CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA VÀ NHỮNG TÁC
ĐỘNG ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (1858 – 1888)
I. MỞ ĐẦU
1. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, nhà Nguyễn là triều đại ở vị trí rất đặc biệt, đó là
điểm giao thời từ Việt Nam độc lập sang nước Việt Nam nô lệ. Nhà Nguyễn tồn tại 143
năm (1802 – 1945) trong thời kì đất nước có nhiều biến động, là nhà nước phong kiến cuối
cùng trong lịch sử Việt Nam. Hiếm có triều đại nào thu hút nhiều sự chú ý của các nhà
nghiên cứu lịch sử như triều Nguyễn. Một nguyên nhân quan trọng vì đây là thời kì gần với
lịch sử hiện đại Việt Nam, còn lưu giữ được nhiều những tư liệu thành văn nhưng phần
khác là ở triều Nguyễn luôn tồn tại hai mảng sáng tối đan xen với nhau, dễ gây nên sự
tranh luận của các nhà khoa học, trong đó nội dung được đề cập nhiều là cuộc đấu tranh
chống Pháp xâm lược (1858 – 1885) và nguyên nhân để mất nước ta vào tay thực dân
Pháp. Đa số các học giả cho rằng, nguyên nhân quan trọng để mất độc lập, chủ quyền là do
nhà Nguyễn thiếu quyết tâm đánh Pháp đến cùng, sai lầm trong đường lối chỉ đạo chiến
lược, từ bỏ vai trò lãnh đạo của người đại diện cho lợi ích dân tộc nên biến việc mất nước
từ chỗ không tất yếu thành tất yếu. Nhưng cũng có ý kiến đánh giá nguyên nhân mất nước
của dân tộc ta hồi nửa cuối thế kỉ XIX là do tình trạng lạc hậu và yếu kém so với phương
Tây gây nên, do đó để mất nước vào tay người Pháp là điều khó tránh khỏi.
Chia sẻ quan điểm của các nhà nghiên cứu lịch sử trên đây, chúng tôi nhận thấy cần đi sâu
phân tích những mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ triều đình nhà Nguyễn nhằm làm sáng
tỏ những mâu thuẫn về tư tưởng trong lực lượng quan lại Việt Nam cuối thế kỉ XIX. Đó là
cuộc đấu tranh nhằm xác định đường lối chiến lược kháng Pháp giữa hai phe chủ chiến và
chủ hòa. Qua đây, chúng tôi mong muốn góp phần lí giải rõ thêm nguyên nhân để nước ta
rơi vào tay thực dân Pháp từ yếu tố chủ quan ở bên trong cơ quan chỉ huy cao nhất cuộc
đấu tranh chống xâm lăng. Điều này không chỉ giúp cho sinh viên năm thứ hai khoa Việt
Nam học có thể hiểu rõ hơn về nhà Nguyễn và lịch sử Việt Nam những năm cuối thế kỉ
XIX mà còn có được cách nhìn nhận và đánh giá sự kiện lịch sử, biến cố lịch sử và vấn đề
lịch sử đưới góc nhìn đa diện, nhiều chiều.
Nghiên cứu những xung đột giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa trong nội bộ nhà Nguyễn
thời kì đấu tranh chống Pháp xâm lược (1858 - 1885) không những rất cần thiết để hiểu về
quá khứ mà còn có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ hiện nay, nhất là ở thời điểm chúng ta
đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tiến vào hội nhập cùng khu vực và
thế giới. Cuộc đấu tranh nội bộ đó đã để lại bài học sâu sắc về vấn đề xây dựng sự đoàn
kết nhất trí trong chính quyền nhà nước, là nhân tố quan trọng của thành công cũng như
thất bại. Bài học về đoàn kết trong lực lượng lãnh đạo, đại đoàn kết toàn thể nhân dân là
bài học lớn trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và nó chính là thứ di
sản quý giá của dân tộc cần được chú trọng và tiếp tục vận dụng trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Cho tới nay, cuộc đấu tranh giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa trong cuộc đấu tranh
1
chống Pháp xâm lược ở nửa cuối thế kỉ XIX đã thu hút được nhiều sự chú ý, quan tâm của
các nhà khoa học. Sự phân hoá, chia rẽ trong nội bộ triều Nguyễn thành hai phe chủ chiến
và chủ hoà chính là hệ quả của cuộc đụng độ giữa Việt Nam và Pháp và nó cũng chứng tỏ
sự bất ổn, sự yếu kém của triều Nguyễn trong cuộc đấu tranh chống Pháp.
