Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC "VIỆT NAM HOÁ CHIẾN TRANH", GIẢI PHÓNG MIỀN NAM NƯỚC TA (1969 - 1-1973)_1 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.28 KB, 7 trang )

ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC "VIỆT NAM
HOÁ CHIẾN TRANH", GIẢI PHÓNG MIỀN
NAM NƯỚC TA (1969 - 1-1973)


1. Chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ và chủ
trương chuyển hướng chiến lược của Đảng

Chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ.

Sau thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt Nam,
nước Mỹ lâm vào cuộc khủng hoảng nặng nề nhất từ sau Chiến tranh
thế giới thứ hai. Ngân sách thâm hụt lớn, lạm phát tăng, đội quân thất
nghiệp ngày càng đông và "xã hội Mỹ đang có khủng hoảng về tinh thần
và bị giằng xé, chia rẽ về chính trị". Trong khi Mỹ sa lầy trong chiến
tranh Việt Nam, các nước Tây Âu và Nhật Bản nhanh chóng vượt lên về
kinh tế. Cạnh tranh với Mỹ, Liên Xô đã giành được thế cân bằng về vũ
khí chiến lược với Mỹ. Phong trào độc lập dân tộc tiếp tục phát triển ở
châu Á, châu Phi và ngay cả Mỹ Latinh, "sân sau" của đế quốc Mỹ.

Tình hình đó thúc ép giai cấp thống trị Mỹ phải điều chỉnh chiến lược để
tiếp tục thực hiện âm mưu bá chủ thế giới. Đầu năm 1969, bước vào
Nhà Trắng, Níchxơn đề ra chiến lược toàn cầu mang tên "học thuyết
Níchxơn", với ba nguyên tắc "tập thể tham gia", "sức mạnh của Mỹ",
"sẵn sàng thương lượng".

Níchxơn vận dụng học thuyết này vào cuộc chiến tranh Việt Nam, đề ra
chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", một sự điều chỉnh chủ trương
"phi Mỹ hoá" của Giônxơn, thực chất là "dùng người Việt giết người
Việt" để duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam.


Thực hiện chiến lược mới, Mỹ áp dụng một loạt biện pháp: ra sức củng
cố nguỵ quyền, xây dựng đội quân nguỵ đông và hiện đại, tự gánh vác
được nhiệm vụ chiến tranh để cho quân Mỹ rút; ráo riết thực hiện
chương trình bình định, tăng cường chiến tranh phá hoại ở miền Bắc
Việt Nam nhằm cắt nguồn viện trợ của miền Nam; mở rộng chiến tranh
sang Lào và Campuchia; thoả hiệp với Trung Quốc, hoà hoãn với Liên Xô
hòng cắt giảm nguồn viện trợ chủ yếu của Việt Nam.

"Việt Nam hoá chiến tranh" là một chiến lược hết sức thâm độc và nguy
hiểm. Nhưng như Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 4-1969 chỉ rõ, chiến
lược "Việt Nam hoá chiến tranh" ra đời trong thế Mỹ thua, buộc phải
xuống thang chiến tranh nhưng lại muốn xuống thang trên thế mạnh;
phải rút quân Mỹ ra mà lại muốn quân nguỵ mạnh lên; muốn giảm
thương vong và chi phí cho chiến tranh nhưng lại buộc phải rút quân
nhỏ giọt, kéo dài và mở rộng chiến tranh; muốn xoa dịu sự chống đối ở
trong nước và dư luận thế giới nhưng không che giấu được tính chất
tàn bạo của "Việt Nam hoá chiến tranh". Đó là những mâu thuẫn cơ
bản, đồng thời là những chỗ yếu cơ bản của chiến lược chiến tranh mới
của Mỹ.

Năm 1969 và đầu năm 1970 là giai đoạn đầu Mỹ thực hiện chiến lược
"Việt Nam hoá chiến tranh". Mỹ - nguỵ tiến hành liên tiếp các chiến dịch
bình định, mở hàng vạn cuộc hành quân càn quét, đóng hàng nghìn đồn
bốt ở ấp xã, dồn dân vào các khu tập trung để kìm kẹp dân, tìm diệt lực
lượng của ta; đánh phá các căn cứ giải phóng ở miền núi và vùng giáp
ranh. Đồng thời, Mỹ ra sức tăng cường quân nguỵ, củng cố nguỵ quyền
Thiệu - Kỳ. Không quân Mỹ tăng cường đánh phá đường Hồ Chí Minh và
các kho tàng, bến bãi của ta từ Quảng Bình đến Vĩnh Linh, hòng chặn
đứng sự tăng viện của miền Bắc vào miền Nam. Tại cuộc đàm phán ở
Pari, phía Mỹ đưa ra những đề nghị ngang ngược (như đòi miền Bắc rút

quân khỏi miền Nam) để kéo dài đàm phán.

Chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng.

