Gi¸o dôc quyÒn con ngêi, quyÒn c«ng d©n
ë níc ta hiÖn nay - Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
Hµ Néi - 2010
Gi¸o dôc quyÒn con ngêi, quyÒn c«ng d©n
ë níc ta hiÖn nay - Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
Hµ Néi – 2010
MụC LụC
Trang
Mở đầu
1
Chơng 1: cơ sở lý luận về giáo dục quyền con ngời, quyền
công dân
7
1.1. Khái niệm giáo dục quyền con ngời, quyền công dân 7
1.2. Chủ thể, khách thể, hình thức, nội dung, phơng pháp giáo dục
quyền con ngời, quyền công dân
31
1.3. Vai trò của giáo dục quyền con ngời, quyền công dân trong điều
kiện xây dựng nhà nớc pháp quyền ở nớc ta hiện nay
42
Chơng 2: Thực trạng giáo dục quyền con ngời, quyền công
dân ở Việt Nam hiện nay
44
2.1. Giáo dục quyền con ngời, quyền công dân của Liên Hợp Quốc và
của một số nớc trên thế giới
44
2.2. Hoạt động giáo dục quyền con ngời, quyền công dân ở Việt Nam
hiện nay
53
2.3. Những thành tựu, tồn tại và nguyên nhân rút ra từ thực tiễn giáo
dục quyền con ngời, quyền công dân ở Việt Nam trong thời gian qua
77
Chơng 3: Quan điểm và phơng hớng, giải pháp tăng cờng
giáo dục quyền con ngời, quyền công dân ở nớc
ta hiện nay
84
3.1. Những quan điểm chung về giáo dục quyền con ngời, quyền công
dân ở nớc ta hiện nay
84
3.2. Phơng hớng, giải pháp tăng cờng giáo dục quyền con ngời, quyền
công dân ở nớc ta hiện nay
90
Kết luận
107
Danh mục tài liệu tham khảo
109
Phụ lục
119
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con ngời, quyền công dân là những yếu tố cơ bản, nền tảng
của một xã hội dân chủ, văn minh. T tởng về quyền con ngời (nhân quyền)
đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại; nhng không phải trong bất
cứ hình thái kinh tế - xã hội nào, trong bất cứ kiểu Nhà nớc nào nó cũng tồn
tại và đợc thừa nhận một cách đầy đủ. Vì thế, quyền con ngời là một phạm
trù lịch sử và là kết quả của cuộc đấu tranh không ngừng của toàn nhân loại
vơn tới những lý tởng, giải phóng hoàn toàn con ngời nhằm xây dựng một
xã hội thật sự công bằng, dân chủ, nhân đạo.
Giai cấp t sản khi thực hiện cách mạng t sản, đã coi nhân quyền nh
một vũ khí của mình để tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến và để
tập hợp lực lợng trong xã hội; do đó từ thế kỷ XVIII vấn đề nhân quyền đã
đợc giai cấp t sản đề cập đến nh Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ năm 1789, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm
1789.
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị
đập tan năm 1945, vấn đề nhân quyền đã trở thành mối quan tâm của cả
Nhà nớc xã hội chủ nghĩa và t bản chủ nghĩa, nên khi tổ chức Liên Hợp
Quốc ra đời thì vấn đề cơ bản, đầu tiên của tổ chức này là vấn đề nhân
quyền. Nhân quyền đã trở thành vấn đề quan trọng, thờng xuyên đợc đề cập
đến trong quan hệ quốc tế. Liên Hợp Quốc đã ban hành hàng loạt các văn
kiện khẳng định các quyền và tự do của tất cả mọi ngời, đặc biệt là Hiến ch-
ơng Liên Hợp Quốc 1945 và Tuyên ngôn thế giới về quyền con ngời 1948
thì vấn đề nhân quyền đã chuyển sang một bớc ngoặt mới trong lịch sử
nhân loại, trở thành một quan hệ cơ bản đợc điều chỉnh bằng pháp luật quốc
tế.
Đến nay quyền con ngời đã đợc ghi nhận, khẳng định trong Hiến
pháp của nhiều quốc gia trên thế giới.
ở Việt Nam, kể từ khi giành đợc độc lập (năm 1945), Đảng và Nhà
nớc ta luôn tôn trọng quyền con ngời. Tuyên ngôn độc lập của nớc Việt
Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trờng Ba
Đình, Hà Nội ngày 2/9/1945 đợc coi là một văn kiện có tính lịch sử trên ph-
ơng diện quốc tế về quyền con ngời. Trên cơ sở đó, quyền con ngời đã đợc
ghi nhận trong Hiến pháp nớc ta: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm
1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Điều 50 Hiến pháp
năm 1992 của nớc ta khẳng định: "ở nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con ngời về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội đợc
tôn trọng và bảo đảm thực hiện". Gần đây nhất, vấn đề nhân quyền đã đợc tiếp
tục khẳng định trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ơng Đảng
khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: "Chăm lo cho
con ngời, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi ngời; tôn trọng và thực
hiện các điều ớc quốc tế về quyền con ngời mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham
gia" [35, tr. 134].
Vấn đề nhân quyền có vai trò quan trọng nh vậy, nên nhiều nớc trên
thế giới coi trọng việc giáo dục nhân quyền nhằm làm cho mỗi con ngời ý
thức biết tôn trọng quyền của ngời khác và tự mình biết bảo vệ quyền của
mình. Năm 1978 UNESCO cũng đã triệu tập Hội nghị quốc tế về giáo dục
nhân quyền tại Viên (Thủ đô nớc áo) để phát triển hơn nữa những lý do
cho việc giáo dục nhân quyền. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị công nhận
rằng: "Giáo dục nên làm cho mỗi cá nhân thấy quyền của mình, đồng thời
họ cũng phải biết tôn trọng những quyền của ngời khác", và đến
23/12/1994, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc bằng Nghị quyết số 49/184 đã
chính thức tuyên bố: "Thập kỷ giáo dục nhân quyền bắt đầu từ 1/1/1995 đến
1/1/2004".
Nớc ta đang trong tiến trình xây dựng Nhà nớc pháp quyền dới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì việc giáo dục nhân quyền lại
càng có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết, nhằm làm cho Việt Nam sớm hội
nhập với thế giới và khu vực, góp phần xây dựng nền văn hóa nhân quyền
toàn cầu. Thực hiện đợc điều đó, Đảng và Nhà nớc ta đã hởng ứng, tham gia
có hiệu quả "Thập kỷ giáo dục nhân quyền" của Liên Hợp Quốc.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, việc nghiên
cứu làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá những thành tựu, u điểm đã đạt đợc và
làm rõ những khuyết điểm tồn tại của vấn đề giáo dục nhân quyền; đồng
thời xác định phơng hớng, nội dung, phơng pháp tiếp tục thực hiện giáo dục
nhân quyền trong điều kiện xây dựng Nhà nớc pháp quyền ở nớc ta hiện
nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu
- Vấn đề giáo dục quyền con ngời, quyền công dân đã đợc Liên Hợp
Quốc, các nhà khoa học pháp lý nớc ta và thế giới quan tâm nghiên cứu.