Trong cuốn Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, NXB Giáo dục – 2000, các tác giả Đinh
Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ đã khẳng định: “… phe chủ chiến muốn
dựa vào phong kiến Trung Quốc để đánh đuổi Pháp. Tiêu biểu cho phái này có Tô Linh,
Phan Hữu Nghị, Hồ Sĩ Tuấn, phe này chủ trương “phải giữ và đánh thủ để công và công để
thủ, rồi quét sạch địch””. Phái chủ hoà thì lập luận khác khi họ khăng khăng bảo vệ quan
điểm “chiến không bằng hoà, chống giặc duy thủ là hơn” [5; 20]. Lập luận của phe chủ hoà
bị phái chủ chiến và nhân dân lên án kịch liệt bởi tư tưởng hoà lúc này là đồng nghĩa với
đầu hàng giặc. Lập luận phái chủ chiến được nhân dân ủng hộ và hưởng ứng bởi tư tưởng
đó là có trách nhiệm với quốc gia, dân tộc trong lúc nguy nan. Đây là nhận định đúng đắn
và có cơ sở khoa học giúp chúng tôi định hướng trong quá trình đặt vấn đề và giải quyết
vấn đề.
Nhà sử học Dương Kinh Quốc trong cuốn Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858 – 1918),
NXB Giáo dục – 2006, thì có ý kiến khác. Ông cho rằng khi thực dân Pháp bắt đầu xâm
lược Việt Nam thì cũng là lúc trong triều đình nhà Nguyễn có sự phân hóa sâu sắc khi có
đến năm loại ý kiến khác nhau về chiến lược chống ngoại xâm.
- Lấy thế thủ làm chính vì có giữ vững thì sau mới có thể bàn đến chuyện hoà hay chiến
được. Đại biểu ý kiến này là Viện Cơ mật gồm Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Lưu
Lượng.
- kế chống giữ lâu dài làm chính vì thuyền tàu, súng đạn là cái sở trường của giặc, giặc
muốn đánh mau, thắng mau, ta không nên chống lại với sở trường của chúng mà phải kiên
trì chống và giữ để đợi khi chúng mệt mỏi, cần giảng hoà, lúc đó ta sẽ tuỳ cơ ứng phó. ý
kiến này của các đại thần như Trương Quốc Dụng, Trần Văn Chung, Lâm Duy Hiệp, Chu
Phúc Minh, Phan Huy Vịnh, Pham Chi Hương, Nguyễn Xuân Huân, Nguyễn Hữu Thành,
Nguyễn Luận, Lê Đức, Vũ Xuân Sán.
- Quyết tâm giữ đất, tấn công giặc, quyết không nghị hoà với giặc. Cụ thể là ở Quảng Nam,
địch đã tiến sâu vào nội địa bằng đường sông ta phải dụ chúng lên bộ để tiêu diệt chúng. ở
Gia Định ta nên hợp quân các tỉnh lại để nhất loạt tiến công, đốt phá, tiêu diệt địch. ý kiến
này của các quan lại cấp Nha như: Tô Trân, Phạm Hữu Nghị, Trần Văn Vy, Lê Hiếu Hữu,
Nguyễn Đăng Điều, Hồ Sĩ Tuấn.
- Hoà có mức độ: Nếu giặc chỉ yêu cầu tự do truyền đạo và thông thương mua bán thì nên
hoà, nếu đó chỉ là những yêu sách giả dối thì ta phải cố giữ. Đây là ý kiến của Vũ Đức
Nhu.
