Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA_3 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.96 KB, 7 trang )

CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA
CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA
VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH
CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (1858 – 1888)

Sự xâm lược của thực dân Pháp đã nhanh chóng hình thành nên hai
luồng tư tưởng chủ chiến và chủ hoà trong nội bộ triều Nguyễn. Hành
động xâm lược của thực dân Pháp đã làm cho nội bộ triều Nguyễn vốn
đã phức tạp, rối ren nay càng trở nên lúng túng bị động khi đối phó với
thực dân Pháp. Sự hình thành hai luồng tư tưởng này là hệ quả của
cuộc xâm lược mà Pháp tiến hành. Đó là phản ứng đầu tiên của nhà
Nguyễn.

Sự phân hoá thành hai phe: chủ chiến và chủ hoà trong nội bộ nhà
Nguyễn diễn ra khá sớm ngay từ khi thực dân Pháp tấn công bán đảo
Sơn Trà. Tiêu biểu cho phe chủ hoà có Trương Đăng Quế, Phan Thanh
Giản, Lưu Lượng, Trần Văn Trung, Lâm Duy Hiệp, Võ Xuân Hãn. Phe chủ
chiến có Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường, Phạm Hữu Nghị, Trần
Văn Vi, Lê Hiểu Hữu, Nguyễn Đăng Điều.

Phe chủ hoà chủ trương: “Chiến không bằng hoà, nhưng phải cố thủ rồi
sau mới bàn. Kẻ địch vốn cậy quyền bền súng mạnh làm sở trường, họ
ở ngoài sóng gió mặt bể, thế ta khó thắng với họ. Thượng kế bây giờ
nên lấy giữ (thủ) làm chính, giữ vững rồi sau mới có thể nói đánh, cũng
có thể nói đến hoà. Bằng không trước lo việc giữ thì đánh cũng không
được mà hoà cũng không xong” [4; 43].

Đây là tư tưởng được Tự Đức cho là hợp lẽ phải. Sở dĩ phe chủ hoà chủ
trương như vậy là bởi họ lý giải là nên nuôi sức chọn thời châm chước
đối phó. Mặt khác Tự Đức và những người trong phe chủ hoà cho rằng
mục đích tấn công vào thực dân Pháp chỉ là truyền đạo và buôn bán,


chứ không làm gì tổn hại đến ta. Cái nhìn đó của vua quan nhà Nguyễn
là thiển cận, bó hẹp trong phạm vi một quốc gia đang cố duy trì nềnn
tảng của chế độ phong kiến, không mở rộng ra thế giới nên thiếu hiểu
biết về bản chất của đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Hơn
nữa, không ít người trong số vua quan nhà Nguyễn vốn sớm mang tư
tưởng hoang mang lo sợ giặc khi chúng ngấp nghé ngoài cửa ngõ nên
dao động sinh ra chủ hoà nhằm bảo vệ quyền lợi ích kỉ của giai cấp
mình. Lập trường của phe này tỏ ra phản động và không hợp lòng dân.

Đối lập với phe chủ hoà, phe chủ chiến chủ trương công thủ. Họ cho
rằng: “Quảng Nam, Gia Định địa thế, địch tính đại đồng mà tiểu dị, địch
ở ngoài xa khơi thì khó đánh, địch vào nội địa càng dễ đánh, dễ bị tiêu
diệt. Phải giữ và đánh, thủ để công, công để thủ, quét sạch địch, bằng
nay hoà với họ thì sẽ bắt ta bỏ tấn và thông thương, xây nhà thờ, mở
phố xá, rồi trăm sự xảo quyệt đều do một chữ hoà mà ra cả”[4; 44].

Phái chủ chiến ngay từ đầu đã có tinh thần chống giặc triệt để. Bởi theo
họ hoà lúc này nghĩa là đầu hàng giặc. Tuy thế giặc mạnh nhưng quan
quân một lòng đánh giặc thì thực dân Pháp cũng không phải là đáng lo
ngại. Đối lập với đường lối của phe chủ hoà, phe chủ chiến đã lường
trước được âm mưu của thực dân Pháp. Đó là nhu cầu mở rộng thuộc
địa chứ không chỉ đơn giản là truyền đạo và thông thương. Chủ trương
này xem ra đúng đắn, hợp lòng dân nhưng đa số đình thần không nghe
theo. Bởi họ đã sớm mang tư tưởng sợ giặc và chủ hoà. Cuối cùng, khi
tiếng súng của giặc đã nổ bên tai mà triều đình vẫn còn bận tranh cãi
nghị luận lung tung, người đánh, kẻ hoà, trên dưới không nhất trí, đánh
hoà không ngã ngũ, do đó dẫn đến lúng túng bị động trước những đợt
tấn công của thực dân Pháp.

Cơ sở và chỗ dựa của phái chủ chiến là các lực lượng chống Pháp trong

nhân dân. Còn chỗ dựa của phái chủ hoà là thực dân Pháp, vì thế mâu
thuẫn, xung đột giữa hai phe thường xuyên xảy ra. Trong khi phái chủ
hoà ngày càng gắn bó với thực dân Pháp, nhất nhất làm theo mệnh
lệnh của chúng thì phái chủ chiến cũng tìm cách đối phó.

Về đường lối, phe chủ hoà chủ chương mềm dẻo, đàm phán để đấu
tranh với địch, còn phe chủ chiến thì sử dụng bạo lực, chiến tranh để
tiêu diệt địch. Hai chủ chương này hoàn toàn đối lập nhau và cuối cùng
đều đi đến thất bại.