Tuy nhiên, có thể xuất phát từ quan điểm cho rằng giáo dục pháp luật đã
bao hàm cả giáo dục quyền con ngời, quyền công dân nên các nhà luật học
nớc ta mới chỉ tập trung nghiên cứu về giáo dục pháp luật mà cha quan tâm
nghiên cứu vấn đề giáo dục quyền con ngời, quyền công dân nh là một lĩnh
vực nghiên cứu độc lập, riêng biệt. Vì thế thời gian qua, ở nớc ta đã có rất
nhiều các công trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật nh: "Giáo dục ý thức
pháp luật với việc tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa", luận án Phó tiến
sĩ của Trần Ngọc Đờng; "ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và giáo dục
pháp luật cho nhân dân lao động (ở Việt Nam)", luận án Phó tiến sĩ của
Nguyễn Đình Lộc; "Giáo dục pháp luật cho nhân dân" của Nguyễn Ngọc
Minh (Tạp chí Cộng sản, số 10, 1983); "Giáo dục ý thức pháp luật để tăng
cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng con ngời mới" của Phùng Văn
Tửu (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, 1985); "Giáo dục ý thức pháp luật" của
Nguyễn Trọng Bình (Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4, 1989); "Cơ sở khoa học
của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" đề tài khoa học cấp
nhà nớc, mã số 07-17 do Viện Nhà nớc - Pháp luật thuộc Trung tâm Khoa
học xã hội và nhân văn chủ trì; "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo
dục pháp luật trong công cuộc đổi mới", đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-
98-223ĐT của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ T pháp; "Tìm kiếm
mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít
ngời" đề tài khoa học cấp bộ của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý; "Giáo
dục pháp luật trong các trờng đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề (không chuyên luật) ở nớc ta", luận án Phó tiến sĩ của Đinh Xuân
Thảo; "Giáo dục pháp luật qua hoạt động t pháp ở Việt Nam", luận án Phó
tiến sĩ của Dơng Thị Thanh Mai; "Giáo dục pháp luật cho dân tộc Khơme -
Nam Bộ (qua thực tiễn tỉnh An Giang)", luận án Thạc sĩ của Lê Văn Bền;
"Bàn về giáo dục pháp luật" sách của Trần Ngọc Đờng - Dơng Thị Thanh
Mai; "Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" sách của Đào Trí úc chủ
biên; "Một số vấn đề về phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện
nay" của Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật - Bộ T pháp; "Đổi mới giáo dục
pháp luật trong hệ thống các trờng chính trị ở nớc ta hiện nay", Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Khoa Nhà nớc - Pháp luật, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh; "Thực trạng và phơng hớng đổi mới giáo dục
pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nớc ta hiện nay", luận văn Thạc sĩ
của Đặng Ngọc Hoàng
Trong khi đó vấn đề giáo dục quyền con ngời, quyền công dân mới
chỉ đợc nghiên cứu ở mức độ rất hạn chế. Đến nay cha có công trình nào đi
sâu nghiên cứu vấn đề này một cách có hệ thống, đầy đủ; nên số lợng các
công trình nghiên cứu cha nhiều và cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ các bài
viết, nh: "Giáo dục nhân quyền hớng tới thế kỷ XXI" của Tờng Duy Kiên (Tạp
chí Thông tin Khoa học thanh niên, số 4, 1997).
Vì vậy, có thể nói, luận văn này là công trình đầu tiên trình bày tơng
đối có hệ thống về vấn đề giáo dục quyền con ngời, quyền công dân trong
điều kiện xây dựng nhà nớc pháp quyền ở nớc ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề giáo dục quyền con
ngời, quyền công dân để đề xuất các giải pháp nhằm tăng cờng công tác
giáo dục quyền con ngời - quyền công dân trong điều kiện xây dựng Nhà n-
ớc pháp quyền ở nớc ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận về giáo dục quyền con ngời, quyền công dân.
- Đánh giá thực trạng giáo dục quyền con ngời, quyền công dân ở n-
ớc ta hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cờng công tác giáo dục quyền
con ngời, quyền công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nớc pháp quyền ở
Việt Nam.
4. Giới hạn nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung vào vấn đề giáo dục quyền con ngời, quyền công
dân ở nớc ta hiện nay, qua khảo sát thực tiễn vấn đề này ở nớc ta thời gian qua.
5. Cái mới của luận văn
- Là công trình chuyên khảo nghiên cứu tơng đối có hệ thống về
giáo dục quyền con ngời, quyền công dân ở nớc ta hiện nay.
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, tính đặc thù của giáo dục quyền
con ngời, quyền công dân ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng và phân tích nguyên nhân, làm hạn chế hiệu
quả giáo dục quyền con ngời, quyền công dân ở nớc ta trong thời gian qua;
trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp góp phần thực hiện tốt vấn đề giáo dục
quyền con ngời, quyền công dân ở Việt Nam.
6. Phơng pháp nghiên cứu
- Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Nhà
nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, quan hệ giữa Nhà nớc pháp
quyền với quyền con ngời, quyền công dân, về giáo dục quyền con ngời,
quyền công dân ở nớc ta.
Luận văn đặc biệt coi trọng quan điểm duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử để nghiên cứu nhà nớc pháp quyền với việc giáo dục quyền con ng-
ời - quyền công dân; sử dụng phơng pháp thống kê, hệ thống, so sánh, phân
tích, tổng hợp để đánh giá thực trạng giáo dục quyền con ngời, quyền công
dân ở nớc ta hiện nay nhằm phân tích, luận chứng một cách khoa học khi đề
ra sự cấp thiết, phơng hớng, giải pháp tăng cờng giáo dục quyền con ngời,
quyền công dân ở nớc ta.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn đợc chia làm 3 chơng, 8 tiết.
Chơng 1
Cơ sở lý luận về giáo dục quyền con ngời,
quyền công dân
1.1. Khái niệm giáo dục quyền con ngời, quyền công dân
1.1.1. Khái niệm quyền con ngời, quyền công dân
Quyền con ngời - Nhân quyền, quyền công dân là một phạm trù lịch
sử. Từ thời cổ đại những t tởng và yêu sách về các quyền, mà trớc hết yêu
sách về các quyền con ngời đã đợc phát sinh ở vùng Địa Trung Hải là nơi
có nền văn minh, kinh tế phát triển rực rỡ nhất lúc bấy giờ. Sau khi các
quyền con ngời đợc triển khai ở các quốc gia trong vùng và khu vực xung
quanh rồi mới xâm nhập vào xã hội châu Âu cổ đại và châu Âu mới.
