Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

skkn cách mở bài trong văn nghị luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.92 KB, 7 trang )







SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

CÁCH MỞ BÀI TRONG
VĂN NGHỊ LUẬN


A. đặt vấn đề.

Chất lượng môn ngữ văn ở trường THPT thường thấp. Bởi tập làm
văn là một phân môn khó- đặc trưng của phân môn này là yêu cầu học
sinh vận dụng kiến thức đã được học ở phân môn văn và tiếng việt vào
việc làm văn. Mặt khác, ý thức học môn văn của học sinh chưa cao.
Không hiếm tình trạng giáo viên chỉ chú trọng đến giờ văn học, xem nhẹ
giờ làm văn, chỉ dạy qua loa, chiếu lệ.
Biểu hiện rất rõ của học sinh trước một đề văn là thường tỏ ra lúng
túng ngay ở khâu tìm hiểu đề, xác định các yêu cầu, cho đến công đoạn
vận dụng kiến thức văn chương, lịch sử, xã hội… và năng lực tư duy
ngôn ngữ để triển khai, lập dàn ý. Đáng lưu ý hơn nữa là tình trạng mò
mẫm trong công đoạn tạo văn bản hoàn chỉnh. Nhiều bài viết của học
sinh còn bộc lộ tình trạng làm bài mà không hề có ý thức về việc vận
dụng kiến thức mà môn làm văn đã cung cấp, bỏ qua công đoạn phân
tích, tìm hiểu đề, tìm ý và lập dàn ý, cứ đề ra thì bắt tay vào viết: nghĩ sao
viết vậy, lắp ghép câu chữ tùy tiện, quanh quẩn lặp lại những điều đã
viết, đến lúc không nghĩ ra được điều gì nữa thì kết thúc bài. Đó là những
bài văn lạc đề, lệch đề, không có kết cấu, đoạn mạch rõ ràng, đầy những


câu văn “bất thành cơ”, từ ngữ thiếu chính xác, sai chính tả.
Sau đây là trích một số đoạn của HS:
(1) “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Túc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.
Đây mùa thu tới, mùa thu tới,
Với áo mơ phai dệt lá vàng.”
Khổ thơ trên nói lên hình ảnh của một người con gái đã có chồng thì
bây giờ chồng qua đời cơ cảm thấy cô đơn, cơ lo nghĩ không biết số phận
mình ra sao, cuộc đời cơ thật bất hạnh đã chịu sự đau thương tang tóc
trước sự mất mát to lớn đó không thể nào bù đắp được cho cơ.
(2) Túc buồn buông xuống lệ ngàn hàng: giọt lệ như mưa, một nỗi
buồn vẫn mâng mông bao la, nỗi xa người yêu là thế. Mọi người chúng ta
ai ai đều có sự yêu thương vậy mà thực dân chủ nghĩa tư bản Phương tây
nó không có trái tim hay sao? Nó không có nước mắt hay sao.
Đó là những bài văn cho thấy rõ kiến thức văn học và kĩ năng làm
văn của học sinh quá kém cõi.
Làm thế nào để học sinh phổ thông có những bài văn nghị luận hành
văn trôi chảy, lôgic, mạch lạc? Đó là câu hỏi của rất nhiều giáo viên dạy
bộ môn văn. Vậy để điều đó trở thành hiện thực đòi hỏi người giáo viên
phải tốn nhiều công sức tìm phương pháp phù hợp.
Riêng đối với tôi, qua thực tế giảng dạy tôi đã rút ra được một số
phương pháp giúp học sinh làm tốt một bài văn nghị luận. Nhưng do điều
kiện khách quan, do yêu cầu một bài sáng kiến kinh nghiệm người viết
chỉ chọn một vấn đề của bài văn nghị luận: cách viết mở bài.
Trong bài văn phần mở bài là phần phụ, không quan trọng, nhưng có
thể nói phần này lại là phần “hồn” của bài văn nghị luận. Đọc phần mở
bài, giáo viên có thể nhận biết trình độ, năng khiếu viết văn của học sinh,
có thể đánh giá năng lực học văn của học sinh.



