Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

XÂY DỰNG MIỀN BẮC, ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC "CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT" CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1961 - 1965)_1 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.51 KB, 8 trang )

XÂY DỰNG MIỀN BẮC, ĐÁNH THẮNG CHIẾN
LƯỢC "CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT" CỦA ĐẾ
QUỐC MỸ (1961 - 1965)


1. Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ và chủ trương
của Đảng chuyển từ khởi nghĩa sang chiến tranh cách mạng

Với thắng lợi của công cuộc củng cố miền Bắc và cao trào Đồng khởi ở
miền Nam, cách mạng Việt Nam đứng trước tình thế mới đầy triển vọng.
Tuy sự phát triển của chủ nghĩa xã hội lúc đó có những biểu hiện trì trệ
và trong phong trào cộng sản quốc tế xuất hiện sự bất đồng, song sức
mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa vẫn là một dòng thác cách mạng
ngăn chặn những âm mưu đen tối của chủ nghĩa đế quốc, là chỗ dựa
vững chắc cho cách mạng thế giới và cách mạng nước ta. Phong trào
giải phóng dân tộc giành thắng lợi ở hơn 60 nước châu Á, châu Phi, Mỹ
Latinh là đồng minh hỗ trợ mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ
của nhân dân ta. Phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, hoà bình và
tiến bộ xã hội của công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản
chủ nghĩa là một dòng thác nữa đánh vào chính sách phản động gây
chiến của đế quốc Mỹ.

Trước tình hình trên, đầu năm 1961, Tổng thống Mỹ G. Kennơđi buộc
phải điều chỉnh chiến lược từ "trả đũa ồ ạt" sang "phản ứng linh hoạt"
với ba loại chiến tranh: chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ và chiến
tranh tổng lực.

Mục tiêu chính của "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ ở miền Nam là dập tắt
phong trào "Đồng khởi", bình định miền Nam trong 18 tháng với lực
lượng quân nguỵ do Mỹ trang bị và cố vấn Mỹ chỉ huy, sử dụng chiến
thuật cơ động bằng trực thăng và thiết giáp để tiêu diệt lực lượng vũ


trang cách mạng; lập hệ thống ấp chiến lược để ngăn cản phong trào nổi
dậy; ngăn chặn chi viện của miền Bắc, cô lập miền Bắc, khi cần sẽ ném
bom miền Bắc.

"Chiến tranh đặc biệt" là một chiến lược chiến tranh thâm độc và nguy
hiểm gây nhiều khó khăn cho cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Tuy
nhiên, ra đời trong thế bị động, "chiến tranh đặc biệt" không những
không phát huy được tác dụng mà còn từng bước bị bẻ gẫy trước cao
trào nổi dậy và tiến công, giữ vững và mở rộng quyền làm chủ của nhân
dân ta ở miền Nam.

Tháng 1-1961, Bộ Chính trị chủ trương chuyển từ khởi nghĩa sang chiến
tranh cách mạng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập
Trung ương cục miền Nam thay cho Xứ uỷ Nam Bộ (Khu V và Trị
Thiên vẫn trực thuộc Trung ương Đảng). Ngày 31-1-1961, Bộ Chính trị
ra Chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách
mạng miền Nam. Chỉ thị nhấn mạnh phải tăng cường đấu tranh vũ trang
song song với đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ trước mắt là nhanh chóng
xây dựng lực lượng về cả hai mặt chính trị và quân sự: tập hợp đông đảo
lực lượng chống Mỹ trong Mặt trận dân tộc thống nhất, phát động phong
trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của quần chúng; tích cực tiêu diệt sinh
lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, làm tan rã nguỵ quyền, nguỵ
quân trên phạm vi ngày càng rộng; tiến lên làm chủ rừng núi, giành lại
toàn bộ đồng bằng, ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính
trị ở đô thị, tạo mọi điều kiện và nắm mọi thời cơ thuận lợi để đánh đổ
chính quyền tay sai Mỹ, giải phóng miền Nam.