- Nên hoà ngay. Ý kiến của Lê Trí Tín, Đoàn Thọ, Tôn Thất Thường, Tôn Thất Dao,
Nguyễn Hào [7; 16].
2
Tựu chung năm ý kiến là có hai luồng tư tưởng rõ ràng: chiến hay hòa. Có thể nói, đây
chính là một trong những nguồn tư liệu quý cho thấy sự dao động, thiếu nhất quán ngay từ
đầu trong đường lối chống Pháp của lực lượng vua quan nhà Nguyễn - những người đại
diện cao nhất cho lợi ích của toàn dân tộc. Từ đây, chúng tôi có thêm những căn cứ quan
trọng để có thể đánh giá thái độ và trách nhiệm của nhà nước phong kiến Nguyễn trong
việc để nước ta rơi vào tay Pháp.
Gần đây nhất, khi xuất bản cuốn Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh - những vấn đề
nghiên cứu, NXB Tổng hợp TP.HCM – 2007, tác giả Xuân Biên khẳng định: khi tiếng
súng thực dân Pháp bùng nổ, giai cấp phong kiến Việt Nam phân ra hai phe chủ hoà và chủ
chiến. Phái chủ hoà phần đông bọn đại phong kiến và quan lại với Tự Đức đứng đầu nhanh
chóng câu kết với thực dân Pháp để làm tay sai cho chúng đàn áp và bóc lột nhân dân cả
nước. Tác giả đã xác định rõ phe chủ hòa chính là bọn phong kiến phản động chóp bu. Ý
kiến này tiếp tục khẳng định sự phân chia hai phe chủ chiến và chủ hòa xuất hiện ngay từ
khi cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược bắt đầu, đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của
triều đình nhà Nguyễn mà đứng đầu là vua Tự Đức với vận mệnh quốc gia dân tộc.
Nhìn chung, các ý kiến này đều thừa nhận sự phân hoá sâu sắc trong nội bộ triều Nguyễn
thành hai phái chủ chiến và chủ hoà. Nhưng các tác giả này đều chỉ dừng lại ở sự liệt kê
mà chưa có sự phân tích và đánh giá sâu sắc về sự phân hoá đó. Ở bài viết này, chúng tôi
sẽ đi vào phân tích sự phân hoá và đấu tranh của hai phe này khi đối mặt với âm mưu xâm
lược của thực dân Pháp. Chúng tôi hy vọng góp phần làm rõ hơn bức tranh nội các nhà
Nguyễn khi đối diện với thực dân Pháp và coi đó là nguyên nhân chủ quan quan trọng dẫn
đến kết cục không có hậu của cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược do nhà Nguyễn tổ chức
và lãnh đạo.
3. Đề tài tập trung tìm hiểu các lực lượng chủ chiến và chủ hoà dưới triều Nguyễn cùng
những mâu thuẫn và xung đột của hai phe này trong suốt tiến trình đấu tranh chống Pháp
xâm lược đồng thời làm sáng rõ thêm một trong những nguyên nhân thất bại của cuộc đấu
tranh chống Pháp xâm lược cuối thế kỉ XIX.
Đề tài tập trung phân tích cuộc đấu tranh của hai lực lượng chính trong nội các triều
Nguyễn là chủ hoà và chủ chiến trong thời kỳ đấu tranh chống Pháp xâm lược từ 1858 đến
1885. Đề tài làm phải giải quyết những nội dung sau:
Thứ nhất: Cần làm rõ bối cảnh lịch sử dẫn đến sự hình thành của hai phe chủ chiến và chủ
hòa.
Thứ hai: Xác định lực lượng của hai phe chủ chiến, chủ hòa; quan điểm đường lối và cuộc
đấu tranh của hai phe này trong thời kì chống Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập chủ quyền.
Ba là: Đánh giá những tác động của sự phân hóa này đối với cuộc đấu tranh chống Pháp
xâm lược hồi nửa cuối thế kỉ XIX và rút ra bài học cần thiết đối với công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước hiện nay.
