ thống tổ chức Tòa án theo
thẩm quyền xét xử, mở rộng thẩm quyền xét xử đối với các khiếu kiện
hành chính” [11, tr. 53-54]. Như vậy, các Nghị quyết của Đảng đã đặt ra
nhiệm vụ hết sức quan trọng cho công cuộc cải cách tư pháp trong đó có
hoàn thiện việc GQKKHC tại Tòa án nhằm đáp ứng các yêu cầu của tiến
trình cải cách tư pháp.
1.3. Pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động GQKKHC ở nước ta

trong thời gian qua còn nhiều bất cập. Số lượng các vụ khiếu nại, khiếu
kiện hành chính của công dân không ngừng gia tăng, thậm chí có lúc, có
nơi, có lĩnh vực tình trạng khiếu nại, khiếu kiện đã trở thành điểm nóng.
Mặc dù hàng năm, các cơ quan chức năng đã giải quyết một số lượng lớn
các đơn thư khiếu nại, khiếu kiện của công dân nhưng công tác giải quyết
khiếu nại, khiếu kiện hành chính vẫn còn nhiều yếu kém. Đặc biệt, pháp
luật về việc GQKKHC bằng con đường Tòa án đã có nhưng số lượng vụ
việc khiếu kiện hành chính được giải quyết tại Tòa hành chính không nhiều,
chất lượng giải quyết chưa cao, trong khi đó, các cơ quan giải quyết khiếu
nại hành chính luôn trong tình trạng quá tải. Hiện tượng trên phản ánh một
thực tế công tác GQKKHC của chúng ta cần được nghiên cứu để tiếp tục
hoàn thiện.
Xuất phát từ các lý do trên đây, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài Luận
án Tiến sỹ: Giải quyết khiếu kiện hành chính trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu Luận án của tác giả nhằm đóng góp về mặt lý luận
khi đưa ra khái niệm về GQKKHC tại Tòa án, những yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với việc GQKKHC, phân tích, đánh
giá thực tiễn GQKKHC trong thời gian qua. Đặt vấn đề nghiên cứu trong
4
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cải
cách tư pháp, Luận án đề xuất quan điểm, giải pháp để tiếp tục hoàn thiện
pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động GQKKHC.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu đưa ra khái niệm về GQKKHC tại Tòa án; các
yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với GQKKHC.
Thứ hai, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật và thực
trạng hoạt động GQKKHC từ năm 1995, 1996 đến nay.

Thứ ba, đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng
GQKKHC tại Tòa án, đổi mới mô hình tổ chức Tòa hành chính, tổ chức
theo thẩm quyền xét xử.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận án là lĩnh vực GQKKHC tại Tòa án
thể hiện ở phương diện lý luận, pháp luật và thực tiễn hoạt động GQKKHC
tại Tòa án ở Việt Nam từ năm 1995, 1996 đến nay và đặc biệt trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp
hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là việc GQKKHC tại Tòa án
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách
tư pháp: những vấn đề lý luận, thực trạng những quy định pháp luật và thực
trạng hoạt động GQKKHC để từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả GQKKHC tại Tòa án.
4. Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận
- Việc nghiên cứu dựa trên cơ sở học thuyết Mác – Lê Nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật nói chung và hoạt động quản lý hành
chính nhà nước nói riêng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn
đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, về cải cách hành chính và cải cách tư pháp để tiếp cận
vấn đề GQKKHC; phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
5
phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích,
tổng hợp; phương pháp so sánh;
- Về cách tiếp cận của Đề tài:
+ Tác giả nghiên cứu các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối
với GQKKHC tại Tòa án;
+ Tác giả nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật cũng như
hoạt động GQKKHC tại Tòa án từ năm 1995, 1996 đến nay;

+ Tác giả đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng
GQKKHC tại Tòa án, đổi mới mô hình tổ chức và thẩm quyền của Tòa
hành chính.
5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án
- Thứ nhất, Luận án làm rõ về mặt lý luận khái niệm, đặc điểm của
GQKKHC, đặc biệt đặt trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
- Thứ hai, tác giả nghiên cứu đưa ra các yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa đối với việc GQKKHC ở Việt Nam.
- Thứ ba, Luận án khẳng định vấn đề xây dựng nền hành chính trong
sạch, hiệu lực, hiệu quả phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có việc hoạt động
quản lý hành chính của cơ quan hành chính nhà nước và hoạt động công vụ
của cán bộ, công chức phải được kiểm soát bởi một hệ thống cơ quan tư
pháp.
- Thứ tư, Luận án tổng kết, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của
pháp luật và hoạt động GQKKHC từ năm 1996 đến năm 2011 và từ năm
2011 đến nay, trên cơ sở cập nhật những thông tin, số liệu mới nhất.
- Thứ năm, Luận án đưa ra quan điểm và giải pháp để nâng cao chất
lượng GQKKHC tại Tòa án, trong đó có việc đổi mới, hoàn thiện mô hình tổ
chức và thẩm quyền của Tòa hành chính trong hệ thống TAND.
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
- Ý nghĩa về lý luận: Bằng việc đưa ra những kiến giải tương đối
toàn diện trên phương diện lý luận về khiếu kiện hành chính và GQKKHC
đặt trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải
cách tư pháp, Luận án đã có những đóng góp nhất định về mặt khoa học,
góp phần đặt cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu vấn
đề GQKKHC trong các lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, các giải pháp mà Luận án
đưa ra có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận, góp phần nâng cao chất lượng
giải quyết các vụ án hành chính trong thực tiễn.

