Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

phân tich nội dung định nghĩa vật chất của leeenin và ý nghia phương pháp luận? ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.1 KB, 5 trang )

Câu 1: phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận định nghĩa vật chất của
V.I.Lênin?

Trả lời:

Sơ l ược các quan niệm về vật chất trong lịch sử triết học của CNDV trước Mác

-Thời kì cổ đại, các nhà triết học duy vật, kể cả các nhà triết học ở phương Đông cũng như
các nhà triết học ở phương Tây đều có xu thế tìm một vật thể đầu tiên ban đầu nào đó và coi
đó là nguyên nhân hình thành nên thế giới vật chất.
+ Ở Trung Hoa cổ đại người ta cho rằng Kim- Mộc- Thủy- Hỏa- Thổ là những tố chất, vật
chất đầu tiên của thế giới.
+ Ấn Độ cổ đại thì người ta lại cho rằng Anu là hạt hình thành nên thế giới vật chất.
+ Còn ở Hy lạp cổ đại Talet coi thực thể của thế giới là nước, Anaximen coi thực thể ấy là
khí, còn Hêraclit coi thực thể ấy là lửa. Nhưng đỉnh cao trong quan niệm vật chất cổ đại là
thuyết nguyên tử của Lơxip và Đêmôcrit, thừa nhận nguyên tử là yếu tố đầu tiên hình thành
nên thế giới vật chất.
Quan niệm của những nhà triết học thời kì này đã lấy chính thế giới để giải thích thế giới.
Tuy nhiên còn thô sơ chất phác, mang tính cảm tính và người ta chỉ rằng vật chất là khởi
nguyên để xây dựng thế giới xung quanh. Đã đồng nhất vật chất với các dạng củ thể của nó.
-Thời kì cận đại Tây Âu, quan niệm về vật chất không có gì khác nhiều so với các nhà triết
học thời cổ đại nhưng họ lại đồng nhất vật chất giữa nguyên tử với khối lượng, coi khối
lượng là thuộc tính bất biến của vật chất; nguyên tử là yếu tố nhỏ nhất không thể phân chia
được tách rời vận động, không gian và thời gian và nó hình thành nên vật chất. Tuy cũng lấy
chính thế giới để giải thích thế giới, nhưng do máy móc siêu hình nên đã phân chia thế giới
thành từng đối tượng, từng lĩnh vực khác nhau, cô lập các lĩnh vực để nghiên cứu dẫn đến
các quan điểm về vật chất một cách phiến diện, chỉ nhìn thấy bề ngoài. Nói chung quan
niệm của những nhà triết học trước Mác này mang tính chất cơ học.
Quan điểm của Mác và Angghen về vật chất: là hai nhà triết học của trừng phái DVBC,
hai ông đã lấy chính thế giới để giải thích thế giới, khẳng định rằng vật chất có trước, ý thức
có sau và vật chất quyết định ý thức. Song hai ông chưa đưa ra được một khái niệm cụ thể


về vật chất.
Hoàn cảnh ra đời và lịch sử để Lê-nin đưa ra định nghĩa

Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, các cuộc đấu tranh giữa các trường phái, các luồng học
thuyết, tư tưởng, chính trị diễn ra gay gắt. Khoa học tự nhiên phát triển như vũ bão và có
nhiều phát kiến mang tính chất vạch thời đại đặc biệt là những phát minh, Rơnghen phát
hiện ra tia X, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, Tômxơn phát hiện ra điện tử,
Kaufman đã phát hiện ra rằng trong quá trình vận động, khối lượng của điện tử thay đổi khi
vận tốc của nó thay đổi và thuyết tương đối của Anhxtanh… Chính các phát minh này đã
dẫn đến cuộc khủng hoảng trong triết học, quan niệm về vật chất rơi vào tình trạng khủng
hoảng.
Nêu định nghĩa về vật chất của Lê-nin

Tổng kết từ những thành tựu tự nhiên của khoa học, phê phán những quan niệm duy tâm,
siêu hình về phạm trù vật chất, Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật
chất như sau:
“ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác”
Phân tích định nghĩa

- Theo định nghĩa vật chất của Lê-nin, thì thứ nhất cần phải phân biệt vật chất với tư cách là
một phạm trù triết học tức “vật chất là toàn bộ thực tại khách quan”. Nó khái quát những
thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng tồn tại của thế giới vật chất với khái
niệm vật chất được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành, hay nói cách khác là dùng để
chỉ những dạng vật chất cụ thể như: nước lửa không khí, nguyên tử,…
- Thứ hai thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất chính là thuộc tính tồn
tại khách quan, nghĩa là sự tồn tại vận động và phát triển của nó không lệ thuộc vào tâm tư,
nguyện vọng, ý chí và nhận thức của con người cho dù con người có nhận thức được nó hay
không.