4. Xuất phát từ đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra, trong quá trình thực hiện đề tài
3
này, chúng tôi đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, đó là: phương pháp luận sử học
mácxit, phương pháp nghiên cứu lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic để làm rõ quá trình
phân hóa và đấu tranh của hai phe chủ chiến – chủ hòa.
Bên cạnh đó, chúng tôi sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp so sánh để làm
rõ các bước phát triển khác nhau của hai lực lượng trong quá trình tiến hành cuộc đấu tranh
chống Pháp cũng như tác động của nó đến kết quả của cuộc đấu tranh này.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Phát súng lệnh xâm lược đầu tiên của thực dân Pháp ở Sơn Trà (Đà Nẵng) đã nhanh chóng
làm chia rẽ nội bộ triều Nguyễn thành hai phe chủ chiến và chủ hoà. Từ đó trong quá trình
đấu tranh chống Pháp, hai luồng tư tưởng này luôn đối chọi nhau, nhằm tiêu diệt lẫn nhau.
Chỉ khi thực dân Pháp hoàn thành kế hoạch xâm lược Việt Nam thì sự phân hoá này mới
chấm dứt với phần thắng nghiêng về phe chủ hoà. Cuối cùng phe chủ hoà đã câu kết với
Pháp cùng bóc lột và cai trị nhân dân ta.
1. Hoàn cảnh lịch sử
1.1. Cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Vấn đề
tìm kiếm thị trường và thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc đang trở thành vấn đề bức thiết
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp. Là một nước tư bản
phát triển, Pháp nhanh chóng vươn lên thành một cường quốc trong hệ thống chủ nghĩa đế
quốc.
Bấy giờ trên thế giới, châu Á vẫn đang chìm đắm trong chế độ phong kiến nghèo nàn, lạc
hậu nên đã trở thành “mảnh đất hứa” của chủ nghĩa đế quốc. Pháp nhanh chóng nhận thấy
châu Á và Đông Nam Á là thị trường cần được mở rộng. Việt Nam nhanh chóng trở thành
mục tiêu thôn tính của thực dân Pháp.
Đầu thế kỉ XX, liên quân 8 nước đế quốc nhảy vào xâu xé Trung Quốc. Pháp là nước đi
đầu và cũng gặt hái được khá nhiều lợi nhuận. Sau khi hoàn thành xong việc phân chia
Trung Quốc, Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam.
Thực chất từ lâu Pháp đã có quan hệ với Việt Nam. Đó là thời điểm Nguyễn Ánh chạy trốn
quân Tây Sơn, gặp được Bá Đa Lộc và cho con trai theo Bá Đa Lộc sang Pháp cầu cứu
viện. Sau khi lập nên nhà Nguyễn, Nguyễn Ánh nhiều lúc muốn cắt đứt quan hệ với người
Pháp vì ông đã phần nào nhận thấy dã tâm của người Pháp đối với đất nước này nhưng
thực dân Pháp vẫn không ngừng nhòm ngó Việt Nam. Pháp đã để lại cố đạo Bá Đa Lộc
nhằm làm nội ứng cho cuộc xâm lược sau này.
Giai đoạn đầu, Pháp tổ chức các đội truyền giáo và thương nhân xâm nhập vào Việt Nam.
Lực lượng này dưới danh nghĩa truyền đạo và buôn bán nhưng thực chất bên trong là điều
tra và thống kê tình hình nước ta báo cáo về Pháp để dọn đường cho kế hoạch xâm lược.