- Ý nghĩa về thực tiễn: Bằng việc phân tích thực trạng pháp luật,
thực trạng giải quyết các vụ án hành chính, Luận án nhận thấy tính cấp thiết
phải đổi mới, nâng cao hiệu quả GQKKHC ở nước ta hiện nay. Đồng thời
khẳng định, GQKKHC bằng con đường Tòa hành chính là phù hợp với yêu
cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ đó, đóng góp vào việc
hoàn thiện pháp luật về GQKKHC, nâng cao chất lượng của công tác xét xử
các tranh chấp hành chính tại Tòa án ở nước ta.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
án có kết cấu 4 Chương như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên
cứu liên quan đến đề tài Luận án; Chương 2: Những vấn đề lý luận về
GQKKHC trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam;
Chương 3: Thực trạng GQKKHC trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam; Chương 4: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả
GQKKHC trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Hiện nay, đã có một khối lượng khá lớn các công trình nghiên cứu về
lý luận và thực tiễn GQKKHC ở nước ta, mô hình tổ chức và hoạt động của
hệ thống Tòa án, trong đó có tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính. Sự
quan tâm này thể hiện ở các công trình nghiên cứu đã nghiên cứu ở các nội
dung, khía cạnh khác nhau.
Nội dung thứ nhất, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về Nhà
nước pháp quyền.
Nội dung thứ hai, tập trung vào những vấn đề liên quan đến công cuộc
cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam cũng như việc đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống TAND đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.

Nội dung thứ ba, nghiên cứu việc giải quyết khiếu nại hành chính
bằng thủ tục hành chính.
Nội dung thứ tư, nghiên cứu việc GQKKHC tức là giải quyết các
tranh chấp giữa cơ quan hành chính nhà nước và công dân tại Tòa án.
Nội dung thứ năm, nghiên cứu sự kết hợp giữa việc giải quyết khiếu
nại hành chính bằng con đường hành chính và việc GQKKHC bằng con
đường Tòa án.
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Theo các tài liệu thì trên thế giới khái quát có một số mô hình tổ
chức và hoạt động của cơ quan tài phán hành chính cụ thể như sau:
- Mô hình lưỡng hệ tài phán:
+ Mô hình Hội đồng nhà nước vừa tư vấn pháp lý cho Chính phủ
vừa là cơ quan tài phán hành chính;
+ Mô hình cơ quan tài phán hành chính riêng biệt.
8
- Mô hình nhất hệ tài phán:
+ Mô hình Toà hành chính trong Toà án thường (Tòa án tư pháp);
+ Mô hình Toà án tư pháp có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp hành chính.
Việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước là cần thiết nhưng phải
trên cơ sở và phù hợp với điều kiện của nước ta.
1.3. Nhận định về tình hình nghiên cứu
Việc GQKKHC đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của khoa học
pháp lý, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của
vấn đề này và đã có đóng góp quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chưa đặt việc GQKKHC trong bối cảnh xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân, trong tiến trình cải cách tư pháp cũng như chưa nghiên cứu những yêu
cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của công cuộc cải cách tư
pháp đối với việc GQKKHC và đối với đổi mới tổ chức, hoạt động của Tòa

hành chính, nhất là việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện việc GQKKHC sau
khi Quốc hội đã ban hành LTTHC. Vì vậy, các nghiên cứu trên chưa luận
giải rõ được mục đích của việc GQKKHC là nhằm tăng cường bảo đảm và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, chưa đặt vấn đề GQKKHC trong bối cảnh hội
nhập và nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Những công trình
nghiên cứu hoặc những bài viết nêu trên mới chủ yếu dừng lại ở vấn đề
đánh giá thực trạng tình hình hoặc giải quyết vấn đề ở từng mặt nhất định,
ở một thời điểm nhất định, còn chưa được tập trung và chưa đầy đủ, toàn
diện. Vấn đề lý luận về xây dựng đội ngũ Thẩm phán, nhất là đội ngũ
Thẩm phán hành chính ở nước ta cũng chưa được đề cập nhiều.
Trước tình hình nghiên cứu nêu trên, tác giả hy vọng Luận án của
mình có thể nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu vấn đề lý luận cơ bản về
GQKKHC trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
9
nghĩa, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế ở
nước ta hiện nay; nghiên cứu thực trạng hệ thống Tòa hành chính, đánh giá
khoa học các ưu điểm và hạn chế của tổ chức và hoạt động của Tòa hành
chính ở nước ta hiện nay; nghiên cứu cơ sở lý luận khoa học của việc đổi
mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nói chung, các Tòa
hành chính nói riêng. Qua đó, tác giả đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả
GQKKHC, đổi mới mô hình các Tòa hành chính, đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân và công cuộc cải cách tư pháp.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN
HÀNH CHÍNH TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
2.1. Những vấn đề lý luận về GQKKHC ở Việt Nam
2.1.1. Khái niệm về khiếu kiện hành chính và GQKKHC