- Thứ ba vật chất ( dưới những hình thức tồn tại cụ thể của nó) là nguồn gốc khách quan của
cảm giác, ý thức; những cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián
tiếp tác động đến các giác quan của con người.
Ý nghĩa

Định nghĩa vật chất của Lê-nin có hai ý nghĩa quan trọng sau đây:
- Thứ nhất bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính tồn tại khách
quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật chất với tư
cách là phạm trù triết học với cac dạng của khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được
hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để
xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.
- Thứ hai khi khẳng định vật chất là “thực tại khách quan”, “được đem lại cho con người
trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh”, Lê-nin đã
giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có
sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là con người có thể nhận thức được thế giới khách quan
thông qua sự “chép lại, chụp lại, phản ánh” của con người đối với thực tại khách quan.
Định nghĩa vật chất của Lê-nin đã tạo cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy
vật về xã hội,về lịch sử. Mặc dù định nghĩa vật chất của Lê-nin đã ra đời gần hai thế kỷ
nhưng nó vẫn giữ nguyên giá trị thực tiễn và khoa học.
Câu 2: nguồn gốc, bản chất của ý thức theo quan điểm của triết học Mác- Lênin?

Trả lời:

a. Nguồn gốc của ý thức

Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (yếu tố cần)

1) Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới hữu
cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi đến con người- sinh vật-xã hội. Là tổ chức vật chất
có cấu trúc tinh vi; chỉ khoảng 370g nhưng có tới 14-15 tỷ tế bào thần kinh liên hệ với nhau

và với các giác quan tạo ra mối liên hệ thu, nhận đa dạng để não người điều khiển hoạt động
của cơ thể. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não
bộ; bộ não càng hoàn thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng
phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài người cũng là quá
trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh thần của con
người bị rối loạn khi não bị tổn thương.
2) Sự phản ánh của vật chất là một trong những nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Mọi hình
thức vật chất đều có thuộc tính phản ánh và phản ánh phát triển từ hình thức thấp lên hình
thức cao- tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất.
Phản ánh là sự tái tạo lại những đặc điểm, tính chất của dạng vật chất này (dưới dạng đã
thay đổi) trong một dạng vật chất khác.
Quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin, vật nhận tác động (cái phản ánh là cái chứa
đựng thông tin về những sự vật, hiện tượng) mang thông tin của vật tác động (cái được phản
ánh là những sự vật, hiện tượng cụ thể của vật chất) và đây là vấn đề quan trọng để làm sáng
tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức. VD: khi ném viên bi vào bãi đất sét thì đất sét là cái phản
ánh còn hình ảnh viên bi trên bãi đất sét là cái được phản ánh.
Các hình thức phản ánh.
a) Phản ánh của giới vô cơ (gồm phản ánh vật lý và phản ánh hoá học) là những phản ánh
thụ động, không định hướng và không lựa chọn. VD: gỗ bị mục hay gương phản xạ ánh
sáng mặt trời là những phản ánh giới vô cơ.
b) Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh thể hiện
qua cơ chế phản xạ ko điều kiện.
c) Phản ánh tâm lý là phản ánh đặc trưng cho động vật đã có định hướng, lựa chọn để nhờ
đó mà động vật thích nghi với môi trường sống. Trong phản ánh của động vật có phản xạ
không điều kiện (bản năng); phản xạ có điều kiện (tác động thường xuyên) ở động vật có
thần kinh trung ương tạo nên tâm lý.VD: khi túm tai con mèo thi 2 chân sau của nó co lên
thể hiện cơ chs phản xạ ko điều kiện, khi chúng ta gọi gà cho ăn dần dần thành thói quen, rồi
sau đó cứ gọi cho ăn là gà sẽ chạy về là một phản xạ có điều kiện.
d) phản ánh ý thức (phản ánh năng động, sáng tạo) là hình thức phản ánh cao nhất chr có ở
con người, đặc trưng cho một dạng vật chất có tổ chức cao là não người. Có tính chủ động

lựa chọn, xử lý thông tin để phát hiện và tạo ra những thông tin mới.
Tóm lại, sự phát triển của các hình thức phản ánh gắn liền với các trình độ tổ chức vật
chất khác nhau và ý thức nảy sinh từ các hình thức phản ánh đó.
Nguồn gốc xã hội của ý thức (yếu tố đủ)

1) Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên
nhằm thay đổi giới tự nhiên,là hoạt động có mục đích, có tính lịch sử-xã hội của con người
nhằm tạo ra của cải để tồn tại và phát triển; đồng thời lao động cũng tạo ra đời sống tinh thần
phong phú và hơn thế nữa, lao động giúp con người hoàn thiện chính mình. Sự hoàn thiện
của đôi tay, việc biết chế tạo công cụ trong quá trình lao động làm cho ý thức không ngừng
phát triển (bằng cách tích lũy kinh nghiệm), tạo cơ sở cho con người nhận thức những tính
chất mới (được suy ra từ những kinh nghiệm đã có) của giới tự nhiên; dẫn đến năng lực tư
duy trừu tượng, khả năng phán đoán, suy luận dần được hình thành và phát triển.
2) Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) là “cái vỏ vật chất” của ý thức. Trong quá trình lao động
con người liên kết với nhau, tạo thành các mối quan hệ xã hội tất yếu và các mối quan hệ
của các thành viên của xã hội không ngừng được củng cố và phát triển dẫn đến nhu cầu cần
thiết “phải trao đổi với nhau điều gì đấy” nên ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ ra đời trở thành
“cái vỏ vật chất của ý thức”, thành phương tiện thể hiện ý thức. Nhờ ngôn ngữ, con người
khái quát hoá, trừu tượng hoá những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau. Ngôn ngữ là sản
phẩm của lao động, đến lượt nó, ngôn ngữ lại thúc đẩy lao động phát triển.
 như vậy nguồn gốc hình thành lên ý thức gồm 4 yếu tố là:bộ óc con người, thế giới
khách quan và sự phản ánh, lao động và ngôn ngữ. Trong đó lao động là yếu tố quan trọng
nhất hình thánh lên ý thức vì qua lao động não người dần hoàn thiện và phát triển trở lên
tinh vi hơn từ đó hình thành lên ý thức.
b. Bản chất và kết cấu của ý thức

- Bản chất của ý thức. Điểm xuất phát để hiểu bản chất của ý thức là sự khẳng định ý thức là
sự phản ánh, là hình ảnh tinh thần về sự vật, hiện tượng khách quan. Ý thức thuộc phạm vi
chủ quan, không có tính vật chất, mà chỉ là hình ảnh phi cảm tính của sự vật, hiện tượng
cảm tính được phản ánh. Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo

thế giới khách quan vào bộ não người; là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới khách
quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không còn y nguyên
như nó vốn có, mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông qua tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng, nhu cầu ý thức phản ánh hiện thực, còn ngôn ngữ thì diễn đạt hiện thực và
nói lên tư tưởng. Các tư tưởng đó được tín hiệu hoá trong một dạng cụ thể của vật chất- là
ngôn ngữ- cái mà con người có thể cảm giác được. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể
hình thành và tồn tại được.
+ Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới có
chọn lọc- tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm nắm bắt bản
chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng vượt trước (dự báo)
của ý thức tạo nên sự lường trước những tình huống sẽ gây tác động tốt, xấu lên kết quả của
hoạt động mà con người đang hướng tới. Có dự báo đó, con người điều chỉnh chương trình
của mình sao cho phù hợp với dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng; xây dựng
các mô hình lý tưởng, đề ra phương pháp thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu.
+ Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức
gắn liền với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học, mà
chủ yếu còn của các quy luật xã hội; do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt
hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động của mình, ý thức sáng tạo lại hiện thực
theo nhu cầu của bản thân và thực tiễn xã hội. Ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở cùng
một thời đại, sự phản ánh (ý thức) về cùng một sự vật, hiện tượng có sự khác nhau- theo các
điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.

×