Tháng 2-1961, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự, Nghị
quyết nêu rõ phải kiềm chế Mỹ và thắng Mỹ ở miền Nam, chuẩn bị sẵn
sàng đối phó với âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh của địch.

Bộ Chính trị chủ trương củng cố quốc phòng trên miền Bắc, xây dựng ở
miền Nam một lực lượng vũ trang tập trung đủ mạnh; giúp cách mạng
Lào xây dựng lực lượng vũ trang và sẵn sàng tổ chức bộ đội tình nguyện
sang phối hợp chiến đấu khi bạn yêu cầu: kiện toàn bộ máy chỉ đạo quân
sự của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng đối với
lực lượng vũ trang, tổ chức hệ thống chỉ huy quân sự trực thuộc các cấp
Đảng bộ ở miền Nam. Bộ Chính trị quyết định giao cho Quân uỷ Trung
ương nhiệm vụ chỉ đạo toàn bộ công tác quân sự ở miền Nam.

Tháng 9-1961, Bộ Chính trị thông qua đề án tăng cường cho miền Nam
từ 3 đến 4 vạn cán bộ, chiến sĩ đã được huấn luyện chính quy trên miền
Bắc; tăng lực lượng, phương tiện cơ giới cho Đoàn vận tải quân sự 559
trên đường Trường Sơn.

Quán triệt chỉ thị và nghị quyết của Bộ Chính trị, Hội nghị Trung ương
Cục lần thứ nhất (tháng 10-1961) đã nhất trí khẳng định sự cần thiết phải
kết hợp chặt chẽ hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
Hội nghị thường vụ Khu uỷ Khu V (tháng 5-1961) chủ trương đẩy mạnh
tiến công địch cả về chính trị và quân sự nhằm tiếp tục củng cố và mở
rộng căn cứ địa miền núi, phá thế kìm kẹp của địch ở đồng bằng.

2. Đẩy mạnh xây dựng miền Bắc

Chỉ đạo thực hiện kế hoạch 5 năm (1961 - 1965), Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã tiến hành một số cuộc hội nghị bàn giải pháp xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật và củng cố miền Bắc về mọi mặt.

Tháng 1-1961, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá III) thông qua những nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch nhà nước
năm 1961, tập trung vào việc củng cố và phát triển hợp tác xã sản xuất

nông nghiệp. Tháng 7-1961,Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội
nghị lần thứ năm chủ trương đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện,
giải quyết vấn đề lương thực là chính, coi trọng cây công nghiệp, đẩy
mạnh chăn nuôi, thả cá, nghề phụ.

Tháng 2-1961, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc chỉnh huấn mùa xuân
1961. Ban Bí thư ra nghị quyết đẩy mạnh phong trào thi đua trong sản
xuất, học tập, công tác. Tổng Công đoàn Việt Nam phát động phong trào
phấn đấu trở thành tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa. Nhà máy cơ khí
Duyên Hải (Hải Phòng) được công nhận là lá cờ đầu phong trào thi đua
hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật của ngành công nghiệp. Hợp tác xã
Đại Phong (Quảng Bình) là lá cờ đầu phong trào thi đua trong nông
nghiệp. Trong quân đội có phong trào thi đuaBa nhất (lập thành tích
nhiều nhất, đều nhất, giỏi nhất). Trong ngành giáo dục có phong tràoHai
tốt (dạy tốt, học tốt), đi đầu là Trường phổ thông cấp II Bắc Lý (Hà
Nam).

Năm 1961 sản lượng lương thực trên miền Bắc đạt 5,8 triệu tấn, tăng
8,8% so với năm 1960. Tháng 11-1961, Bộ Chính trị chủ trương mở
cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát
triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Qua cuộc vận
động, các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp được củng cố thêm một bước;
sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền đối với nông
nghiệp có nhiều tiến bộ. Đến năm 1965, 88,8% số hộ nông dân đã vào
hợp tác xã nông nghiệp, trong đó 71,7% số hộ lên hợp tác xã bậc cao. Từ
một nền nông nghiệp lạc hậu, độc canh, năng suất thấp và tự túc tự cấp,
nông nghiệp miền Bắc đã phát triển tương đối toàn diện, giải quyết được
một phần nhu cầu về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công
nghiệp và một phần sản phẩm cho xuất khẩu, bảo đảm cho miền Bắc ổn
định về kinh tế - xã hội, phát huy vai trò hậu phương lớn đối với tiền