Khiếu kiện hành chính là việc cá nhân, tổ chức theo quy định của
pháp luật khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án đối với QĐHC, HVHC,
quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức, quyết định giải quyết khiếu nại
về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, việc lập danh sách cử tri (sau đây
gọi chung là QĐHC, HVHC) khi cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là
trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình để đề nghị Tòa
án phán quyết về tính hợp pháp của QĐHC, HVHC đó.
Quan niệm về GQKKHC với nghĩa hẹp, theo đó, GQKKHC là hoạt
động xét xử các vụ án hành chính (giải quyết các tranh chấp hành chính) do
Tòa án thực hiện theo trình tự, thủ tục tố tụng hành chính.
2.1.2. Đặc điểm của GQKKHC
Thứ nhất, GQKKHC thực chất là giải quyết tranh chấp hành chính
giữa một bên là cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong cơ quan nhà
10
nước với một bên là cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Thứ hai, việc GQKKHC là sự tác động của quyền tư pháp đối với
quyền hành pháp; liên quan đến hoạt động quản lý hành chính nhà nước,
liên quan đến nền hành chính quốc gia.
Thứ ba, Thẩm phán hành chính phải là người am hiểu pháp luật và
am hiểu về quản lý hành chính nhà nước.
Thứ tư, một cơ quan nhân danh Nhà nước (Tòa án) có thể phán quyết
buộc một cơ quan quản lý hành chính nhà nước (lúc này là một bên trong
vụ án hành chính) phải chấp hành bản án, quyết định của Tòa án.
Thứ năm, GQKKHC vừa bảo đảm quyền khiếu kiện của công dân
vừa bảo đảm các quyền khác của công dân.
2.1.3. Chủ thể GQKKHC
Việc giải quyết các vụ án hành chính được thực hiện dựa trên những
nguyên tắc của hoạt động tố tụng hành chính do chủ thể là Tòa án (Tòa hành
chính) thực hiện. Hệ thống Toà án có chức năng xét xử các vụ án hành chính
bao gồm: Toà án nhân dân tối cao (Toà hành chính); Toà án nhân dân cấp

tỉnh (Toà hành chính); Toà án nhân dân cấp huyện có Thẩm phán xét xử án
hành chính. Khi giải quyết một vụ án hành chính cụ thể thì chủ thể trực tiếp
giải quyết vụ án hành chính là Hội đồng xét xử của TAND. Thành viên Hội
đồng xét xử (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân) là những người theo nguyên
tắc Hiến định là "khi xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Hội đồng
xét xử GQKKHC theo trình tự, thủ tục tư pháp, xét xử theo nguyên tắc công
khai, Do Hội đồng xét xử không liên quan gì đến quá trình ban hành
QĐHC, HVHC bị kiện, về nguyên tắc và lý thuyết là độc lập với cơ quan
hành chính và không có quyền lợi thực chất nào liên quan tới kết quả của vụ
việc nên sẽ bảo đảm tính khách quan, công bằng khi phán quyết, thể hiện ưu
điểm so với giải quyết khiếu nại bằng con đường hành chính.
2.1.4. Đối tượng GQKKHC
Đối tượng của GQKKHC là QĐHC và HVHC, trừ các QĐHC,
11
HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an
ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các QĐHC,
HVHC mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức. QĐHC là văn bản do cơ
quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm
quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ
thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một
hoặc một số đối tượng cụ thể. HVHC là hành vi của cơ quan hành chính
nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ
quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo
quy định của pháp luật.
Mục đích cuối cùng của hoạt động GQKKHC là Tòa hành chính
phán quyết tính hợp pháp của QĐHC và HVHC. Tính hợp pháp của
QĐHC, HVHC được thể hiện trong các yêu cầu sau đây: nội dung, mục
đích của QĐHC, HVHC phải phù hợp với Hiến pháp, luật và các văn bản
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; các QĐHC phải được ban hành, các
HVHC phải được thực hiện trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan nhà