Năm 1776, hầu hết các nớc thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ đã tuyên
bố độc lập với đế chế Anh. Trong một văn bản có tên là "Tuyên ngôn độc
lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ", đã khẳng định: " tất cả mọi ngời sinh
ra đều bình đẳng tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
đợc, trong những quyền đó có quyền đợc sống, quyền tự do và quyền mu
cầu hạnh phúc" [93, tr. 15].
Nh vậy, trong lịch sử phát triển của quyền con ngời, Tuyên ngôn
độc lập của Mỹ năm 1776 có thể đợc coi là sự xác nhận chính thức, đầu tiên
về mặt nhà nớc về quyền con ngời. Khi đánh giá về văn kiện này, C.Mác đã
cho rằng: Nớc Mỹ - đó là nơi "lần đầu tiên xuất hiện ý tởng về một nớc
cộng hòa dân chủ vĩ đại thống nhất, bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên đã
đợc công bố và đã có sự thúc đẩy đầu tiên đối với cuộc cách mạng châu Âu
thế kỷ XVIII" [57, tr. 65]. Tuyên ngôn này là cơ sở để xây dựng nên bản
Hiến pháp của Mỹ năm 1787.
Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, vấn đề nhân quyền càng trở nên
bức xúc và trở thành mối quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế. Trên cơ
sở đó, ngày 24-10-1945 tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời và đã thông qua bản
"Hiến chơng Liên Hợp Quốc" với mục đích chính là vì vấn đề quyền con
ngời trên phạm vi toàn cầu. Tiếp đến, tháng 12-1948 Liên Hợp Quốc đã
công bố bản "Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền". Trên cơ sở này, hàng
loạt văn kiện quốc tế về nhân quyền đợc tuyên bố, ký kết và trở thành luật
pháp quốc tế về quyền con ngời.
ở Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thì Việt
Nam đã có một lịch sử truyền thống lâu đời, trải qua suốt quá trình dựng n-
ớc và giữ nớc về sự hình thành và đảm bảo quyền con ngời. Tuy nhiên, phải
đến khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công mới thực sự mở ra
một kỷ nguyên mới về quyền con ngời , thời kỳ mà quyền con ngời đợc đề
cao, đợc chính thức ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật.
Mặc dù vấn đề quyền con ngời, quyền công dân đã đợc hình thành
từ rất sớm trong lịch sử nhân loại. ở Việt Nam cũng vậy, nhng do nó đợc
nhìn nhận dới những góc độ khác nhau (triết học, chính trị học, kinh tế học,
luật học ), xuất phát từ những mục đích, màu sắc t tởng, lãnh địa chính trị của
các quốc gia khác nhau; nên mặc dầu đã có nhiều hội thảo quốc tế, nhiều
công trình nghiên cứu, nhng khái niệm quyền con ngời, quyền công dân vẫn
tồn tại một cách trừu tợng, chung chung và ngày càng trở nên mơ hồ, rắc rối
hơn.
Do đó, nhận thức đúng đắn, đầy đủ về khái niệm quyền con ngời,
quyền công dân và nội dung của nó chính là cơ sở, nền tảng để xây dựng
phơng hớng, nội dung, phơng pháp, điều kiện cho việc thực hiện giáo dục
quyền con ngời, quyền công dân ở nớc ta hiện nay.
1.1.1.1. Khái niệm quyền con ngời (Nhân quyền)
"Nhân quyền" là một từ Hán Việt, theo "Đại Từ điển Tiếng Việt"
của Viện Ngôn ngữ học thì "Nhân quyền" là "quyền con ngời" [104, tr.
1239]. Từ điển này mới chỉ giải trình đơn thuần nghĩa Hán - Việt của từ
Nhân quyền, mà cha đề cập đến khái niệm của vấn đề này theo nghĩa đợc
khái quát hóa từ những đặc điểm, nội dung, tính chất đặc thù của nó.
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con ngời, mỗi
định nghĩa là một sự biểu hiện khác nhau về góc độ nhìn nhận về vấn đề
nhân quyền. Tuy nhiên, tổng hợp lại các quan niệm đó đợc phân chia thành
ba quan niệm chủ yếu, khác nhau về quyền con ngời nh sau :
- Quan niệm thứ nhất: Bắt nguồn từ chỗ coi con ngời là một thực thể
tự nhiên, nên quyền con ngời phải là quyền "bẩm sinh", là "đặc quyền",
nghĩa là quyền con ngời, quyền lợi của con ngời với t cách là ngời, gắn liền
với cá nhân con ngời, không thể tách rời.
Quan điểm này đợc các đại biểu t tởng của giai cấp t sản ở thế kỷ
XVII, XVIII nh Crotius, Hobbes, Kant, Locke, Spinoza, Rousseau hoàn
thiện và nêu ra trong học thuyết về pháp luật tự nhiên. Trờng phái này cho
rằng, quyền tự nhiên, pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà n-
ớc.
- Về quan niệm thứ hai: Trái với quan niệm thứ nhất, quan niệm này
lại chỉ đặt con ngời và quyền con ngời trong mối quan hệ xã hội. Quan
niệm này cho rằng, con ngời chỉ là một thực thể xã hội, nên quyền của nó
chỉ đợc xác định trong mối tơng quan với các thực thể xã hội khác và vì là
quan hệ xã hội nên nó đợc chế độ nhà nớc, pháp luật điều chỉnh bảo vệ.
Quan niệm này có tính tích cực khi coi quyền con ngời là một khái
niệm có tính lịch sử, đặt con ngời trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Vì con ngời là thực thể của xã hội, có mối quan hệ phổ biến với xã hội nên
quyền con ngời cũng luôn gắn liền với đấu tranh giai cấp, đấu tranh chống
áp bức bóc lột, đấu tranh chống bạo lực, chống bất công trong xã hội. Cơ sở
của quyền con ngời ở đây chính là trình độ phát triển của nền kinh tế, văn
hóa, xã hội và do chế độ kinh tế, chế độ xã hội quyết định.
- Quan niệm thứ ba: Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn
đề quyền con ngời. Quan niệm này đã khắc phục đợc tính phiến diện, phản
khoa học về con ngời, quyền con ngời ở các quan niệm trên.