2.2. Sự phân hoá sâu sắc và cuộc đấu tranh giữa hai phe chủ chiến và
chủ hoà

Khi thực dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược Việt Nam, nội bộ triều
đình Huế đã sớm bị phân hoá. Trong suốt quá trình Pháp xâm lược Việt
Nam, hai phe này mâu thuẫn sâu sắc với nhau, tìm cách loại bỏ nhau.
Cuối cùng công cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp kết thúc và
phe chủ hoà đã giành được thắng lợi. Từ đó, phe chủ hoà câu kết chặt
chẽ và bắt tay với Pháp cùng chia sẻ quyền lợi.

2.2.1. Giai đoạn 1858 – 1883 từ khi Pháp bắt đầu xâm lược đến khi Tự
Đức mất (17/7/1883)

Từ chiều ngày 31/8/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã kéo tới cửa
biển Đà Nẵng. Kế hoạch của địch là đánh nhanh thắng nhanh để chiếm
lấy Đà Nẵng làm căn cứ bàn đạp tấn công nội địa, tiêu diệt sinh lực của
triều đình Huế tại đây, rồi vượt đèo Hải Vân đánh lên Huế bóp chết
kháng chiến của phong kiến triều Nguyễn tại chỗ và buộc phải đầu
hàng.


Mờ sáng ngày 1/9/1858, Pháp đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà. Triều đình
Huế vội phái quân tới tăng cường cho lực lượng phòng thủ. Nguyễn Tri
Phương được cử làm tổng chỉ huy tại mặt trận Quảng Nam để lo việc
chống giặc. Nhưng ông không chủ động tiến công giặc mà chỉ án binh
bất động, chủ chương bao vây địch ngoài mé biển, nếu địch đánh vào
mới chống lại.

Còn về phía Pháp lúc này, trên mặt trận duy nhất sát cạnh kinh thành
Huế chỉ có 3000 quân chính quy. Điều này đủ nói lên sự thiếu hụt quân
số của thực dân Pháp. Hơn nữa khó khăn của chúng ngày càng tăng lên
do không hợp khí hậu nên binh linh địch bị ốm đau và chết khá nhiều.

Trước những khó khăn của giặc Pháp, ta thấy cơ hội phòng thủ và tấn
công địch trên mặt trận Đà Nẵng không phải là ít. Nhưng triều đình đã
bỏ mất thời cơ thuận lợi để chiến thắng quân thù.

Trong nội bộ triều đình Huế lúc này các ý kiến vẫn còn bàn cãi, chưa ngã
ngũ. Phe chủ chiến chủ trương trước sau tấn công địch. Nhưng người
đứng đầu Tự Đức lúc này lại do dự, hoang mang, thiếu đường lối rõ
ràng nên dẫn tới việc chỉ đạo chiến trường chưa triệt để và mang nặng
tư tưởng cầm cự bị động.

Sau năm tháng bị sa lầy trên mặt trận Đà Nẵng, tháng 2/1859 Pháp
chuyển hướng tấn công Gia Định. Âm mưu của địch lần này kéo vào Gia
Định so với lúc đánh Đà Nẵng có nhiều điểm khác. Chúng muốn cắt đứt
đường tiếp tế của triều đình Huế, đánh Sài Gòn xong sẽ theo đường
sông Cửu Long ngược lên đánh chiếm luôn Cao Miên.

Trước sức tấn công mạnh mẽ của địch, bọn quan lại triều đình chịu
trách nhiệm ở đây đã không có những hành động cứng rắn kịp thời để

bóp chết ngay từ đầu ý chí xâm lăng của địch. Quân triều đình chỉ chống
đỡ vài trận, rồi bỏ thành chạy dài. Trấn thủ thành Gia Định là Võ Duy
Ninh thắt cổ tự vẫn để trốn tránh trách nhiệm, mở đầu cho một chuỗi
tự sát của những bầy tôi bất lực dưới một triều đình phong kiến đã suy
tàn.

Như vậy, từ thất bại ở Đà Nẵng đến Gia Định ta nhận thấy quan quân
nhà Nguyễn đều mang nặng tư tưởng thất bại chủ nghĩa nên sớm đầu
hàng địch.

Trong khi thực dân Pháp đang đánh chiếm Gia Định thì triều đình Huế
vẫn còn đang nghị luận. Phe chủ chiến và chủ hoà đều có lập trường
riêng để bảo vệ chính kiến của mình. Nhưng Tự Đức đã nghiêng về phe
chủ hoà. Còn phe chủ chiến vẫn theo đường lối cứng rắn. Do có chỗ
dựa vững chắc là quần chúng nhân dân nên phe chủ hoà và Tự Đức
không thể loại trừ phe chủ chiến.

Sau khi chiếm được Gia Định, quân Pháp lo sợ vấp phải sức chiến đấu
quyết liệt của nghĩa quân nên chúng không dám đóng quân trên bộ mà
phải rút xuống tàu giữa sông rộng. Trong khi đó, tướng lĩnh triều đình
vẫn ngồi yên mà không hành động. Lúc này, phần lớn quân Pháp đã tiếp
viện cho số quân đang bị khốn đốn ở Đà Nẵng nên phải dàn mỏng lực
lượng trên một phòng tuyến dài hơn mười cây số. Đây là một thời cơ
thuận lợi để tiến công địch nhưng triều đình vẫn hay biết gì.

Nguyễn Tri Phương từ lúc vào làm Tổng đốc quân vụ đại thần phụ trách
mặt trận Gia Định (tháng 3/1860) cũng chỉ biết đôn đốc quân dân hết
đào hầm lại đắp luỹ để bao vây địch mé ngoài, thực hiện triệt để chiến
thuật án binh bất động. Quân triều đình tuyệt nhiên không hề có một
lần nào chủ động tiến công địch.


×