nước hoặc cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước; QĐHC phải được
ban hành, HVHC phải được thực hiện xuất phát từ những lý do xác thực;
QĐHC phải được ban hành, HVHC phải được thực hiện đúng hình thức
và trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Trong quản lý hành chính nhà
nước, khi ban hành các QĐHC, thực hiện các HVHC thì các cơ quan hành
chính nhà nước bên cạnh phải bảo đảm tính hợp pháp còn phải bảo đảm
tính hợp lý khi các QĐHC được ban hành, HVHC được thực hiện. Đây là
yêu cầu của thực tiễn, đảm bảo hiệu lực cũng như tính khả thi của các
quyết định, hành vi này, tránh phát sinh các khiếu nại, khiếu kiện. Một
QĐHC, HVHC chỉ thật sự phát huy hiệu lực, hiệu quả tốt nhất khi quyết
định, hành vi đó bảo đảm cả tính hợp pháp và tính hợp lý.
2.1.5. Thẩm quyền GQKKHC
2.1.5.1. Những khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án
12
Đối tượng xét xử của Toà hành chính là các các tranh chấp trong lĩnh
vực hành chính. Về phương diện khoa học pháp lý có nghĩa là các tranh chấp
nảy sinh từ việc áp dụng các quy phạm pháp luật trong quản lý hành chính
nhà nước. Để xác định thẩm quyền của Tòa hành chính thì thường có sự kết
hợp giữa hai phương cách đó là: Toà hành chính có thẩm quyền xét xử các
tranh chấp mà trong đó một bên là cơ quan hành chính nhà nước và Toà hành
chính có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong các mối quan
hệ áp dụng quy phạm pháp luật hành chính. Điều 28 LTTHC năm 2010 đã
quy định thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính của Tòa án. Thẩm
quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính của Tòa án theo LTTHC năm
2010 được quy định theo phương án loại trừ (chỉ trừ một số trường hợp đặc
biệt không được khiếu kiện ra Tòa án) và đã được mở rộng so với
PLTTGQCVAHC năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2006).
2.1.5.2. Phạm vi thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của
Toà án

Một vấn đề hết sức quan trọng là thẩm quyền của Toà án hành chính
đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính (văn bản pháp
quy), về mặt này, mỗi nước có quan điểm và cách xử lý khác nhau. Ở một
số nước, Toà án hành chính chỉ có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện của
công dân đối với các QĐHC cá biệt xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi của
họ. Nhưng cũng có nước mở rộng thẩm quyền Toà án hành chính cho phép
xét xử các khiếu kiện hành chính dù là khiếu kiện đối với QĐHC cá biệt
hay văn bản có tính quy phạm của cơ quan hành chính bởi lẽ họ quan niệm
rằng ngoài việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân, với tư cách là một
cơ quan kiểm tra dưới hình thức tài phán, Toà án hành chính có chức năng
bảo đảm tính hợp pháp trong mọi hoạt động hành chính.
Ở nước ta, có nhiều cơ chế kiểm tra hoạt động hành chính. Để đảm bảo
các văn bản pháp quy hợp Hiến và đúng luật cần tăng cường sự giám sát của
Quốc hội, kiểm tra của cơ quan nhà nước cấp trên, kiểm tra văn bản của Bộ
Tư pháp và có thể nghiên cứu thêm các cơ chế khác để xem xét văn bản pháp
13
quy của cơ quan hành chính. Có thể nghiên cứu mở rộng thẩm quyền của Tòa
hành chính xem xét tính hợp Hiến, hợp pháp các văn bản pháp quy của cơ
quan hành chính (từ cấp Bộ trở xuống) khi Tòa hành chính giải quyết các vụ
án hành chính.
2.1.5.3. Thẩm quyền phán quyết của Tòa án đối với khiếu kiện hành chính
Cơ quan GQKKHC với chức năng, thẩm quyền là đưa ra phán quyết
về một QĐHC, HVHC cụ thể của cơ quan hành chính, cán bộ, công chức
nhà nước có hợp pháp hay không. Việc phán quyết đó dựa trên các cơ sở sau
đây: nội dung, mục đích của quyết định, hành vi đó có trái với quy định của
pháp luật không; quyết định đó có được ban hành, hành vi đó có được thực
hiện đúng thẩm quyền không; quyết định, hành vi đó có đúng hình thức, trình
tự, thủ tục quy định không;… Khi cơ quan GQKKHC ra phán quyết có hiệu
lực pháp luật hủy một phần hoặc toàn bộ QĐHC trái pháp luật thì một phần
hoặc toàn bộ QĐHC bị hủy đó sẽ mất hiệu lực mà cơ quan hành chính không