Xuất phát từ quan niệm coi con ngời vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa
là sản phẩm của xã hội, con ngời mặc dù vẫn là một thực thể tự nhiên nh
các loài động vật khác, nhng lại khác với loài động vật khác ở chỗ con ngời
chỉ thực sự tồn tại với t cách là một con ngời khi nó đợc tồn tại trong cộng
đồng xã hội. Hai mặt này tồn tại biện chứng trong một con ngời. Trong cái
tự nhiên của con ngời có mặt xã hội và trong cái xã hội của con ngời có mặt
tự nhiên. Mặt này trở thành tiền đề cho mặt kia trong mối quan hệ chặt chẽ
không thể tách rời. Xuất phát từ quan niệm này về quyền con ngời nên chủ
nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề quyền con ngời: "Về bản chất bao hàm
cả hai mặt tự nhiên và xã hội" [65, tr. 12].
Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con ngời là "động vật xã
hội" [63, tr. 855] có khả năng "tái sinh ra con ngời", con ngời là động vật cao
cấp nhất trong quá trình tiến hóa. Do đó, về mặt này, cũng nh quan niệm
thứ nhất, quyền con ngời trớc hết là một thuộc tính tự nhiên. Quyền con ng-
ời không phải là một "tặng vật", do giai cấp thống trị ban phát thông qua
nhà nớc mà quyền con ngời trong hình thức lịch sử tự nhiên của nó mang
bản chất tự nhiên, đợc thể hiện ở quyền đợc sống, quyền tự do, quyền đợc
sáng tạo, phát triển, quyền đợc đối xử nh con ngời, xứng đáng với con ngời.
Xét về mặt thứ hai của quan niệm này, con ngời mặc dù là động vật
cao cấp nhất của tự nhiên, nhng ngay khi tiến hóa trở thành động vật cao
cấp, con ngời đã sống thành bầy đàn và trở thành sản phẩm của lịch sử xã
hội. Trong luận cơng thứ VI về Phoi-ơ-bắc, C.Mác cho rằng: "Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con ngời là tổng hòa những quan hệ xã hội" [64, tr.
21]. Nh vậy, con ngời mặc dù vẫn là thực thể tự nhiên sinh học, là bộ phận
của tự nhiên, nhng bên cạnh đó, để đợc gọi là ngời nó còn phải tồn tại trong
cộng đồng xã hội, và biến đổi cùng với cộng đồng xã hội của mình. Bằng
khả năng của mình, con ngời tác động vào tự nhiên, xã hội làm biến đổi tự
nhiên và xã hội để phục vụ nhu cầu tự tồn tại, phát triển của mình. Ngợc lại,
những biến đổi của tự nhiên, của xã hội do con ngời tạo ra cũng tác động
chi phối trở lại con ngời, làm biến đổi con ngời. Do đó xét về khía cạnh xã
hội, thì "quyền con ngời, ngay từ khi có xã hội loài ngời, bên cạnh bản tính
tự nhiên còn in đậm bản tính xã hội" [65, tr. 13].
Khi xã hội hình thành giai cấp, hình thành nhà nớc đã tạo ra những
chuyển biến có tính "bớc ngoặt" trong sự biến đổi mối quan hệ tơng quan
giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của quyền con ngời. Đi kèm xã hội
có giai cấp là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; do đó, trong điều
kiện xã hội có giai cấp thì bản tính xã hội trở thành bản tính giai cấp. Và
ngay cả bản tính tự nhiên, những giá trị phổ biến của quyền con ngời cũng
tất yếu chịu sự chi phối của giai cấp thống trị xã hội.
Mặt khác, quyền con ngời, kể cả quyền tự nhiên, bẩm sinh còn bị
ràng buộc, chi phối vào chính khả năng khám phá chinh phục tự nhiên của
chính con ngời, nghĩa là phụ thuộc vào khả năng hoàn thiện, phát triển của
con ngời, sự phát triển của lực lợng sản xuất, trình độ phát triển kinh tế - xã
hội. Con ngời càng có khả năng chế ngự, chinh phục thiên nhiên bao nhiêu
thì tự do, quyền con ngời ngày càng đợc mở rộng, ngày càng đợc đảm bảo
bấy nhiêu.
Từ quan điểm trên cho thấy, về bản chất, quyền con ngời bao gồm
cả quyền tự nhiên và quyền xã hội. Quyền tự nhiên phải đợc đặt trong tổng
hòa các mối quan hệ xã hội, chịu sự chi phối, ràng buộc của xã hội, gắn liền
với quá trình chinh phục tự nhiên và xã hội. Quyền con ngời chỉ đợc đặt ra
khi nó tồn tại trong cộng đồng ngời. Khái niệm quyền con ngời chỉ xuất
hiện khi con ngời bị những thực thể ngời khác xâm hại đến lợi ích của
mình. Hoặc ngợc lại, nếu con ngời tồn tại độc lập, không có mối liên hệ
cộng đồng, không bị các thực thể khác trong cộng đồng tác động xâm hại
đến lợi ích của mình thì không thể làm xuất hiện khái niệm quyền con ngời.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con ngời không
phải chỉ là phép cộng đơn giản đối với hai quan niệm về quyền con ngời
nêu trên, mà từ phân tích nêu trên cho thấy bản chất hai mặt tự nhiên và xã
hội của quyền con ngời có những thuộc tính phức tạp và luôn có sự thống
nhất giữa hai mặt đối lập.
Nhận thức khái niệm quyền con ngời với đầy đủ bản chất, thuộc
tính của nó cho thấy quyền con ngời là một phạm trù phức tạp. Vì vậy, cần
thiết phải đa ra định nghĩa về quyền con ngời. Tuy nhiên, nếu chỉ đa ra định
nghĩa quyền con ngời với t cách là một phạm trù riêng biệt của chính trị
học, kinh tế học, triết học, luật học sẽ là điều phiến diện, không đầy đủ, vì
nh thế nó mới chỉ thể hiện đợc quyền con ngời dới góc độ khoa học, mà
không thể hiện đợc bản chất cũng nh tính đa diện của vấn đề này. Hay nói
cách khác, nó mới chỉ thể hiện trạng thái tĩnh của quyền con ngời.
Jacques Mourgon (giáo s đại học khoa học xã hội Toulouse) đa ra
định nghĩa: "Quyền con ngời là những đặc quyền đợc các quy tắc điều
khiển mà con ngời giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với các cá
nhân và với chính quyền" [68, tr. 12]. Định nghĩa này chủ yếu đề cập đến
quyền con ngời ở khía cạnh tự nhiên của nó.
Một học giả Việt Nam cho rằng:
Quyền con ngời là các khả năng của con ngời đợc đảm bảo
bằng pháp luật (luật quốc gia và luật quốc tế) về sử dụng và chi phối
các phúc lợi xã hội, các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng
quyền tự do trong xã hội trong phạm vi luật định và quyền quyết
định các hoạt động của mình và của ngời khác trên cơ sở pháp luật
[31, tr. 34].