tuyến lớn. Tuy vậy, việc xây dựng quan hệ sản xuất và tổ chức sản xuất
nông nghiệp còn có nhiều yếu kém, trình độ quản lý của cán bộ non yếu,
cơ sở vật chất nghèo nàn, nông cụ chủ yếu là thô sơ.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, tháng 6-
1962,Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ bảy (mở
rộng), bàn việc xây dựng và phát triển công nghiệp trong kế hoạch 5
năm lần thứ nhất. Tháng 7- 1963, Bộ Chính trị mở cuộc vận động "Nâng
cao ý thức trách nhiệm tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ
thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu" (gọi tắt là "Ba xây, ba chống").
Từ năm 1961 đến năm 1965, miền Bắc đã thực hiện được một bước
đáng kể kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật. Các ngành công
nghiệp chủ yếu như điện, cơ khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây
dựng hình thành và phát triển nhanh. So với năm 1955 sản lượng điện
năm 1965 tăng gấp 10 lần, cơ khí tăng bình quân hàng năm 30%. Đến
năm 1965, 1.132 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh đã được xây dựng,
đội ngũ cán bộ công nhân và lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
lên tới 650.000 người. Mặt yếu kém của công nghiệp là chưa hướng vào
mục tiêu trung tâm phục vụ sản xuất nông nghiệp và hàng tiêu dùng.

Tháng 12-1964, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III họp Hội nghị
lần thứ 10 bàn về thương nghiệp và giá cả. Hội nghị đã bổ sung hai điểm
quan trọng vào đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa: a) Trong điều
kiện còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, lực lượng sản xuất chưa phát
triển, sản phẩm xã hội chưa dồi dào, sự tồn tại và phát triển của kinh tế
hàng hoá ở miền Bắc nước ta là một tất yếu khách quan; b) Tiến hành
đồng thời ba cuộc cách mạng, cách mạng về quan hệ sản xuất, cách
mạng kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, lấy cách mạng kỹ thuật
làm then chốt.


Kế hoạch 5 năm xây dựng miền Bắc cũng thu được nhiều thành tựu. Về
văn hoá - xã hội, năm 1965 toàn miền Bắc có 4,5 triệu người đi học
(trong 16 triệu dân). Năm 1965 đã có 10.290 trường phổ thông các cấp
(năm 1960 có 7.066 trường, với gần 3 triệu học sinh); có 18 trường đại
học và cao đẳng với 34.000 sinh viên (năm 1960 có 9 trường và 8.000
sinh viên) và có gần 100 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp. Các tệ nạn xã
hội giảm mạnh. Đạo đức mới, nếp sống mới xã hội chủ nghĩa hình thành
rõ nét.

Về quốc phòng và an ninh, ba thứ quân đã nâng cao một bước sức mạnh
chiến đấu. Dân quân, tự vệ được tổ chức rộng khắp với số lượng 1,4
triệu người, trong đó 1/5 được trang bị vũ khí, 30% ngân sách quốc
phòng được đầu tư xây dựng các công trình quân sự. Các lực lượng làm
nhiệm vụ an ninh quốc gia và giữ vững trật tự an toàn xã hội hoạt động
có hiệu quả. Đường Trường Sơn hoàn thành tốt việc chi viện góp phần
quan trọng xây dựng hệ thống lãnh đạo, chỉ huy quân sự và tăng cường
lực lượng vũ trang tập trung miền Nam.

Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước đã nâng cao địa vị quốc tế
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tranh thủ sự đồng tình và giúp
đỡ của các nước anh em và nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh giải
phóng miền Nam. Trước diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, Hội
nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III (12-1963)
đã nêu rõ lập trường, quan điểm của Đảng ta về chiến lược và sách lược
đấu tranh cách mạng, chiến tranh và hoà bình, phong trào giải phóng dân
tộc, về quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

×