cần thiết ra quyết định hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định bị cơ quan
GQKKHC phán quyết hủy. Việc quy định như vậy sẽ tăng cường vai trò của
cơ quan GQKKHC, nâng cao hiệu quả thi hành án hành chính.
2.1.6. Về thủ tục khởi kiện và giải quyết vụ án hành chính tại Tòa
án
Thủ tục khởi kiện và giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án là theo
thủ tục tố tụng tư pháp. Người khởi kiện vụ án hành chính phải đến Tòa án
nộp đơn, kèm theo các tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, phải nộp tiền tạm ứng
án phí, phải tham gia vào quá trình tố tụng từ sơ thẩm đến phúc thẩm (nếu
có). Quá trình tố tụng tại Tòa án mỗi cấp chặt chẽ về mặt pháp lý. Tòa án
xét xử vụ án hành chính theo nguyên tắc: công khai (trường hợp cần giữ bí
mật nhà nước hoặc giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ
thì Tòa án xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai); bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính, bình đẳng giữa người khởi kiện và
người bị kiện trong việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu, cơ sở pháp lý, tranh
luận công khai để chứng minh QĐHC, HVHC bị kiện có hay không vi
14
phạm pháp luật. Đây là đặc điểm rất quan trọng và cũng là một trong những
điểm khác nhau cơ bản và là ưu điểm rất có ý nghĩa của giải quyết vụ án
hành chính tại Tòa án so với giải quyết khiếu nại hành chính tại cơ quan
hành chính nhà nước. Mặc dù trong tố tụng hành chính, người khởi kiện (cá
nhân, tổ chức) và người bị kiện (cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công
chức trong cơ quan hành chính nhà nước) theo quy định của pháp luật là
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ pháp lý. Tuy nhiên, trong quan hệ quản lý
hành chính nhà nước thì cá nhân, tổ chức lại là đối tượng quản lý của cơ
quan hành chính nhà nước. Xuất phát từ đặc điểm này, pháp luật tố tụng
hành chính nói chung và thủ tục khởi kiện, giải quyết vụ án hành chính nói
riêng cần có quy định để bảo đảm sự bình đẳng giữa người khởi kiện và
người bị kiện, nhất là trong việc cung cấp chứng cứ nhằm giúp Tòa án giải
quyết đúng đắn vụ án hành chính.

2.2. Những vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa liên quan đến GQKKHC ở Việt Nam
2.2.1. Khái quát và các đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa liên quan đến GQKKHC
Nhà nước pháp quyền tồn tại trong xã hội tư sản (Nhà nước pháp quyền
tư sản) và xã hội xã hội chủ nghĩa (Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa).
“Nhà nước pháp quyền là trật tự xã hội mà ở đó Nhà nước thực thi quyền lực
của mình dựa trên nền tảng pháp luật được ban hành theo thủ tục hiến định
nhằm bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý” [23].
Xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam chính là xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam có đặc điểm cơ bản đó là: quyền làm chủ của nhân
dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước bảo đảm tính tối thượng của
Hiến pháp, Nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến
15
pháp và pháp luật, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; Nhà nước được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp; có sự kiểm tra, giám sát các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn; Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, quyền công dân; khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật;
Các đặc điểm nêu trên của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đều tác động đến việc GQKKHC, trong đó các đặc điểm tác động
trực tiếp đến việc GQKKHC đó là:
Thứ nhất, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền hành

pháp được kiểm soát.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi tính chịu
trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức hành
chính nhà nước.
Thứ ba, khi xét xử vụ án hành chính, Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Thứ tư, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được Nhà nước tôn trọng và
bảo đảm.
2.2.2. Yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với
GQKKHC ở Việt Nam
Thứ nhất, phải có một cơ quan tài phán hành chính hoạt động độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật khi GQKKHC. Sự độc lập của Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân khi xét xử các vụ án nói chung và khi xét xử các vụ án hành
chính nói riêng vừa là một đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam vừa là một yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đối với GQKKHC. Chính sự độc lập và chỉ tuân theo pháp
16
luật của cơ quan tài phán hành chính khi GQKKHC, nhất là với cơ quan hành
chính, cán bộ, công chức hành chính có QĐHC, HVHC bị khiếu kiện, đã góp
phần bảo đảm sự kiểm soát quyền hành pháp, sự tác động của quyền tư pháp
đến quyền hành pháp.
Thứ hai, tất cả các khiếu kiện của cá nhân, tổ chức trong xã hội khi
không đồng ý với QĐHC, HVHC của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức
trong cơ quan nhà nước thì đều được khởi kiện ra cơ quan tài phán hành chính
(Tòa hành chính) (chỉ trừ một số ít trường hợp rất đặc biệt). Điều này nhằm
tăng cường bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và thể hiện đặc trưng
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đó là quyền con người, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân được Nhà nước tôn trọng và bảo đảm.
Thứ ba, xuất phát từ đặc điểm của pháp luật về GQKKHC (pháp luật

tố tụng hành chính) nên văn bản điều chỉnh phải có hiệu lực pháp lý cao và
ở tầm luật, các quy định của pháp luật phải thống nhất, không mâu thuẫn,
chồng chéo.
Thứ tư, xuất phát từ đặc điểm thi hành bản án, quyết định đã có hiệu
lực của Tòa án trong vụ án hành chính có điểm khác biệt so với thi hành các
bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong vụ án dân sự, hình sự nên
cần có các quy định riêng, cụ thể, hữu hiệu để bảo đảm các bản án, quyết
định đã có hiệu lực của Tòa án trong vụ án hành chính được thi hành nghiêm
minh, kịp thời. Việc bảo đảm thi hành kịp thời, nghiêm minh các bản án,
quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong vụ án hành chính, nhất là trường
hợp cơ quan hành chính, cán bộ công chức trong cơ quan hành chính là bên
phải thi hành án sẽ góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện
đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đó là tính nghiêm minh
của pháp luật, tính chịu trách nhiệm về các QĐHC, HVHC của cơ quan hành
chính, cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính nhà nước.
2.2.3. Ý nghĩa của GQKKHC trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa
17
Thứ nhất, GQKKHC góp phần kiểm soát quyền hành pháp;
Thứ hai, GQKKHC góp phần tăng cường bảo vệ quyền con người,
quyền công dân;
Thứ ba, GQKKHC tạo ra một cơ chế giải quyết tranh chấp hành
chính khách quan hơn, góp phần giữ gìn sự ổn định xã hội;
Thứ tư, GQKKHC góp phần nâng cao năng lực đội ngũ công chức
hành chính, góp phần đổi mới và hoàn thiện nền hành chính;
Thứ năm, GQKKHC góp phần trong việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Chương 3
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH
TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