Định nghĩa này cũng mới chỉ đề cập đến quyền con ngời với t cách
là phạm trù luật học.
Chúng tôi nhận thức rằng, khái niệm quyền con ngời phải là một
phạm trù tổng hợp, bao hàm cả bản chất và những thuộc tính đa diện -
nhiều mặt của nó. Có một định nghĩa đang đợc sử dụng phổ biến trong
giảng dạy, nghiên cứu về nhân quyền ở nớc ta hiện nay: "Nhân quyền (hay
quyền con ngời) là những năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con ngời,
với t cách là thành viên cộng đồng nhân loại, đợc thể chế hóa bằng pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế" [90, tr. 10]. Chúng tôi cho rằng,
khái niệm này bắt nguồn từ khái niệm của Mác về quyền con ngời. Theo Mác:
"Quyền con ngời là những đặc quyền chỉ có ở con ngời mới có, với t cách là
con ngời, là thành viên xã hội loài ngời" [57, tr. 14]. Định nghĩa này cũng t-
ơng ứng với nội dung của khái niệm quyền con ngời do Trởng đoàn đại biểu
Việt Nam phát biểu tại hội nghị quốc tế về nhân quyền ở Viên (áo) tháng 6
năm 1993: Quyền con ngời là một phạm trù tổng hợp, vừa là "chuẩn mực
tuyệt đối" mang tính phổ biến, vừa là "sản phẩm tổng hợp của một quá trình
lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triền", quyền con ngời "không thể
tách rời", đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế - xã hội Quyền con ngời là một tổng thể những quyền gắn bó với
nhau trong mối tơng quan biện chứng. Đó là quyền cá nhân và quyền của
dân tộc cộng đồng, quyền chính trị - dân sự và kinh tế văn hóa xã hội,
quyền của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội Trong thời đại ngày
nay, quyền con ngời không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ và phát triển.
Nh vậy, định nghĩa trên về nhân quyền đã đợc khái quát hóa từ góc
độ bản chất của vấn đề, đợc xem xét từ các đặc điểm của nó (so sánh giữa
con ngời và động vật khác), và cũng đợc xem xét từ góc độ giới hạn, phạm
vi của vấn đề. Định nghĩa này không chỉ khắc phục đợc tính phiến diện của
các định nghĩa khác, mà nó còn xác định rõ ràng "ranh giới" của vấn đề,
hạn chế của việc hiểu và vận dụng lệch lạc về quyền con ngời. Chúng tôi
tán thành với khái niệm này.
1.1.1.2. Khái niệm quyền công dân
Quyền công dân, về nguồn gốc lịch sử, nó là một khái niệm xuất
hiện cùng với cách mạng t sản và chỉ tồn tại trong xã hội công dân. Cách
mạng t sản đã biến con ngời (giai cấp thống trị trong xã hội) từ địa vị
thần dân trong nhà nớc quân chủ sang địa vị công dân trong nhà nớc
cộng hòa. Nghĩa là, khi đề cập đến khái niệm công dân là đề cập tới một
bộ phận con ngời, theo quy định của pháp luật với t cách là những thành
viên bình đẳng trong Nhà nớc, từ đó mà quyền con ngời đợc thừa nhận
một cách rộng rãi và bình đẳng với ý nghĩa là quyền công dân. Nhng
quyền công dân không phải và không bao giờ trở thành hình thức cuối
cùng của quyền con ngời, nó chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với
Nhà nớc và mối quan hệ đó đợc xác định thông qua một chế định pháp
luật đặc biệt là chế định quốc tịch.
Hiện vẫn tồn tại một số khái niệm khác nhau về quyền công dân:
- Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì quyền công dân là: "Quyền của
ngời công dân đợc thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền
về kinh tế - văn hóa xã hội" [104, tr. 1384]
- Theo tiến sĩ Nguyễn Đình Lộc, "quyền công dân - đó là sự thể chế
hóa về mặt nhà nớc bằng pháp luật địa vị con ngời trong khuôn khổ nhà n-
ớc, là sự thừa nhận, trong chừng mực mà nhà nớc chấp nhận, địa vị con ngời
của cá nhân trong nhà nớc [91, tr. 75].
Thạc sĩ Vũ Công Giao cho rằng: "Quyền công dân là tập hợp những
quyền tự nhiên đợc pháp luật của một nớc quy định, mà tất cả những ngời
có chung quốc tịch của nớc đó đợc hởng một cách bình đẳng" [36, tr. 21].
Theo chúng tôi, các khái niệm trên tuy có sự diễn đạt khác nhau,
nhng về bản chất, nội dung đều xuất phát từ khái niệm về quyền công dân
của C. Mác. Về vấn đề này C. Mác cho rằng: "Quyền công dân là những
quyền chính trị, những quyền cá nhân con ngời, với t cách là thành viên "xã
hội công dân" [57, tr. 14].
Nh vậy, khái niệm công dân, quyền công dân ra đời sau quyền con
ngời, nó gắn liền và đợc sử dụng rộng rãi trong xã hội t sản.
So với khái niệm quyền con ngời thì khái niệm quyền công dân
mang tính xác định hơn. Vì thế, nội dung, số lợng, chất lợng quyền công
dân của mỗi quốc gia là khác nhau, và tùy thuộc vào thể chế chính trị xã
hội, vào giai cấp cầm quyền trong xã hội. Trớc đây ở các nớc xã hội chủ
nghĩa vấn đề quyền con ngời ít đợc nói đến, nên mặc nhiên đợc hiểu rằng
quyền con ngời và quyền công dân là đồng nhất. Trong các văn kiện pháp lý
(Hiến pháp, luật) chỉ tồn tại thuật ngữ quyền công dân. Ngay ở Việt Nam
cũng vậy, trong các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, 1980 đều chỉ đề cập
đến quyền và nghĩa vụ của công dân mà không đề cập đến vấn đề quyền
con ngời. Chỉ đến Hiến pháp năm 1992, vấn đề quyền con ngời mới chính
thức đợc đề cập đến (Điều 50 Hiến pháp 1992).
1.1.1.3. Quan hệ giữa quyền con ngời, quyền công dân
Khi nghiên cứu vấn đề "nhân quyền", ta phải xem xét đầy đủ cả hai
khái niệm quyền con ngời - quyền công dân. Đây là hai khái niệm cơ bản,
có mối quan hệ biện chứng, mật thiết với nhau, nhng cũng có sự độc lập
nhất định với nhau và cần đợc phân biệt rõ khi tiếp cận vấn đề này.