B. giải quyết vấn đề

I. Cách thức tiến hành:

1.Viết các câu dẫn nhập.

Viết các câu dẫn nhập nói chung là khó. Bởi vì câu dẫn nhập đầu
tiên là câu văn “khởi động” cả quá trình tạo văn bản phức tạp. Nó chi
phối, quy định các câu tiếp theo, nên có thể gây khó khăn hay tạo điều
kiện thuận lợi cho người viết trong việc dẫn nhập. Tuy nhiên về phương
diện tâm lý, nếu có ý thức rõ về bước “khởi động” quan trọng này, viết
dẫn nhập vẫn không phải là chuyện nan giải. Trước hết cần xác định rõ
điểm “xuất phát” và khoảng cách giữa điểm “xuất phát” với đề tài được
bàn luận trong bài.
Chẳng hạn, nếu đề tài được bàn luận là nhân vật thì điểm xuất phát
gần nhất là tác phẩm, xa hơn nữa là tác giả, hoàn cảnh sáng tác, là bối
cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội có liên quan đến tác phẩm; xa hơn nữa là
trào lưu sáng tác, giai đoạn văn học… Có thể minh họa điều này bằng
một ví dụ cụ thể. Trong trường hợp đề văn yêu cầu phân tích nhân vật Hộ
trong tác phẩm “Đời thừa” của nhà văn Nam Cao, thì trong phần mở bài
có thể chọn điểm xuất phát và từng bước dẫn vào như sau:
(1) Vị trí của Nam Cao trong trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt
nam thế ký XX, giai đoạn 1930-1945.
(2) Hai loại đề tài mà Nam Cao thường khai thác trong các sáng tác
trước năm 1945.
(3) “Đời thừa”- một thành công tiêu biểu của Nam Cao về đề tài người
trí thức nghèo.
(4) Nhân vật Hộ trong tác phẩm ít nhiều mang bóng dáng của nhà văn
Nam Cao.
Trên cơ sở xuất phát điểm đã xác định, người viết từng bước dẫn

vào đề bài bằng những câu trần thuật nêu nhận định, câu nghi vấn, hay
phối hợp câu trần thuật với câu nghi vấn.
Chẳng hạn, có thể viết mở bài về nhân vật Hộ như sau:
Nam Cao là một trong những đại biểu xuất sắc của văn học hiện thực phê
phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Ở giai đoạn văn học này nhà văn
tập trung vào hai đề tài chính: cuộc sống cùng quẫn, thê thảm của người
nông dân ở nông thôn và cuộc sống mòn mỏi, bế tắc của người trí thức
nghèo ở thành thị. Trong những truyện viết về người trí thức, có thể nói
“Đời thừa” là một thành công tiêu biểu. Nhân vật trung tâm của truyện là
nhà văn Hộ, một nhân vật ít nhiều mang bóng dáng của nhà văn Nam
Cao.
Nếu bài viết bàn về truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân, có thể chọn
điểm xuất phát và các bước dẫn vào đề bài:
(1). Kim Lân, một hiện tượng đặc biệt trong nền văn xuôi hiện đại Việt
Nam.
(2). “Vợ nhặt” một kiệt tác của Kim Lân và của nền văn xuôi Việt Nam
thế kỉ 20.
(3). Nạm đói năm Ất Dậu và hướng khai thác đề tài độc đáo, sáng tạo
của Kim Lân.
Trên cơ sở đó, có thể dẫn nhập:
Kim Lân là một hiện tượng đặc biệt trong nền văn xuôi Việt Nam
hiện đại. Cả cuộc đời cầm bút, ông viết không nhiều. Nhưng khi đề cập
đến thành tựu của truyện ngắn hiện đại Việt Nam, không ai không nghĩ
đến “Vợ nhặt” của ông, một kiệt tác văn xuôi của thế kỉ XX. Đề tài của
truyện là nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945, đã được nhà văn khai
thác một cách độc đáo, đầy sáng tạo.
Cũng có thể lấy ngay đề tài làm điểm xuất phát để dẫn nhập, nghĩa
là câu mở đầu của bài viết nêu lên nhận định về chính đề tài. Chẳng hạn
có thể vào “Vợ nhặt” như sau:
“Vợ nhặt” là một kiệt tác của Kim Lân, đồng thời cũng là kiệt tác

của nền văn xuôi thế kỉ XX.
Yêu cầu hàng đầu của việc dẫn nhập là “tự nhiên” và có “hướng
đích xác định”. CÇn tránh lối dẫn nhập màu mè, gượng ép hay phô
trương kiÕn thức một cách vô bổ mà không có giá trị thông tin.