Ở VIỆT NAM
3.1. Khái quát về giải quyết khiếu nại, GQKKHC ở Việt Nam
trước năm 1996
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngay từ khi ra đời đã rất quan
tâm đến quyền khiếu nại của nhân dân. Ngày 23 tháng 11 năm 1945 Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc
biệt. Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi, bổ sung năm 2001) đều có một điều quy định về quyền khiếu nại, tố
cáo của công dân. Nhà nước ta đã ban hành: Pháp lệnh quy định việc xét và
giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1981; Pháp lệnh khiếu
nại, tố cáo của công dân năm 1991; Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998;… Bên
cạnh đó, theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 thì:
Điều 10 quy định những việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân có những việc khiếu nại cơ quan hộ tịch về việc từ chối đăng ký hoặc
không chấp nhận yêu cầu sửa đổi những điều ghi trong giấy tờ về hộ tịch;
những việc khiếu nại về danh sách cử tri;… Thực chất đây là những khiếu
18
kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố
tụng dân sự. Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm
1989 quy định khi xét xử vụ án dân sự, Toà án có quyền huỷ quyết định
rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức khác xâm phạm quyền lợi hợp
pháp của đương sự trong vụ án mà Toà án có nhiệm vụ giải quyết. Trước
năm 1995, 1996, việc giải quyết các tranh chấp hành chính chủ yếu được
giải quyết thông qua con đường hành chính. Việc giải quyết đối với một
số loại tranh chấp hành chính bằng con đường tư pháp thông qua Tòa án
cũng đã xuất hiện nhưng chưa có cơ quan tài phán tư pháp chuyên trách
GQKKHC (Tòa hành chính), chưa có thủ tục tố tụng riêng (vẫn áp dụng
thủ tục tố tụng dân sự) và thẩm quyền của Tòa án (Tòa dân sự) cũng chỉ
đối với một số ít loại tranh chấp hành chính.
3.2. Pháp luật về GQKKHC ở Việt Nam giai đoạn 1996 đến nay

3.2.1. Pháp luật về GQKKHC giai đoạn 1996 – 2011
3.2.1.1. Ưu điểm và ý nghĩa của pháp luật về GQKKHC giai
đoạn 1996 - 2011
Thứ nhất, việc thành lập Tòa hành chính trong hệ thống TAND và
ban hành PLTTGQCVAHC năm 1996 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Từ
đây, chúng ta đã có một cơ quan tài phán hành chính chuyên trách (Tòa
hành chính) độc lập khi GQKKHC với bên bị kiện (cơ quan hành chính nhà
nước), có trình tự, thủ tục riêng để giải quyết các tranh chấp hành chính.
Thứ hai, các quy định của PLTTGQCVAHC năm 1996 (sửa đổi, bổ
sung năm 1998 và năm 2006) đã tạo ra nền tảng ban đầu về pháp luật tố
tụng hành chính, có nhiều quy định tương đối cụ thể như các quy định về
trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,…
Thứ ba, Tòa hành chính và pháp luật tố tụng hành chính đã khẳng
định được vị trí, vai trò trong đời sống xã hội và là công cụ không thể thiếu
trong công cuộc đổi mới đất nước, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
19
3.2.1.2. Những vướng mắc, hạn chế trong các quy định pháp luật về
GQKKHC giai đoạn 1996 – 2011
Thứ nhất, mô hình tổ chức và thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành
chính của Tòa án có điểm hạn chế nhất định, làm ảnh hưởng đến hiệu quả
giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án.
Thứ hai, nhiều quy định trong PLTTGQCVAHC năm 1996 (sửa đổi,
bổ sung năm 1998 và năm 2006) còn sơ sài và thiếu.
Thứ ba, quy định thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính
của Tòa án theo phương pháp liệt kê.
Thứ tư, quy định thủ tục tiền tố tụng.
Thứ năm, quy định thời hiệu khởi kiện còn phức tạp.
3.2.2. Pháp luật về GQKKHC giai đoạn 2011 đến nay
3.2.2.1. Những điểm mới và ưu điểm của pháp luật về GQKKHC giai