Khái niệm quyền con ngời, là khái niệm rộng hơn so với khái niệm
quyền công dân. Nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân với nhà n-
ớc mà còn thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân con ngời với cộng đồng xã hội.
Do đó, trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, quyền con ngời bao gồm
toàn bộ những quyền tự nhiên đợc xác định từ khi họ sinh ra và tồn tại trong
suốt cuộc đời của họ. Thạc sĩ Vũ Công Giao cho rằng, quyền con ngời đóng
vai trò "là cơ sở để xác định tính điều chỉnh tự định đoạt của con ngời, khả
năng độc lập của con ngời trong việc giải quyết các nhu cầu cá nhân" [36, tr.
21].
Trong quan hệ với cộng đồng nhân loại, quyền con ngời bao gồm
những nhu cầu, lợi ích của con ngời đợc ghi nhận và bảo vệ bằng cả pháp luật
quốc gia và pháp luật quốc tế. Phạm vi tồn tại của nó không chỉ trong mối
quan hệ với một nhóm, một dân tộc, một quốc gia mà còn tồn tại trong mối
quan hệ với cả cộng đồng nhân loại. Nó thể hiện sự bình đẳng không chỉ
những ngời có chung quốc tịch, mà còn biểu hiện sự bình đẳng của mọi ngời
trong cả cộng đồng ngời. Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, nó ngày càng trở thành
yếu tố quan trọng.
Từ phân tích trên cho thấy, khái niệm quyền con ngời, quyền công
dân tuy có mối quan hệ gần gũi, mật thiết nhng không đồng nhất cả về chủ
thể lẫn nội dung. Tuy nhiên, hoàn toàn không có sự đối lập giữa quyền con
ngời và quyền công dân. Trong mối quan hệ giữa hai vấn đề này thì quyền
con ngời là khái niệm rộng hơn bao hàm cả quyền công dân, còn quyền
công dân là một thành tố, một bộ phận thiết yếu cơ bản của nó. Quyền con
ngời không thể thay thế quyền công dân, đồng thời quyền công dân không
thể chứa đựng hết dung lợng của quyền con ngời. Về chủ thể, chủ thể quyền
con ngời cũng rộng hơn chủ thể quyền công dân vì ngoài những cá nhân là
công dân, chủ thể quyền con ngời còn bao gồm cả những ngời không phải
là công dân nh đã ngời nớc ngoài, ngời không quốc tịch.
Nhận xét về vấn đề này, C.Mác - Ph.Ăngghen cho rằng:
Quyền con ngời và quyền công dân là hai khái niệm có
nội dung và ý nghĩa khác nhau, nhng không thể tách biệt đến mức
đối lập, mà về thực chất chúng thống nhất với nhau. Quyền con
ngời phải "thu hút" đợc quyền công dân vào nội dung của nó, vì
chúng nằm trong một chỉnh thể thống nhất, phản ánh tổng thể
nhu cầu của con ngời hiện thực trong điều kiện còn tồn tại Nhà nớc
[57, tr. 14].
Và "Vì vậy, Mác - Ăngghen đã sử dụng cả hai khái niệm Quyền con
ngời và Quyền công dân" [57, tr. 14].
1.1.2. Khái niệm giáo dục quyền con ngời, quyền công dân
1.1.2.1. Các quan niệm khác nhau về giáo dục quyền con ngời,
quyền công dân
Hiện đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục quyền
con ngời, quyền công dân.
- Quan niệm của giai cấp t sản: Các nớc t bản hiện đang rất quan
tâm đến vấn đề giáo dục quyền con ngời. Vấn đề này đợc các nớc phơng
Tây thực hiện thờng xuyên, liên tục cho mọi đối tợng cả trong phạm vi quốc
gia và cả trên phạm vi toàn cầu dới nhiều hình thức, phơng pháp khác nhau,
nhằm đạt đợc những mục đích khác nhau. Xuất phát từ lợi ích chính trị của
mình, họ chỉ tập trung vào việc giáo dục một số quan điểm về quyền con
ngời dới đây:
Ưu tiên giáo dục các quyền tự nhiên:
Quan niệm này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa quyền tự nhiên của
con ngời, dẫn đến việc tuyệt đối hóa cá nhân trong quan hệ cộng đồng xã
hội, coi quyền con ngời là bất khả xâm phạm, không phụ thuộc vào không
gian, thời gian, quốc gia, dân tộc. Mục đích của việc giáo dục quan điểm
này nhằm:
Thứ nhất, đối với dân chúng trong nớc, quan điểm này tạo ra đợc
một hình thức xã hội dân chủ. Mọi ngời đều có quyền nh nhau trong việc
thực hiện các mục tiêu, ý tởng sống, đợc quyền tự do, quyền sở hữu, quyền
đợc an toàn và chống áp bức
Thứ hai, khi quyền, tự do cá nhân đợc đề cao tuyệt đối sẽ dẫn đến
việc triệt tiêu quyền lợi của tập thể, nhóm, giới, xóa nhòa quyền giai cấp và
sẽ dẫn đến hệ quả mà giai cấp t sản - giai cấp đang thống trị xã hội mong
muốn là ý thức đấu tranh giai cấp trong xã hội bị thủ tiêu, ý thức đấu tranh
đòi quyền lợi của tập thể dân c, sắc tộc, bộ phận xã hội bị xóa bỏ.
Để hiểu rõ quan điểm này của giai cấp t sản, chúng tôi xin nêu một
số dẫn chứng cụ thể sau:
+ Nhà hoạt động xã hội ngời Mỹ Barbara B.Bird đã viết:
chúng tôi khai quốc bằng một cuộc cách mạng chống
chủ nghĩa thực dân áp bức. Những sự kiện ấy kết hợp với chủ
nghĩa cá nhân thô thiển. Sự thiếu chủ nghĩa cổ điển, sự tin tởng
vào những tự do mà Hiến chơng về quyền lợi (Bill of Rights) đảm
bảo đã dẫn đến sự chấp nhận bạo lực khi dân chúng tôi tìm cách
chiếm đoạt đất hoang, thú vật và ngời da đỏ vốn là thổ dân ở đây
trớc. Điều này khiến cho ngời ta đặt u tiên vào cá nhân hơn là gia
đình hoặc cộng đồng trong khi di chuyển để cắm những địa bàn di
dân, nhiều khi ở những miền hẻo lánh, chúng tôi đã đa điều ấy tới
chỗ cực đoan.