Phản ứng đầu tiên của nhà Nguyễn là ngăn cấm những giáo sĩ truyền đạo và cấm thông
thương buôn bán với thương nhân Pháp. Về sau quyết liệt hơn nhà Nguyễn đã thi hành
4
chính sách cấm đạo, giết đạo. Để hạn chế sự hoạt động của các giáo sĩ nhà Nguyễn đã ra
24 đạo dụ nhằm cấm truyền đạo vào Việt Nam. Sự cấm đoán đó của triều Nguyễn đã
không những không mang lại kết quả mà còn làm cho quá trình truyền đạo diễn ra rộng
hơn và sâu hơn. Những cuộc tàn sát dã man của nhà Nguyễn đã đẩy một bộ phận nhân dân
ta tiến dần về phía kẻ thù và mâu thuẫn trong nước ngày càng trở nên sâu sắc. Lực lượng
giáo sĩ truyền đạo đang hoạt động ngày càng tích cực nhằm phục vụ âm mưu xâm lược sắp
được tiến hành.
1.2. Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chế độ phong kiến đang trên con đường
khủng hoảng trầm trọng. Thời Tự Đức cao trào nông dân khởi nghĩa đã làm chế độ phong
kiến lung lay tới nền móng. Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ từ năm 1848 (khi Tự Đức lên
ngôi) đến năm 1862 (là năm thực dân Pháp cướp trắng ba tỉnh miền đông Nam Kỳ) đã có
40 cuộc khởi nghĩa.
Để duy trì nền thống trị của mình, phong kiến nhà Nguyễn đã ra sức củng cố xã hội bằng
mọi cách. Về đối nội thì đàn áp khốc liệt các cuộc khởi nghĩa nông dân. Các cuộc hành
quân liên miên đã khiến lực lượng quân đội triều đình suy yếu dần, khả năng chiến đấu
giảm sút. Lòng dân oán thán, chia lìa, khối đoàn kết dân tộc rạn nứt. Tình hình trên đã gián
tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp thôn tính nước ta.
Phong trào nông dân khởi nghĩa đã khẳng định rằng, vào lúc thực dân Pháp chuẩn bị nổ
súng xâm lược nước ta là lúc mâu thuẫn giữa nông dân và phong kiến trở nên hết sức sâu
sắc. Lợi dụng sự khốn cùng của quần chúng nhân dân lao động, các giáo sĩ phương Tây ra
sức thu phục tín đồ. Lực lượng này tìm mọi cách khoét sâu mâu thuẫn giáo – lương. Các
giáo sĩ Pháp lúc này hoặc trực tiếp tổ chức hoặc đứng sau những vụ khởi loạn chống triều
đình, chuẩn bị cơ sở chính trị cho cuộc xâm lăng sắp tới.
Song song với những chính sách đối nội thiển cận, phong kiến Nguyễn đã cho thi hành một
đường lối đối ngoại sai lầm: đẩy mạnh các cuộc xâm lược Campuchia và Lào. Từ năm
1827 đến 1847, trong vòng 20 năm, nhà Nguyễn đã gây chiến tranh với người Miên, người
Xiêm và người Lào, khiến cho nhân dân vô cùng khốn khổ. Đi đánh giặc Lạp, giặc Lào,
giặc Xiêm là ác mộng của nhân dân miền Trung và miền Nam trong thời gian đó. Kết quả
của 20 năm theo đuổi chính sách xâm lược tai hại đã khiến cho tài lực và nhân lực bị hao
mòn, hiềm thù ngày càng khoét sâu giữa các nước láng giềng với nhau, trong lúc bọn thực
dân đang nhòm ngó ngoài cửa ngõ.
Trên đây là một nét cơ bản về tình hình của Việt Nam giữa thế kỉ XIX trước khi thực dân
Pháp nổ súng xâm lược nước ta, nổi bật lên là sự khủng hoảng của chế độ phong kiến. Nhà
nước phong kiến Nguyễn đang đứng trước một thử thách to lớn:
+ Một là, cần phải cải cách để đáp ứng nhu cầu lịch sử, xây dựng một triều đại tiến bộ, một
nhà nước có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh mẽ hơn, có khả năng duy tân đất nước và
bảo vệ nền độc lập dân tộc. Vấn đề này đã được không ít các quan lại cao cấp đương triều
như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ… đề xuất nhưng vì điều kiện
chủ quan và khách quan khác nhau mà mọi đề nghị cải cách nhà nước đều bị các vua nhà
Nguyễn chối từ.