Để củng cố tinh thần quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của quân và dân
ta, ngày 1-1-1969, trong Thư chúc mừng năm mới, Chủ tịch Hồ Chí
Minh kêu gọi: "Vì độc lập, vì tự do, Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ
nhào ".
Tiếp theo Chỉ thị gửi Đảng bộ miền Nam tháng 11-1968, Nghị quyết Bộ
Chính trị tháng 4-1969 động viên quân và dân ta tiếp tục đẩy mạnh tổng
công kích, tổng khởi nghĩa đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến
tranh" và âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh của Mỹ. Như vậy,
tuy đã thấy những khuyết điểm sau đợt Tổng tiến công Xuân 1968,
nhưng như các Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 18 và 21 sau này vạch
rõ, ta chưa đánh giá thật đầy đủ ý đồ thâm độc và khả năng mới của
địch cũng như tình hình khó khăn của ta trên chiến trường, cho nên
chưa thấy cần phải chuyển hướng tiến công về nông thôn để phá tan
âm mưu của địch.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, miền Bắc đưa một khối
lượng lớn người và vũ khí vào tăng cường sức chiến đấu cho miền Nam.
(6 trung đoàn bộ binh, 10 tiểu đoàn và 100 đại đội, trung đội đặc công,
8 vạn quân bổ sung cùng 17 vạn tấn vũ khí - TG). Quân và dân miền
Nam anh dũng đồng loạt mở hai cuộc tiến công mùa Xuân và mùa Hè
1969, diệt hàng vạn tên địch, hỗ trợ nhân dân nhiều nơi nổi dậy giành
quyền làm chủ.

Tháng 6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
Nam được thành lập, đánh dấu một bước thắng lợi trong việc củng cố
chính quyền cách mạng, nâng cao vị trí quốc tế của Cộng hoà miền Nam

Việt Nam. Trước đó, tại Hội nghị Pari đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam đưa ra giải pháp toàn bộ 10 điểm, trong đó nêu rõ
hai vấn đề chủ yếu là Mỹ rút quân và vấn đề nội bộ giữa người Việt
Nam với nhau ở miền Nam sau khi Mỹ rút quân. Hai sự kiện trên được
dư luận rộng rãi trên thế giới đồng tình và ủng hộ, cổ vũ mạnh mẽ
phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mỹ.(Hội nghị quốc tế ủng
hộ Việt Nam của 50 nước và 21 tổ chức tại Xtốckhôm - Thuỵ Điển tháng
5-1969 hoan nghênh lập trường của ta, đòi Mỹ rút quân, chấm dứt
chiến tranh - TG).

Sau các đợt hoạt động Xuân và Hè 1969, lực lượng ta bị hao mòn chưa
kịp được củng cố thì địch lại lợi dụng mùa mưa phản kích quyết liệt tại
vùng nông thôn, đánh phá các căn cứ miền núi. Chúng lấn chiếm phần
lớn vùng đồng bằng, chiếm thêm 3.000 ấp với gần 3 triệu dân (so với
cuối năm 1968). Lực lượng chính trị và vũ trang cơ sở của ta bị tổn thất
nặng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên bị đánh bật khỏi địa bàn, dạt lên
vùng căn cứ. Bộ đội chủ lực bị đẩy lên vùng biên giới, một bộ phận phải
di chuyển ra sát miền Bắc để củng cố. Tư tưởng hữu khuynh, tiêu cực
xuất hiện trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ mùa Thu năm 1969,
Bộ Chính trị chỉ đạo các chiến trường chuyển hướng hành động nhằm
đánh mạnh vào kế hoạch bình định của địch, song địch vẫn mở rộng
được vùng bình định.

Tháng 1-1970, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họpHội nghị
lần thứ 18, đánh giá cục diện kháng chiến, đề ra phương hướng và giải
pháp đưa cuộc kháng chiến tiến lên. Hội nghị khẳng định những thắng
lợi đạt được trong hai năm 1968-1969, vạch rõ khuyết điểm của sự chỉ
đạo là chưa đánh giá đầy đủ, kịp thời âm mưu mới của địch, chậm đề ra
sự chuyển hướng chiến lược, dẫn đến nhiều thiệt hại, khó khăn. Hội
nghị dự đoán sắp tới địch sẽ tiếp tục thực hiện kế hoạch bình định, mở

rộng chiến tranh ra miền Bắc, Lào và Campuchia và tiếp tục bám giữ lập
trường ngoan cố trong đàm phán, với hy vọng thực hiện được "Việt
Nam hoá chiến tranh". Hội nghị nhấn mạnh phải nhận thức rõ tính chất
lâu dài, gay go phức tạp của cuộc đấu tranh, kiên trì khôi phục và xây
dựng lực lượng chiến đấu, tiến tới giành thắng lợi quyết định. Hội nghị
chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở các thành thị, đẩy mạnh
đấu tranh quân sự và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn, mở rộng
vùng giải phóng.


×