2. Viết câu luận đề:

Nêu luận đề là bước nối tiếp dẫn nhập, nếu người viết muốn nêu
luận đề ngay trong phần mở bài. Luận đề có thể được nêu trong cả câu
luận đề hay một thành phần câu, một cơ nào đó. Câu luận đề có thể là câu
đơn, câu ghép, và là câu trần thuật, khẳng định, nêu lên một nhận định
khái quát, với hai thành tố nội dung cơ bản: Đối tượng và đặc trưng của
đối tượng. Yêu cầu cơ bản của câu văn này là phải bao quát được luận đề
và xác định về đối tượng và nội dung nhận định.
Chẳng hạn, có thể viết câu luận đề tiếp nối theo hai chuỗi câu dẫn
nhập ở trên tạo thành hai phần mở bài hoàn chỉnh
Mở bài 1:
Nam Cao là một trong những đại biểu xuất sắc của văn học hiện
thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Ở giai đoạn văn học này
nhà văn tập trung vào hai đề tài chính: cuộc sống cùng quẫn, thê thảm
của người nông dân ở nông thôn và cuộc sống mòn mỏi, bế tắc của người
trí thức nghèo ở thành thị. Trong những truyện viết về người trí thức, có
thể nói “Đời thừa” là một thành công tiêu biểu. Nhân vật trung tâm của
truyện là nhà văn Hộ, một nhân vật ít nhiều mang bóng dáng của nhà văn
Nam Cao. Qua cuộc đời của nhà văn Hộ, Nam Cao đã làm nổi bật lên sự
sa sút, thui chột về tài năng và nhân cách của người trí thức trong hoàn
cảnh bần cùng, bế tắc.
Mở bài 2:
Kim Lân là một hiện tượng đặc biệt trong nền văn xuôi Việt Nam
hiện đại. Cả cuộc đời cầm bút, ông viết không nhiều. Nhưng khi đề cập

đến thành tựu của truyện ngắn hiện đại Việt Nam, không ai không nghĩ
đến “Vợ nhặt” của ông, một kiệt tác văn xuôi của thế kỉ XX. Đề tài của
truyện là nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945, đã được nhà văn khai
thác một cách độc đáo, đầy sáng tạo.Qua sự kiện Tràng tình cờ nhặt được
vợ, Kim Lân đã làm nổi bật lên vấn đề giá trị, nhân phẩm của con người
và những phẩm chất tốt đẹp của người lao động cùng khổ trong hoàn
cảnh xã hội khủng hoảng, đen tối.
Ngoài cách nêu luận đề một cách rõ ràng xác định người viết có thể
nêu luận đề một cách lấp luẫn: có nói đến khái niệm vấn đề kèm theo sự
đánh giá nhưng không nói rõ nội dung của vấn đề là gì.
Trong phần mở bài, người viết còn có thể không nêu vấn đề, chỉ
dẫn nhặt bình thường hay dẫn nhập vào tình huống mang tính chất tranh
luận rồi bỏ lửng. Trong những trường hợp này, luận đề sẽ được người
viết khái quát lại nêu ra sau, ở cuối phần thân bài hay kết bài.
Chẳng hạn, có thể mở bài cho bài nghị luận phân tích truyện “Chí
Phèo” của Nam Cao: cách dẫn vào tình huống tranh luận về chủ đề của
tác phẩm này.
“Chí Phèo” là một kiệt tác của Nam Cao và là kiệt tác của nền văn
xuôi hiện đại Việt Nam. Thế nhưng cho đến nay, chung quanh chủ đề của
tác phẩm này, vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Có quan niệm cho
rằng chủ đề của “Chí Phèo” là sự tha hoá biến chất của một bộ phận nông
dân Việt Nam dưới ách áp bức, bóc lột cùng cực của bọn thực dân phong
kiến.(Hà Minh Đức chủ biên: “Lý luận văn học”- NXB Giáo Dục,
2000)
Quan niệm khác thì lại cho rằng: “Vẽ nên hình ảnh người nông dân
lưu manh đầy thú tính, Nam Cao không bôi nhọ nông dân, mà trái lại đã
đi sâu vào đời sống tâm hồn của nhân vật để phát hiện và khẳng định
nhân phẩm đẹp đẽ của người nông dân ngay trong khi họ bị rạch nát bộ
mặt người, giết chết tâm hồn người” (“Lịch sử văn học Việt Nam 1930-
1945”, tập V, phần I, NXB Giáo Dục, 1976). Lại có ý kiến khác nhận