đoạn 2011 đến nay
Thứ nhất, quy định cụ thể, rõ ràng hơn khái niệm “QĐHC”.
Thứ hai, quy định các khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án theo phương pháp loại trừ.
Thứ ba, quy định điều kiện khởi kiện vụ án hành chính thuận lợi hơn.
Thứ tư, quy định thời hiệu khởi kiện đơn giản hơn.
Thứ năm, quy định cụ thể về chứng minh và chứng cứ trong tố tụng
hành chính.
Thứ sáu, quy định cụ thể hơn vai trò của VKSND trong tố tụng hành
chính.
Thứ bảy, quy định cụ thể thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm.
Thứ tám, có quy định mới về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm.
Thứ chín, quy định thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC.
Thứ mười, quy định cụ thể việc thi hành án hành chính.
20
3.2.2.2. Những vướng mắc, hạn chế trong các quy định pháp luật về
GQKKHC giai đoạn 2011 đến nay
Thứ nhất, khó khăn do mô hình tổ chức và thẩm quyền xét xử sơ
thẩm của Tòa án (cũng tương tự như giai đoạn 1996 – 2011).
Thứ hai, một số quy định của LTTHC còn có những điểm chưa được
hướng dẫn thi hành.
Thứ ba, chưa hướng dẫn việc xác định các tiêu chí cụ thể để đánh giá
tính hợp pháp của một QĐHC, HVHC khi xét xử.
Thứ tư, khái niệm QĐHC, HVHC vẫn chưa có sự thống nhất trong
các văn bản pháp luật.
3.3. Hoạt động GQKKHC ở Việt Nam giai đoạn 1996 đến nay
3.3.1. Hoạt động GQKKHC giai đoạn 1996 - 2011
3.3.1.1. Những ưu điểm, đặc điểm và tác động tích cực của hoạt

động GQKKHC giai đoạn 1996 – 2011
Thứ nhất, qua thực tiễn 15 năm, hoạt động giải quyết các khiếu kiện
hành chính tại Tòa án đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành
chính nhà nước.
Thứ hai, với vị trí là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, phán quyết của Tòa án về tính hợp pháp của QĐHC,
HVHC bị khiếu kiện đảm bảo tính khách quan, đem lại lòng tin cho người
khiếu kiện.
Thứ ba, với sự nỗ lực của ngành Tòa án, hàng năm Tòa án các cấp đã
giải quyết được một số lượng nhất định các khiếu kiện hành chính, góp
phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức.
Thứ tư, qua phân tích về số lượng và tính chất của các vụ án hành
chính mà Tòa án các cấp đã thụ lý, giải quyết cho thấy tình hình khiếu kiện
hành chính tại Tòa án có một số đặc điểm như sau: theo nội dung tranh
chấp, khiếu kiện thì khiếu kiện QĐHC, HVHC trong lĩnh vực quản lý đất
21
đai chiếm số lượng lớn; các khiếu kiện hành chính chủ yếu tập trung vào
các QĐHC; người khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án chủ yếu là cá
nhân; đối tượng bị khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án chủ yếu là các cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương.
3.3.1.2. Những khó khăn, hạn chế trong hoạt động GQKKHC giai
đoạn 1996 – 2011 và nguyên nhân
Thứ nhất, về Thẩm phán hành chính, một số Thẩm phán hành chính
vẫn còn có hạn chế nhất định về nghiệp vụ.
Thứ hai, về phía cơ quan hành chính nhà nước, trong quá trình giải
quyết các vụ án hành chính không ít trường hợp người bị kiện - là cơ quan
hành chính nhà nước - chưa thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của đương
sự khi tham gia tố tụng hành chính mà pháp luật đã quy định.
Thứ ba, về phía các cá nhân, tổ chức, một số cá nhân, tổ chức khiếu kiện
hành chính nhưng chưa nắm vững các quy định của pháp luật có liên quan.

Thứ tư, số lượng các vụ án hành chính được giải quyết tại Tòa án là
rất ít nếu so sánh với số lượng các vụ án hình sự, dân sự được giải quyết tại
Tòa án, số lượng các khiếu nại được giải quyết tại các cơ quan hành chính.
Thứ năm, về chất lượng giải quyết các vụ án hành chính cũng còn
có hạn chế.
Thứ sáu, nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động GQKKHC
tại Tòa án là: do quy định về tổ chức cũng như thẩm quyền giải quyết sơ
thẩm các khiếu kiện hành chính của Tòa án có ảnh hưởng đến chất lượng
giải quyết các khiếu kiện hành chính; một bộ phận Thẩm phán hành chính
còn có những hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ; sự phức tạp của án hành
chính; một số quy định của pháp luật nội dung còn chồng chéo, có những
bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn; pháp luật tố tụng hành chính giai đoạn
1996 - 2011 còn có những quy định mâu thuẫn với quy định của các văn
bản quy phạm pháp luật khác, có những quy định chưa phù hợp hoặc không
còn phù hợp, chưa đầy đủ thiếu rõ ràng; công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về khiếu kiện hành chính còn chưa được chú trọng đúng mức.
22
3.3.2. Hoạt động GQKKHC giai đoạn 2011 đến nay
3.3.2.1. Những ưu điểm, đặc điểm và tác động tích cực của hoạt
động GQKKHC giai đoạn 2011 đến nay
Thứ nhất, các cơ quan hữu quan đã tích cực, chủ động chuẩn bị các
điều kiện cần thiết và triển khai thi hành LTTHC.
Thứ hai, với việc ban hành LTTHC, thông qua công tác xét xử các vụ
án hành chính, Tòa án đã tăng cường tinh thần dân chủ giữa cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước có QĐHC, HVHC bị
khiếu kiện với cá nhân, tổ chức có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa
án, hoạt động tranh luận tại phiên tòa được chú trọng.
Thứ ba, kể từ khi LTTHC có hiệu lực thi hành, số lượng các khiếu
kiện hành chính được giải quyết tại Tòa án đã tăng lên đáng kể và tăng
tương đối nhanh.