Tôi lấy làm buồn vì sự tan vỡ của gia đình và cộng đồng
Mỹ. Tôi kinh tởm bạo lực trong nền văn hóa của chúng tôi. ấy là
tôi đặc biệt nghĩ đến một sự kiện lịch sử nh sự phá hủy văn hóa và
các dân tộc thổ dân Mỹ, sự bóc lột nô lệ da đen châu Phi trong
khi xây dựng kinh tế quốc gia [3, tr. 50].
+ Khi phân tích về quan hệ giai cấp ở Mỹ, trong tác phẩm "Lối sống
Mỹ" (đã xuất bản ở 9 nớc, bằng 7 ngôn ngữ khác nhau) A.R.Lanier đã viết:
Hoa Kỳ thờng tự hào là một xã hội không giai cấp.
Khách lạ dễ thấy ở Mỹ lơng cao và mức sinh hoạt cao, quần áo
các kiểu may sẵn hàng loạt, ăn nói bỗ bã, hay sử dụng tên cúng
cơm Thực ra thì có giai cấp, bắt đầu ngay từ khu vực ở. Có điều
là ranh giới giai cấp ấy rất dễ bị hủy bỏ, chỉ cần có nghị lực và
thành công. Biết bao nhiêu ngời giàu sang xuất thân hàn vi. Ngời
Mỹ lại thay đổi chổ ở luôn; trong 5 gia đình, có 1 cứ ba năm lại dọn
nhà một lần. Với tâm lý tự lực, không có thành kiến giai cấp nh ở
nớc khác.
Giai cấp gắn với gia đình. Từ thế chiến II, gia đình Mỹ
càng lỏng lẻo; thành công cá nhân ít có ảnh hởng đến gia đình, do
đó, khái niệm giai cấp cũng có phần mờ nhạt hơn. Ngày nay, các
khái niệm chủng tộc, gốc rễ dân tộc, địa phơng thờng át khái
niệm giai cấp. Vị trí xã hội không phải là một yếu tố ổn định,
thừa hởng của giai cấp nh nhiều nơi khác" [78, tr. 152].
ở Pháp, quốc gia đợc coi là cái nôi của quyền tự do công dân khi từ
năm 1789 đã công bố bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nổi tiếng.
Nội dung Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp gần đây nhất tiếp
tục đợc thể hiện trong Hiến pháp của Cộng hòa Pháp năm 1958, đã toát lên
t tởng chủ đạo của nó là:
Hoạt động tự do của con ngời là một quyền tự nhiên, vì
vậy, không cần phải liệt kê lại những quyền gì là đợc phép: tất cả
những gì luật pháp không nghiêm cấm đều đợc phép làm; ngợc
lại, cần phải xác định rõ những điều cần nghiêm cấm dĩ nhiên là
có xét đến những quy định trong Hiến pháp [47, tr. 370].
Đặc trng cơ bản cho các quyền tự do của con ngời đợc Hiến pháp
của Pháp ghi nhận là quyền sở hữu. ở đây, quyền này đợc quan niệm nh là
quyền sở hữu, sử dụng hay phân chia từng phần tùy theo ý chí chủ nhân.
Theo một số nhà nghiên cứu thì quyền này đã đợc phản ánh một cách nhất
quán và chi tiết hóa qua các tiêu chuẩn của Bộ luật Dân luật của Napoleon
năm 1804. Mà Bộ luật này theo nhận xét của Ăngghen chính là: "Là khung
Bộ luật cơ bản mẫu mực của xã hội t bản". Với tinh thần coi tài sản sở hữu
là nền tảng của tự do nêu trên, Điều 554 Bộ Dân luật Pháp quy định: "Sở
hữu là quyền đợc sử dụng và phân chia tài sản hoàn toàn tuyệt đối miễn sao
việc sử dụng và phân chia tài sản không phạm vào những gì sắc luật và quy
chế không cấm". Nhà làm luật không có quyền xâm phạm hoặc hạn chế quá
mức việc chiếm giữ, sử dụng và phân chia tài sản, phải theo đúng nguyên tắc:
"Cho phép làm tất cả những gì không gây phơng hại đến những ngời khác,
hay làm hại đến lợi ích xã hội" [47, tr. 372], hoặc theo ý kiến của Giscard
d'Estaing thì nhà làm luật:
Chỉ có đợc quyền can thiệp vào các quan hệ kinh tế tự do
dựa trên cơ sở cạnh tranh và thị trờng trong những trờng hợp bất đắc
dĩ hoặc trong những trờng hợp phải kìm lại sự tiến triển buộc cá
nhân phải mất qua nhiều công sức vất vả không đáng có, hoặc nhằm
mục đích thay đổi quá trình chuyên môn hóa nền kinh tế đang
khiến nó phụ thuộc quá vào ngời cấp vốn và thị trờng quốc tế [47, tr
372].
Theo quy định của Hiến pháp Pháp, một cơ sở quan trọng để bảo
đảm các quyền tự do là nguyên tắc tính phù hợp, dung hòa giữa các quyền
tự do, tính chất cùng tồn tại trong quan hệ thống nhất giữa các quyền tự do
công cộng, địa phơng và cá nhân. Trong đó, các quyền tự do công cộng
(mục 2 Điều 34 Hiến pháp Pháp), các quyền tự do của các tập thể địa phơng
và vùng lãnh thổ (mục 4 Điều 34, mục 2 Điều 72 Hiến pháp Pháp) đều đợc
coi là "nền tảng để tôn cao quyền tự do của cá nhân, của công dân cũng nh
quyền chiếm giữ và phân chia tài sản riêng" [47, tr. 373]. Nh vậy, nghĩa vụ
của bộ máy nhà nớc là phải đảm bảo thực hiện đúng pháp luật và trách nhiệm
của mình để bảo đảm tôn trọng và thực hiện ở mức độ cao nhất các quyền,
tự do của công dân.
ở Đức, quyền công dân bắt đầu đợc ghi nhận trong Hiến pháp từ
năm 1818 - 1819 (Hiến pháp Baria và Bađen năm 1818, Nurtemberg năm
1819), khi đó, nớc Đức còn đang ở trong thời kỳ quân chủ lập hiến. Đây là
thời kỳ chuyển giao giữa chế độ phong kiến và chế độ t bản chủ nghĩa nên
thời kỳ này đã có một sự dung hòa, thích nghi giữa trật tự pháp luật quân
chủ tuyệt đối với những đòi hỏi về kinh tế và chính trị của giai cấp t sản mà
trong đó, cái ảnh hởng to lớn là những t tởng của chủ nghĩa tự do kinh tế. T
tởng này đã trở thành căn cứ nền tảng cho việc hình thành nên những quyền
và tự do công dân có tính kinh điển đang dần đợc xác nhận trong pháp luật
thực định và tồn tại trong các Hiến pháp, văn bản pháp luật của nớc Đức sau
này. Điều 1 Luật cơ bản của Đức quy định: "Việc tôn trọng và bảo vệ các
quyền của con ngời đợc tuyên bố là nguyên tắc cơ bản của toàn bộ quyền
lực nhà nớc" [47, tr. 410]. Nguyên tắc quyền tự chủ của nhân dân và học
thuyết quyền tự nhiên đợc tiếp tục thể hiện ở Điều 4 Luật cơ bản khi nội
dung của điều luật này tuyên bố cấm vi phạm và xuyên tạc các quyền của
con ngời.