5
+ Hai là, nước Việt Nam bị xâm lược và bị biến thành một nước thuộc địa của tư bản
phương Tây.
Thực tế lịch sử cho thấy, khả năng thứ nhất không xảy ra, còn khả năng thứ hai thì liền kề.
Khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam thì cũng là lúc chế độ phong kiến Việt Nam
đi vào phân hoá và chia rẽ sâu sắc với hai phe chủ chiến và chủ hoà. Nhà Nguyễn đã không
tìm ra sách lược hữu hiệu với kẻ thù, luôn bị động và bất đồng về đường lối, do đó nhà
Nguyễn luôn tỏ ra lúng túng khi đối đầu với thực dân Pháp và cuối cùng là đầu hàng từng
bước rồi để mất cả nước ta vào tay Pháp, biến quá trình mất nước không tất yếu trở thành
tất yếu.
2. Quá trình hình thành và các đấu tranh giữa phe chủ chiến và chủ hoà
2.1. Quá trình hình thành hai phe chủ chiến - chủ hòa trong nội bộ triều đình Huế
Sự xâm lược của thực dân Pháp đã nhanh chóng hình thành nên hai luồng tư tưởng chủ
chiến và chủ hoà trong nội bộ triều Nguyễn. Hành động xâm lược của thực dân Pháp đã
làm cho nội bộ triều Nguyễn vốn đã phức tạp, rối ren nay càng trở nên lúng túng bị động
khi đối phó với thực dân Pháp. Sự hình thành hai luồng tư tưởng này là hệ quả của cuộc
xâm lược mà Pháp tiến hành. Đó là phản ứng đầu tiên của nhà Nguyễn.
Sự phân hoá thành hai phe: chủ chiến và chủ hoà trong nội bộ nhà Nguyễn diễn ra khá sớm
ngay từ khi thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà. Tiêu biểu cho phe chủ hoà có Trương
Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Lưu Lượng, Trần Văn Trung, Lâm Duy Hiệp, Võ Xuân Hãn.
Phe chủ chiến có Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường, Phạm Hữu Nghị, Trần Văn Vi, Lê
Hiểu Hữu, Nguyễn Đăng Điều.
Phe chủ hoà chủ trương: “Chiến không bằng hoà, nhưng phải cố thủ rồi sau mới bàn. Kẻ
địch vốn cậy quyền bền súng mạnh làm sở trường, họ ở ngoài sóng gió mặt bể, thế ta khó
thắng với họ. Thượng kế bây giờ nên lấy giữ (thủ) làm chính, giữ vững rồi sau mới có thể
nói đánh, cũng có thể nói đến hoà. Bằng không trước lo việc giữ thì đánh cũng không được
mà hoà cũng không xong” [4; 43].
Đây là tư tưởng được Tự Đức cho là hợp lẽ phải. Sở dĩ phe chủ hoà chủ trương như vậy là
bởi họ lý giải là nên nuôi sức chọn thời châm chước đối phó. Mặt khác Tự Đức và những
người trong phe chủ hoà cho rằng mục đích tấn công vào thực dân Pháp chỉ là truyền đạo
và buôn bán, chứ không làm gì tổn hại đến ta. Cái nhìn đó của vua quan nhà Nguyễn là
thiển cận, bó hẹp trong phạm vi một quốc gia đang cố duy trì nềnn tảng của chế độ phong
kiến, không mở rộng ra thế giới nên thiếu hiểu biết về bản chất của đế quốc nói chung và
thực dân Pháp nói riêng. Hơn nữa, không ít người trong số vua quan nhà Nguyễn vốn sớm
mang tư tưởng hoang mang lo sợ giặc khi chúng ngấp nghé ngoài cửa ngõ nên dao động
sinh ra chủ hoà nhằm bảo vệ quyền lợi ích kỉ của giai cấp mình. Lập trường của phe này tỏ
ra phản động và không hợp lòng dân.
Đối lập với phe chủ hoà, phe chủ chiến chủ trương công thủ. Họ cho rằng: “Quảng Nam,
6