Thứ tư, về chất lượng các vụ án hành chính được giải quyết tại Tòa
án cũng được nâng cao.
Thứ năm, đặc điểm tình hình khiếu kiện hành chính tại Tòa án giai
đoạn 2011 đến nay cơ bản cũng tương tự đặc điểm tình hình khiếu kiện
hành chính tại Tòa án giai đoạn 1996 – 2011.
3.3.2.2. Những khó khăn, hạn chế trong hoạt động GQKKHC giai
đoạn 2011 đến nay và nguyên nhân
Thứ nhất, Thẩm phán hành chính vẫn cần được tiếp tục chú trọng về
số lượng và chất lượng.
Thứ hai, số lượng các khiếu kiện hành chính được giải quyết tại Tòa
án vẫn còn ít, tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án hành
chính bị hủy, sửa còn cao.
Thứ ba, các cá nhân, tổ chức vẫn còn tâm lý ngại khởi kiện vụ án
hành chính tại Tòa án.
Thứ tư, nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động GQKKHC
tại Tòa án giai đoạn 2011 đến nay cũng tương tự giai đoạn 1996 – 2011.
Ngoài ra, còn có nguyên nhân là do một số quy định của LTTHC năm 2010
chưa được hướng dẫn.
23
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH TRONG ĐIỀU KIỆN
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
4.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả GQKKHC trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thứ nhất, bảo đảm quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng.
Thứ hai, bảo đảm yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, cải cách hành chính nhà nước.
Thứ ba, bảo đảm yêu cầu cải cách tư pháp.
Thứ tư, bảo đảm tốt hơn quyền khiếu kiện của công dân.

Thứ năm, bảo đảm kế thừa các quy định của pháp luật, kinh nghiệm
GQKKHC hiện hành; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài;
tương thích với các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên.
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả GQKKHC trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới nhận thức về GQKKHC.
Thứ hai, đổi mới mô hình tổ chức Tòa hành chính GQKKHC: tổ
chức trong hệ thống TAND: Tòa hành chính trong TAND sơ thẩm khu vực,
Tòa hành chính trong TAND phúc thẩm khu vực, Tòa hành chính trong
TAND thượng thẩm (Tòa hành chính trong TAND cấp cao); TANDTC (là
cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính: nghiên cứu
bổ sung quyền khiếu kiện của công dân vào Hiến pháp; tiếp tục mở rộng
thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính (QĐHC,
HVHC mặc dù mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức nhưng liên quan trực
tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì cần thiết quy định
có thể bị khởi kiện tại Tòa án; các quyết định kỷ luật dưới mức buộc thôi
24
việc đối với công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở
xuống mà công chức đó cho rằng quyết định này là không đúng thì cần thiết
phải quy định công chức đó có quyền khiếu kiện tại Tòa án; có thể nghiên
cứu giao cho Tòa hành chính thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của các
văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan hành chính nhà nước ban hành (từ
cấp Bộ trở xuống) khi Tòa hành chính giải quyết vụ án hành chính); quy
định cụ thể hơn đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính, vai trò của
VKSND trong vụ án hành chính; hoàn thiện một số quy định của pháp luật
còn chưa thống nhất.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện pháp luật nội dung có liên quan đến
GQKKHC.
Thứ năm, tăng cường năng lực xét xử của đội ngũ Thẩm phán hành chính.

Thứ sáu, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hành chính.
KẾT LUẬN
Thứ nhất, GQKKHC là hoạt động xét xử các vụ án hành chính (giải
quyết các tranh chấp hành chính) do Tòa án thực hiện theo trình tự, thủ tục
tố tụng hành chính. GQKKHC có những đặc điểm riêng có khác với giải
quyết tranh chấp dân sự hay giải quyết vụ án hình sự.
Thứ hai, Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã
đặt ra các yêu cầu đối với GQKKHC là: phải có một cơ quan tài phán hành
chính hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi GQKKHC; tất cả các
khiếu kiện của cá nhân, tổ chức trong xã hội khi không đồng ý với QĐHC,
HVHC của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước
thì đều được khởi kiện ra cơ quan tài phán hành chính (Tòa hành chính)
(chỉ trừ một số ít trường hợp rất đặc biệt); xuất phát từ đặc điểm pháp luật
về GQKKHC nên văn bản điều chỉnh phải có hiệu lực pháp lý cao và ở tầm
luật, các quy định của pháp luật phải thống nhất, không mâu thuẫn, chồng
chéo; xuất phát từ đặc điểm thi hành bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa
25

×