định rằng, vấn đề mà Nam Cao đặt ra trong “Chí Phèo” là “bi kịch của
con người bị từ chối quyền làm người” (Nguyễn Văn Trung: “xây dựng
tác phẩm tiểu thuyết”, Sài Gòn, 1965), … Vậy, vấn đề sâu xa mà Nam
Cao muốn đặt ra trong “Chí Phèo” là gì?
Trong phần mở bài, nêu luận đề một cách rõ ràng, xác định, nêu lấp
lửng hay không nêu, điều đó chủ yếu là do ý đồ trình bày của người viết
và mỗi cách có lợi thế riêng

II. Kết quả và việc phổ biến ứng dụng vào thực tiễn.

Qua thực tế giảng dạy, với phương pháp như trên học sinh đã có
một bước tiến bộ rõ rệt. Những học sinh trung bình có khả năng viết văn
tốt hơn, những học sinh yếu viết được phần mở bài mạch lạc, sáng sủa.
Kết quả cụ thể ba lớp dạy của học kỳ I như sau:
-Kết quả khảo sát đầu năm:
+ Lớp 11B9 : 35% trên TB
+ Lớp 11B10 : 43 % trên TB
+ Lớp 11B11: 30 % trên TB
-Kết quả học kỳ I:
+ Lớp 11B9 : 48% trên TB
+ Lớp 11B10 : 53 % trên TB
+ Lớp 11B11: 45 % trên TB
-Kết quả học kỳ II:
+ Lớp 11B9 : 51% trên TB
+ Lớp 11B10 : 56 % trên TB
+ Lớp 11B11: 49 % trên TB



C. Kết thúc vấn đề.


Tóm lại, để học sinh viết tốt phần mở bài nói riêng và bài văn nghị
luận nói chung, không chỉ đòi hỏi phương pháp giảng dạy của người giáo
viên, mà năng khiếu, kỹ năng viết văn vốn có của học sinh là rất quan
trọng.
Tuy nhiên, phương pháp khoa học, phù hợp của giáo viên sẽ góp
phần không nhỏ trong việc nâng cao kết quả học tập của học sinh, nhất là
môn văn – một môn vừa đòi hỏi tư duy nhiều, vừa đòi hỏi năng khiếu
thiên bẩm của người học. Vì vậy theo tôi đây là một phương pháp rất bổ
ích giúp học sinh yếu, trung bình rèn luyện được cách viết văn – viết tốt
bài văn nghị luận.
Trên đây là một kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã áp dụng thành công
trong quá trình giảng dạy. Tôi hy vọng phương pháp nầy sẽ được phổ
biến và áp dụng thành công trong tương lai ở nhiều giáo viên khác. Tuy
nhiên, đó chỉ là mong muốn chủ quan của người viết. Giá trị đích thực
của phương pháp này là ở sự đánh giá, áp dụng vào thực tiễn của các bạn
đồng nghiệp. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân tình của
quý đồng nghiệp.

Xin chân thành cảm ơn !


Thạch Thành 17/5/2008
Người viết





Bùi Thị Thanh

×