Chỉ tập trung giáo dục các quyền dân sự và chính trị:
Quyền chính trị, dân sự vừa là mục đích, vừa là động lực của cách
mạng t sản. Vấn đề này tiếp tục đợc đề cao trong quá trình phát triển của
chủ nghĩa t bản vì những lý do chính trị của giai cấp t sản. Hiện nay, một số
nhà khoa học, nhà chính trị t sản vẫn tiếp tục phủ nhận ý nghĩa của các
quyền về kinh tế - xã hội đối với toàn bộ các quyền về chính trị, dân sự và
các quyền, tự do khác của con ngời. Họ cho rằng các quyền dân sự, chính
trị có tầm quan trọng hàng đầu trong việc đảm bảo thực hiện các quyền con
ngời. Thậm chí, họ còn phủ nhận cả trách nhiệm pháp lý của các quốc gia
trong việc bảo đảm thực hiện các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Mặc
dù các quyền đó đã đợc ghi rõ trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con ngời
và các Công ớc quốc tế khác về quyền con ngời. Một minh chứng rất điển
hình cho luận điểm này của giai cấp t sản là việc Liên Hợp Quốc cùng lúc
thông qua hai "Công ớc quốc tế về các quyền dân sự, chính trị" và "Công ớc
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa". Giải thích về vấn đề này,
La-lê-ri Sa-lit-de cho rằng:
Khi Liên Hợp Quốc quyết định thảo ra một hiệp ớc về
quyền con ngời, Liên Xô tham gia hoàn chỉnh hiệp ớc này. Lập
trờng của Liên Xô về những quyền xã hội - kinh tế rất cứng rắn,
khó mà các nớc t bản thỏa hiệp đợc với Liên Xô trên lĩnh vực
này. Tuy thế, ngời ta vẫn tìm ra đợc cách nhân nhợng nhau, đáng
lẽ thảo chỉ một hiệp ớc về quyền con ngời, ngời ta đã thảo ra hai
bản. Hiệp ớc quốc tế về các quyền xã hội, kinh tế và văn hóa, chủ
yếu phản ánh quan điểm của Liên Xô và hiệp ớc quốc tế về các
quyền công dân và quyền chính trị của con ngời phản ánh chủ
yếu quan điểm phơng Tây [107, tr. 3].
Ông cũng cho rằng, hiện có nhiều ngời nghi ngờ thuật ngữ "các
quyền xã hội - kinh tế", họ thậm chí còn không cả thừa nhận các quyền này
nh là một bộ phận trong toàn bộ các quyền cơ bản của con ngời và không
chịu coi đó là những quyền phải đợc nhà nớc bảo đảm. Cơ sở của quan
điểm này là việc trong các xã hội kinh doanh t nhân (chủ yếu là Tây Âu và
Bắc Mỹ), con ngời phải tự lo liệu lấy cho mình và "trong những điều kiện
ấy, nói đến bảo đảm những quyền xã hội - kinh tế sẽ là vô nghĩa và mâu
thuẫn với mâu thuẫn xã hội. Trong lòng xã hội tự do kinh doanh, Nhà nớc
không sản xuất hàng hóa và dịch vụ, nó cũng không sở hữu nhà ở và bất
động sản, do đó, nó không thể bảo đảm cho con ngời những của cải loại ấy"
[107, tr. 5]. Khi Nhà nớc cần đảm bảo mức sống cho một bộ phận nhân dân
nghèo khổ nhất trong xã hội thì Nhà nớc phải bắt những ngời có thu nhập
cao phải tự hạn chế mình để nuôi sống bộ phận nghèo khổ trong xã hội.
Điều này tuy đang đợc khuyến khích ở các nớc t bản nhng nó lại đợc coi là
hoạt động từ thiện chứ không phải là sự tôn trọng và bảo vệ các quyền xã
hội và kinh tế của công dân. Hay nói rõ hơn, nó không phải là một quyền
của công dân.
Về vấn đề này, chúng ta cũng có thể thấy đợc rất rõ trong hệ thống
pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức. Hiến pháp năm 1848 của Đức lần đầu
tiên ghi nhận một số quyền xã hội, phản ánh ảnh hởng của t tởng xã hội - dân
chủ, thể hiện sự quan tâm đến quyền lợi của giai cấp khác ngoài giai cấp t sản,
thể hiện quan niệm mới về quyền con ngời không chỉ là các quyền chính trị và
dân sự. Tuy nhiên, trong thực tế, các quyền này đợc phân biệt rất rõ ràng:
đồng thời với việc các quyền chính trị và tự do công
dân đợc xem nh là những quyền có tính chất truyền thống, tức là
những bảo đảm chống lại sự tùy tiện của các cơ quan thừa hành
và hành chính, ngời ta coi các quyền xã hội nh là những giá trị có
tính chất cơng lĩnh nhất thời, chứ không hề có tính bắt buộc phải
thực hiện" [55, tr. 403].
Trong Hiến pháp năm 1949 của Cộng hòa Liên bang Đức, trong khi
các quyền và tự do cơ bản (quyền dân sự và chính trị "tự do" truyền thống)
đợc ghi rõ thuộc loại đầu thì lại không có những quy phạm đảm bảo cho các
quyền xã hội và những trờng hợp làm hại quyền xã hội không thể là căn cứ
để khiếu nại lên tòa án Hiến pháp.
Giáo dục quan điểm về quyền con ngời là tuyệt đối, vĩnh hằng,
phổ biến:
Chủ nghĩa nhân bản trừu tợng của giai cấp t sản cho rằng, nhân
quyền là quyền lợi vốn có không thể tớc đi đợc của con ngời với t cách là
con ngời. Mà quyền con ngời do "luật lệ của tự nhiên và của đấng tạo hóa
đã cho họ đợc hởng" [93, tr. 15] hoặc do "Quốc hội thừa nhận và tuyên bố,
với sự chứng kiến và sự bảo hộ của đấng tối cao, các quyền sau đây của con
ngời và của công dân" [94, tr. 21].
Vì thế, quyền con ngời trở nên tuyệt đối, vĩnh hằng và phổ biến.
Thậm chí các nhà lý luận chính trị của giai cấp t sản còn cho rằng quan